Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Cậu bé Krishnamurti là ai?

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7194)
01. Cậu bé Krishnamurti là ai?

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

1

 ‘Cậu bé Krishnamurti là ai?’

Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi. Muốn một hiểu rõ về sự phát triển của anh, ít nhất cần phải có một chút hiểu biết về thuyết huyền bí của Theosophy mà đã nuôi dưỡng anh. Theosophical Society, hội Huyền bí học, mục đích của nó là ‘hình thành hạt nhân của một Tình Huynh Đệ Toàn Cầu của Nhân Loại, được thành lập ở Mỹ năm 1875 bởi một công nhân người Nga có khả năng thấu suốt vô hình, thực hiện những phép lạ đầy huyền bí và phi thường, Madame Helena Petrovna Blavatsky, và Đại tá Henry Steel Olcott, một cựu chiến binh thời Nội chiến Mỹ theo đuổi thuyết duy tâm và cũng quả quyết có khả năng thấu suốt vô hình. Hai người kỳ quặc này, mà vẫn còn là ‘những người bạn’ thân thiết, như Olcott diễn tả nó, trong phần còn lại của đời họ, đã tin tưởng quá nhiều truyền thống cổ xưa của phương Đông như là tín điều huyền bí của họ đến độ, năm 1882, họ chuyển những cơ quan đầu não của họ đến một khu vực rộng lớn tại Adyar, một vùng ngoại ô phía nam Madras, một địa điểm đẹp nhất nơi sông Adyar nhập vào Vịnh Bengal, có một trong những cây bồ đề lớn nhất ở Ấn độ và một dặm của hướng sông vươn dài đến một bãi biển cát trống. Ở đó những cơ quan chỉ huy quốc tế của Society vẫn còn đến bây giờ, với nhiều ngôi nhà được xây dựng thêm và nhiều đất đai được thêm vào, và từ đó chẳng mấy chốc phong trào lan tràn khắp thế giới.

 Để trở thành một hội viên của Society, không những cần phải khẳng định một niềm tin trong tình huynh đệ của nhân loại và sự bình đẳng của tất cả những tôn giáo, nhưng tâm điểm của Society là Esoteric Section Phần Chứng tỏ tâm linh, mà chức hội viên chỉ được trao tặng khi nào người xin gia nhập đã chứng thực sự thành thật và hữu ích của người đó đối với Society.

 Từ nguồn thông thái cổ xưa của vô số tôn giáo, Esoteric Section tin tưởng một giai cấp chức sắc của những sinh linh tinh thần vĩ đại, tạm gọi là Great White Brotherhood Tình huynh đệ thuần khiết vĩ đại. Bởi vì đã chấp nhận lý thuyết rằng nhân loại tiến hóa qua một loạt những cuộc đời (luân hồi) đến sự hoàn hảo tột đỉnh (mà cuối cùng mỗi con người sẽ đạt được, dù phải mất bao nhiêu cuộc đời), không khó khăn gì lắm để tin tưởng rằng những con người đang ở trong những chặng đường tiến hóa, hay trong tạm gọi là những Bậc Thầy. Những Bậc Thầy là những sinh linh hoàn hảo mà, đã giải thoát khỏi vòng quay của nghiệp lực, luật bất biến mà qua đó chúng ta gặt cái gì chúng ta gieo, cả tốt lành lẫn xấu xa, qua một chuỗi của những cuộc đời, đã quyết định vẫn còn liên hệ với nhân loạimục đích giúp đỡ họ trên con đường tiến hóa. Có nhiều Bậc Thầy nhưng hai người được nói đã thâu nhận Theosophical Society dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ là Thầy Morya và Thầy Kuthumi. Trong thời gian Madame Blavatsky còn sống, những Bậc Thầy này được tin tưởng đã sống gần gũi nhau, mang những thân thể tuyệt đẹp trong một khe núi ở Tây tạng và từ đó họ thường hiện ra để du hành trong những vùng đất khác nhau của thế giới. Họ cũng có thể hóa thành thân thể vật chất trong khi vẫn còn ở Tây tạng và giao tiếp bằng những lá thư vật chất với những người lãnh đạo của Society.[1] Madame Blavatsky khẳng định đã sống cùng những Bậc Thầy trong nhiều tháng ở Tây tạng, được Thầy Morya dạy cho lời giảng huyền bí mà bà đã luôn luôn ao ước và sau đó bà trao lại cho thế giới qua những quyển sách đồ sộ của bà, Isis Unveiled Nữ thần Isis được tiết lộ, The Secret Doctrine Tín điều Bí mật, cũng như qua Esoteric Section.1

 Cao hơn những Bậc Thầy trong giai cấp chức sắc của những sinh linh tinh thần là Chúa Maitreya, Đấng Bồ tát, mà những người huyền bí học đã tin tưởng tại thời điểm ‘sự phát hiện’ Krishnamurti năm 1909, chẳng mấy chốc sẽ chuyển qua một phương tiện con người được chuẩn bị đặc biệt cho Ngài, chính xác như trước đây hai ngàn năm Ngài đã chuyển qua thân thể của Jesus để thành lập một tôn giáo mới. Bồ tát đã hiện thân dưới dạng người khi thế giới có một nhu cầu đặc biệt về Ngài. Trên Ngài trong giai cấp chức sắc thậm chí còn có những sinh linh vĩ đại hơn, kể cả Phật.2

Madame Blavatsky chết năm 1891, và khi Chủ tịch đầu tiên của Theosophical Society, Đại tá Olcott chết năm 1907, Mrs Annie Besant được tuyển chọn là Chủ tịch và sau đó chuyển đến ở tại Adyar. Bà và người cộng sự chính, Charles Webster Leadbeater (một giáo sĩ nước Anh thuộc giáo hội cũ và môn đồ của Madame Blavatsky), cả hai đều có khả năng tiên tri, mặc dù sau đó Mrs Besant đã từ bỏ những quyền năng huyền bí của bà khi bà hiến dâng hầu hết những năng lực của bà cho chính nghĩa của Nền Tự trị ở Ấn độ. Cả Mrs Besant và Leadbeater đều khẳng định có sự liên hệ gần gũi với những Bậc Thầy. Tuy nhiên chính Leadbeater, người đã trở thành người trung gian cho Bậc Thầy riêng của ông, Kuthumi (Bậc Thầy của Mrs Besant là Morya), đang thực hiện những chỉ thị của Ngài và hướng dẫn những môn đồ trần tục của Ngài trên Con đường huyền bí của hành trình môn đồ. Những Bậc Thầy sẵn sàng tuyển chọn những môn đồ nếu họ đã tiến hóa đầy đủ. Những Bậc trên Con đườngThử thách, Thừa nhận, và tiếp theo bốn Khai tâmđạt được tột bậc trong bậc thứ năm, Tinh thông, mà là đạt được sự hoàn hảo, niết bàn.

Theo Leadbeater, những Bậc Thầy vẫn còn sống trong cùng khe núi ở Tây tạng, trong cùng những thân thể mà Madame Blavatsky đã biết họ, được giữ gìn một cách kỳ diệu để không bị lão hóa. Tuy nhiên họ không còn rời thung lũng nữa, nhưng có thể được viếng thăm trên tầng tinh thần trong những ngôi nhà của họ.3 Leadbeater sẽ đưa những thí sinh chấm điểm cho hành trình môn đồ trong tâm thức của họ, trong khi ngủ say, đến nhà của Bậc Thầy Kuthumi và sau đó thông báo cho họ vào buổi sáng rằng liệu họ đã thành công hay chưa trong việc đạt được những Bậc trên Con đường mà họ khao khát. Người ta có thể tưởng tượng Leadbeater có được quyền lực đến mức độ nào khi sử dụng nó trong nhóm người của ông, mà tin tưởng rất mãnh liệt vào ông và sự tồn tại của những Bậc Thầy lẫn những sinh linh thiêng liêng khác mà họ đã được bảo cho biết, và sự trung thành của họ gây ra sự hợm hĩnh và ganh tị đến mức độ nào. Leadbeater khẳng định rằng cả ông lẫn Mrs Besant đều tiến hóa cao đến mức độ họ đã đạt được bậc thứ tư của họ, hay chứng quả A la hán bậc tu hành đắc đạo, bậc khai tâm trước thời gian Krishnamurti đến Adyar.

Jiddu Krishnamurti được sinh ra ngày 11 tháng năm 1895,[2] tại Madanapalle, một thị trấn trên quả đồi nhỏ giữa Madras và Bangalore. Cha anh, Jiddu Narianiah, đã kết hôn với một người em họ, Sanjeevamma, và đã sinh cho ông mười người con, Krishnamurti là con thứ tám. Gia đình Ba la môn ăn chay nghiêm ngặt, nói tiếng Telegu này không sống vượt ngoài những khuôn mẫu của Ấn độ, Narianiah là một viên chức ở Revenue Department of the British Administration Bộ Ngân khố của chính quyền thuộc địa Anh, trước khi về hưu lên đến chức vụ District Magistrate Quan tòa địa phương. Narianiah là một người Huyền bí học và Sanjeevamma là một người tôn thờ Sri Krishna, chính ông là người con thứ tám mà sau đó bà cũng đặt tên cho người con thứ tám riêng của bà.

Sanjeevamma có một linh cảm rằng người con thứ tám này chắc chắn sẽ phi thường trong cách nào đó và quả quyết, bất kể những phản đối của chồng bà, rằng nó phải được sinh ra trong phòng đọc kinh nghi thức. Một tác giả Ba la môn đã giải thích rằng phòng cầu nguyện này thông thường chỉ có thể cho phép vào sau một nghi lễ tẩy rửa và mặc quần áo sạch sẽ: ‘Sanh, chết và chu kỳ kinh nguyệt là trọng tâm của sự ô nhiễm nghi thức . . . rằng một đứa trẻ phải được sinh ra trong căn phòng này là điều không thể tưởng tượng được.’4tuy nhiên điều đó lại được thực hiện.

Không giống như những lần sinh sản khác của Sanjeevamma, nó là một ca sinh sản dễ dàng. Sáng hôm sau một lá số tử vi của đứa bé được tiên đoán bởi một người chiêm tinh nổi tiếngbảo đảm với Narianiah rằng cậu con trai của ông chắc chắn sẽ là một con người vĩ đại. Trong nhiều năm có vẻ rằng sự tiên đoán của người chiêm tinh không thể thành tựu được. Bất kỳ lúc nào người chiêm tinh thấy Narianiah ông ấy thường hỏi, ‘Cậu bé Krishna là ai? . . . Chờ đó. Tôi đã bảo cho ông biết sự thật; cậu bé sẽ là người nào đó rất tuyệt vời và vĩ đại.’

Vào lúc hai tuổi Krishna gần như chết vì bệnh sốt rét. Vì thế, trong nhiều năm, cậu phải chịu đựng những cơn sốt rét và chảy máu cam dữ dội khiến cậu không đến trường được nhưng lại gần gũi mẹ nhiều hơn những người con khác. Cậu thích đi cùng mẹ đến ngôi đền. Cậu là một đứa trẻ rất mơ mộng và lơ đãng, học hành rất dở, và cậu cũng rất ghét, đến độ cậu được những giáo viên nhận xét là chậm phát triển trí óc. Dẫu vậy, cậu lại tinh ý cực kỳ, giống như cậu đã là như thế suốt cuộc đời. Cậu thường đứng liên tục thật lâu, nhìn cây cối và những đám mây, hay ngồi chồm hổm để nhìn chăm chăm vào những bông hoa hay những con côn trùng. Cậu cũng có một bản tính rất rộng lượng, một nét đặc trưng khác mà cậu mang theo suốt đời. Cậu thường trở về nhà không có bút chì, bảng đá đen hay sách vở, bởi vì đã đưa chúng cho một đứa trẻ nghèo hơn; và khi theo tập quán mỗi buổi sáng những người ăn mày đến nhà xin gạo và mẹ sai cậu ra phát gạo, cậu thường quay vào để xin thêm nữa vì đã trút tất cả gạo vào cái bị của người ăn mày đầu tiên. Khi họ đến lại vào mỗi buổi chiều để xin thức ăn đã nấu chín và những người giúp việc xua đuổi họ đi, Krishna chạy vào trong nhà lấy thức ăn ra cho họ. Nếu Sanjeevamma thết đãi con cái mứt kẹo đặc biệt, Krishna thường chỉ nhận một ít phần được chia và cho anh em của cậu phần còn lại.

Krishna có một đặc điểm khác trong tính cách của cậu mà vẫn còn theo cùng cậu và có vẻ mâu thuẫn lạ lùng với bản tính mơ mộng của cậu – một tình yêu máy móc. Đầu tiên điều này được tự phơi bày khi cậu tháo rời chiếc đồng hồ của cha cậu để tìm hiểu cách vận hành của nó và không chịu đi học lẫn ăn uống cho đến khi đã ráp nó lại hoàn chỉnh mà, nó có vẻ, cậu thành công khi làm được.

Có một mối ràng buộc giữa Krishna và người em của cậu Nityananda (Nitya), kém cậu ba tuổi. Nitya rất lanh lẹ và thông minh ở trường ngược lại Krishna quá lơ đãng và không thể dạy cậu học được, và khi họ lớn lên Krishna mỗi lúc lại phụ thuộc vào cậu em nhỏ này.

Năm 1904 người chị đầu của Krishna chết, một cô gái hai mươi tuổi có một bản tính rất duy tâm. Chỉ sau cái chết của người chị, lần đầu tiên Krishna bộc lộ khả năng thấu suốt vô hình: cả cậu và mẹ thường thấy người chị đã chết tại một nơi đặc biệt trong vườn. Tuy nhiên, năm sau khi Krishna mười tuổi rưỡi, một thảm kịch còn tồi tệ hơn xảy đến cho gia đình: chính người mẹ Sanjeevamma qua đời. Krishna thấy mẹ sau khi chết thậm chí còn rõ ràng hơn cậu đã thấy người chị của cậu, một sự thật mà Narianiah khẳng định.[3] 

 Khi Narianiah bị bắt buộc về hưu vào cuối năm 1907, năm mươi hai tuổi cùng tiền hưu chỉ bằng một nửa tiền lương trước, ông đã viết cho Mrs Besant xin phép được phục vụ bằng bất kỳ khả năng nào tại Adyar. (Mặc dù là một người Ba la môn chính thống, ông đã là hội viên của Theosophical Society từ năm 1882; Theosophy thừa nhận tất cả mọi tôn giáo.) Ông nói với bà rằng ông là một người góa vợ với bốn cậu con trai có tuổi từ mười năm đến năm, và bởi vì người con gái duy nhất của ông đã lập gia đình nên không có ai ngoại trừ ông chăm sóc các cậu con. (Bởi vì Krishna là người con thứ tám, và có hai cậu em và một người chị còn sống, bốn người con khác chắc đã chết ngoài người chị gái hai mươi tuổi ra.) Mrs Besant khước từ xin phép của ông trên lập luận rằng trường học gần nhất cách đó ba dặm và những cậu trai sẽ là một ảnh hưởng gây náo động trong khu vực. May thay, Narianiah nài nỉcuối cùng được cho một công việc là một thư ký trợ tá. Ông dọn đến Adyar cùng các cậu con trai của ông vào 23 tháng giêng 1909. Vì không có nhà sẵn trong khu vực, gia đình được cho ở tại một nhà tranh xiêu vẹo ngay bên ngoài, không có phương tiện vệ sinh trong nhà. Các cậu con đến đây trong điều kiện thân thể kinh hoàng.

 Chị của Narianiah, đã cãi cọ với người chồng, đến chăm sóc nhà cửa trong một thời gian, nhưng có vẻ chị ấy là một phụ nữ không đảm đang và là một người nấu nướng rất dở. Cậu trai cả, Sivaram, muốn là một bác sĩ, vào học tại Presidency College ở Madras trong khi Krishna, chưa tròn mười bốn, và Nitya, cũng được sinh ra vào tháng năm, chưa tròn mười một, mỗi ngày đi bộ sáu dặm để đến và về từ Pennathur Subramanian High School tại Mylapore nơi Krishna bị đánh đập hầu như mỗi ngày vì ngu dốt. Cậu em nhỏ, năm tuổi, cả thân thể lẫn tinh thần chưa vững vàng để đi học và bị khiếm khuyết trí nhớ suốt đời.

 Năm 1906, khi Leadbeater năm mươi sáu tuổi, ông bị liên quan đến một vụ tai tiếng tình dục đã gây chia rẽ Theosophical Society khắp thế giới. Giữa 1900 và 1905 ông thực hiện những chuyến giảng thuyết dài ở Mỹ, Canada, Úc, làm những lễ cải đạo để gia nhập Theosophy và đưa ra những chỉ dẫn đặc biệt cho những cậu trai sắp đến tuổi trưởng thành (ông đã gây được một tiếng tăm tốt như một giáo viên dạy riêng). Lúc đó hai cậu trai ở Chicago thú tội với cha mẹ chúng, mà không có, rõ ràng, bất kỳ kết luận nào, rằng ông đã khuyến khích các em trong thói quen thủ dâm. Điều này xảy ra tại thời điểm khi đồng tình luyến ái không chỉ gây kinh tởm cho công chúng mà sự thủ dâm còn được nghĩ là dẫn đến điên khùngmù lòa.[4] Buồn bực ghê lắm, Mrs Besant viết cho Leadbeater khi nghe điều này, vì một trong những đòi hỏi cốt yếu cho sự khai tâm là phải có sự trong trắng tuyệt đối về tình dục. Leadbeater trả lời rằng ông ủng hộ sự thủ dâm trong những trường hợp nào đó như một việc xấu xa nhưng lại ít gây nguy hại hơn sự ám ảnh đầy tội lỗi bởi những ý nghĩ tình dục; dẫu vậy ông hứa sẽ không bao giờ ủng hộ thói quen đó trong Theosophical Society – bởi vì lợi ích của Bà, không phải bởi vì ông không tin tưởng nó.

Leadbeater được yêu cầu có mặt tại cuộc họp Hội đồng ở Grosvenor Hotel, Luân đôn vào ngày 16 tháng năm 1906. Trước khi dự cuộc họp, ông đệ trình đơn xin thôi việc của ông khỏi Society. Để tránh công luận, Đại tá Olcott, Chủ tịch ở Ấn độ, đã chấp nhận đơn thôi việc của ông, tạo ra sự căm phẩn cực độ của nhiều hội viên muốn trục xuất ông, bởi vì ông đã không tự bào chữa. Sau tai tiếng đó, Leadbeater sống yên lặng trong vùng thôn quê, ở nước Anh hay ở Jersey, được gần ba năm, với thỉnh thoảng những chuyến đi đến lục địa Châu âu, giảng dạy riêng và được giúp đỡ tài chánh bởi nhiều bạn bè mà ông đã giữ lại tại Society. Hầu hết những học trò cũ của ông đều bảo đảm cho sự trong sạch của ông. Khi Mrs Besant được bầu làm Chủ tịch bởi một đa số người tháng sáu 1907, sau một cuộc vận động rầm rộ, bà thành công khi được cho phép ông gia nhập lại Society vào cuối năm 1908, mặc dù ông không bao giờ nắm lại bất kỳ chức vụ chính thức nào. Lúc này bà yêu cầu ông đến Ấn độ nơi bà cần sự trợ giúp của ông. Vào ngày 10 tháng hai 1909 ông đến Adyar, muộn hơn ba tuần sau khi Narianiah đã ổn định ở đó cùng Krishna và anh em của cậu.

Leadbeater đến sống tại ngôi nhà tạm gọi là Octagon River Bungalow nhỏ gần tòa nhà của Bộ Chỉ huy. Công việc chính của ông là giải quyết lượng thư từ đồ sộ gửi đến mỗi ngày từ khắp thế giới. Ông đã mang theo một người thư ký, một người Hà lan trẻ, Johann van Manen, và rất tri ân sự trợ giúp công việc thư ký phụ thêm từ một người Anh trẻ, Ernest Wood, biết tốc ký và đã ở Adyar được ba tháng, đang làm việc cho tờ tuần báo Theosophist. Trong phòng kế cận phòng của Wood, trong những căn phòng cho thuê rẻ tiền, là một người Ấn độ trẻ, Subrahmanyam Aiyar, mà là một người bạn của Narianiah. Hai người này đã gặp Krishna và Nitya và đang giúp đỡ hai cậu làm bài tập về nhà.

Nó đã trở thành một thói quen cho Van Manen, Wood và Subrahmanyam để đi xuống bãi biển tắm mỗi buổi chiều nơi Krishna và Nitya, cùng vài đứa trẻ khác sống bên ngoài khu vực, thường được tìm thấy đang nô đùa khỏa nước. Vào một ngày Van Manen gợi ý cho Leadbeater rằng ông phải đi với họ vì Van Manen tin rằng một trong những đứa trẻ có lẽ gây hứng thú cho ông. Leadbeater đi xem thử và ngay tức khắc chọn ra Krishna mà, ông nói, có hào quang lạ thường nhất mà ông đã từng thấy, không một chút ích kỷ trong đó; ông tiên đoán với Wood rằng ngày nào đó cậu bé này sẽ trở thành một người thầy tinh thần vĩ đại. Wood kinh ngạc lắm, bởi vì, đã giúp đỡ Krishna bài tập về nhà của cậu, ông đánh giá cậu là siêu dốt nát.

 Chẳng bao lâu sau khi thấy Krishna trên bãi biển, Leadbeater yêu cầu Narianiah đưa cậu bé đến bungalow của ông vào một ngày nghỉ học. Narianiah thực hiện việc này. Leadbeater chỉ Krishna ngồi cạnh ông, đặt tay của ông trên đầu cậu bé và bắt đầu thao thao những đời trước của cậu bé. Về sau, vào những ngày thứ bảy và chủ nhật, những chuyến viếng thăm và liên lạc của những cuộc đời quá khứ tiếp tục, được viết ra bởi Narianiah mà, thoạt đầu, luôn luôn hiện diện, và sau đó bởi Wood bằng tốc ký. Cái tên được đặt cho Krishna suốt những cuộc đời là Alcyone[5]. Ngày tháng của gặp gỡ đầu tiên với Krishna của Leadbeater ở Octagon Bungalow không chắc chắn lắm nhưng, bởi vì Mrs Besant đã rời Adyar vào ngày 22 tháng tư để thực hiện một chuyến giảng thuyết ở Mỹ và chắc chắn đã không nghe bất kỳ điều gì về cậu bé, chuyện này có thể xảy ra sau ngày tháng đó.

Nếu nhận xét về những khuynh hướng đồng tính luyến ái của Leadbeater, người ta phải lưu ý rằng ông không bị hấp dẫn bởi hình dáng bên ngoài của Krishna, ngoại trừ đôi mắt, nhìn rất cuốn hút tại thời điểm đó. Cậu bé gầy dơ xương, suy dinh dưỡng, đầy vết muỗi cắn và thậm chí có cả chí rận trong lông mày, răng không đều và tóc cậu cạo láng đến đỉnh đầu và xõa xuống thành bím ở sau lưng. Ngoài ra, cậu có một biểu lộ lơ đãng mà gần như tạo cho cậu một cái nhìn khờ dại. Những người biết cậu lúc đó đã nói rằng không có gì để chọn lựa giữa cậu và Sadanand. Theo Wood, thân thể của cậu yếu ớt đến độ người cha đã nhiều lần tuyên bố cậu chắc chắn chết. (Chính Krishna sau này cũng nói chắc chắn cậu phải chết nếu Leadbeater không ‘phát hiện’ cậu.)

 Chúng tamiêu tả riêng của Krishna về cuộc gặp gỡ đầu tiên của cậu với Leadbeater, được viết vài năm sau:

 Khi lần đầu tiên tôi đi đến phòng của ông ấy tôi sợ hãi lắm, bởi vì hầu hết những cậu trai Ấn độ đều sợ hãi người Châu âu. Tôi không biết tại sao sự sợ hãi được tạo ra, nhưng ngoại trừ những khác biệt về màu da, mà không nghi ngờ gì cả là một trong những nguyên nhân của sự sợ hãi, khi tôi còn bé, có nhiều sự ủng hộ công khai về chính trị và những tưởng tượng của chúng tôi bị kích động nhiều bởi những đồn đại về chúng tôi. Tôi cũng phải thú nhận rằng những người Châu âu ở Ấn độ thông thường không khi nào tử tế với chúng tôi và tôi thường bắt gặp nhiều hành động thô bạo đã làm cho tôi càng đau xót hơn. Vì vậy, đối với chúng tôi thật ngạc nhiên khi trông thấy những người Anh này, mà cũng là những người huyền bí học, 5 cư xử khác biệt đến chừng nào.

 

 Ngay sau khi những cuộc họp nội bộ bắt đầu ở Octagon Bungalow. Leadbeater nói với Wood rằng cậu bé này sẽ là phương tiện cho Chúa Maitreya (hay World Teacher Thầy Thế giới như cậu thường được gọi) và rằng ông, Leadbeater, đã được chỉ thị bởi Bậc Thầy Kuthumi để giúp đỡ đào tạo cậu cho sứ mạng đó.6

Leadbeater dường như đã quên bẵng hay đã không lưu tâm đến sự việc rằng ông đã chọn một phương tiện – một cậu bé đẹp trai, Hubert, con trai của Dr Weller van Hook ở Chicago mà đã là một trong những người ủng hộ trung thành của ông tại thời gian bị tai tiếng. Tại một buổi giảng thuyết trước công chúng ở Chicago về chủ đề ‘Người Thầy sắp đến’, trong suốt chuyến đi giảng thuyết ở Mỹ, Mrs Besant tuyên bố: ‘Chúng ta mong chờ Ngài hiện raThế giới phương Tây vào thời điểm này – không phải ở phương Đông như Đấng Christ đã hiện ra cách đây hai ngàn năm.’ Leadbeater đã chọn Hubert ở Chicago, khi cậu ấy mười một tuổi; Mrs Besant đã gặp cậu ấy ở Châu âu năm 1907 và bây giờ, gặp lại cậu ấy năm 1909, bà thuyết phục người mẹ đưa cậu ấy đến Adyar để được đào tạo bởi Leadbeater. Nguời mẹ và cậu ấy đến đó giữa tháng mười một, chẳng có mấy ngờ vực rằng Hubert đã bị thay thế.[6]

 Chẳng bao lâu sau Leadbeater thuyết phục Narianiah cho Krishna và Nitya nghỉ học và cho phép các em được giáo dục dưới sự trông nom của ông trong khi vẫn sống cùng người cha của các em. (Krishna không chịu làm bất kỳ điều gì mà không có Nitya.) Bốn giáo viên kèm riêng được giao quyền giáo dục các em, cùng với chính Leadbeater dạy các em môn lịch sử – Ernest Wood, Subrahmanyam Aiyar, Don Fabrizio Ruspoli (người đã từ chức ở hải quân Ý khi ông trở thành một người huyền bí học) và Dick Clarke, một người mới đến Adyar mà trước kia là một kỹ sư. Nhưng môn học quan trọng nhất được dạy là tiếng Anh để cho các cậu có thể nói chuyện với Mrs Besant khi bà trở lại Adyar. Họ đã biết khá nhiều về tiếng Anh nên không thấy môn học này khó lắm. Chẳng mấy chốc họ quên tiếng Telegu bản xứ của họ và bất hạnh thay, lại không được dạy bất kỳ ngôn ngữ Ấn độ nào khác.

 Dick Clarke cũng được giao nhiệm vụ lo ăn mặc chỉnh tề cho Krishna và Nitya. Các cậu được khử chấy rận và đưa cho quần áo sạch mỗi buổi sáng; mái tóc của các cậu được cho phép để dài phía trước và được cắt đến ngang vai, và răng của Krishna được làm ngay ngắn bằng một bản kim loại mà Clarke phải xiết chặt mỗi ngày. Ngoài bốn giáo viên dạy kèm của các em, John Cordes, một người Úc đang sống tại Adyar, chịu trách nhiệm cho việc tập luyện thể chất cho các em. Nhưng chính Leadbeater giám sát việc tắm rửa của các em, bảo đảm rằng các em được rửa ráy sạch sẽ giữa hai chân. Ông chỉ trích nghi thức của người Ấn độ khi tắm mà vẫn mang một miếng khố. Vận độngthực phẩm đủ chất dinh dưỡng được yêu cầu – những chuyến đi xe đạp dài, bơi lội, quần vợt, tập thể dục. Krishna thích những hoạt động ngoài trời này – cậu là một vận động viên bẩm sinh – nhưng cậu vẫn còn vô hy vọng với những bài học. Thay vì chú ý đến những giáo viên, cậu thường đứng bên cạnh cửa sổ rộng, miệng há to, đặc biệt nhìn mà không nhìn vào thứ gì cả. Cậu luôn được Leadbeater bảo ngậm chặt miệng lại. Cậu vâng lời nhưng ngay lập tức lại há to. Cuối cùng vào một ngày Leadbeater cáu tiết đến độ ông vả vào cằm của cậu. Việc này, Krishna sẽ bày tỏ về sau, chấm dứt sự liên hệ của họ. Miệng của cậu ngậm chặt nhưng Krishna không bao giờ cảm thấy như cũ với Leadbeater nữa.

 Leadbeater thậm chí còn quan tâm đến nhiệm vụ đào tạo huyền bí hơn là việc đào tạo sức khỏe thân thể của các em. Vào đêm ngày mùng một tháng tám ông đưa các cậu trong những tâm linh của các cậu trong khi ngủ say đến nhà của Bậc Thầy Kuthumi để đưa các cậu vào giai đoạn thử thách, và sau đó, suốt năm tháng kế tiếp trước khi Krishna được chấp nhận. Leadbeater đưa cậu bé trong hình dáng tâm linh của cậu đến Bậc Thầy để nhận sự dạy dỗ trong mười lăm phút, tại cuối sự dạy dỗ Bậc Thầy sẽ tóm tắt sự dạy dỗ của Ngài trong một vài câu đơn giản. Sáng hôm sau tại Octagon Bungalow, Krishna sẽ viết ra điều gì cậu nhớ được từ những lời dạy dỗ của Bậc Thầy. Cả Dick Clarke và một phụ nữ đang sống tại Adyar đều bảo đảm sự thật rằng những lời dạy dỗ này được viết ra bởi chính Krishna bằng sự siêng năng vô hạn và rằng sự trợ giúp duy nhất mà cậu nhận được là sửa lỗi chính tả và chấm câu. Sau đó những lời dạy dỗ này được sắp xếp thành một quyển sách nhỏ, At the feet of the Master Tại chân Thầy bởi Alcyone, mà đã được dịch thành hai mươi bảy ngôn ngữ và vẫn còn được in ra. Alcyone đã viết trong lời tựa: ‘Đây không là những từ ngữ của tôi; đây là những từ ngữ của Bậc Thầy đã dạy dỗ tôi.’

 Vào ngày 17 tháng mười một 1909 Mrs Besant trở lại Ấn độ và Krishna gặp bà lần đầu tiên. Đó là một khởi đầu của một tình yêu vĩnh cửu giữa hai người. Leadbeater đã viết cho bà ở Châu âu trên chuyến đi trở lại để kể cho bà về những cuộc đời của Alcyone mà ông đã tìm hiểu, nhưng chỉ đến khi có mặt tại Adyar thì bà mới hiểu rõ được những mong đợi của ông cho cậu bé này. Trong suốt ba tuần lễ bà ở lại Adyar trước khi đến Benares để dự Hội nghị của Huyền bí học,[7] hai cậu bé ở trong phòng của bà tại Bộ Chỉ huy mỗi ngày, nơi bà đưa cho các cậu những bài học đọc. Bà có khả năng xoa dịu những xung đột đang gia tăng giữa Narianiah và Leadbeater, mà đã không còn đủ sự kiên nhẫn bởi sự phản kháng của người cha về việc các con của ông mỗi lúc một bị tách khỏi ảnh hưởng của ông. Bà sắp xếp, với sự ưng thuận của Narianiah, rằng khi bà ở Benares các cậu bé được phép ở trong phòng bà tại khu Bộ Chỉ huy

 Vào ngày 31 tháng mười hai, Leadbeater gửi điện văn cho bà nói rằng Bậc Thầy Kuthumi đã thể hiện ý muốn rằng Thầy sẽ thâu nhận Krishna là học trò của Thầy vào đêm đó và liệu bà sẽ vui lòng hiện diện.7 Ngày hôm sau bà gửi cho Leadbeater những nhớ lại về nghi thức đó của bà và yêu cầu ông khẳng định liệu đúng thực rằng Chúa Maitreya đã trao Krishna cho bà và Leadbeater chịu trách nhiệm dạy dỗ. Leadbeater trả lời: ‘Đúng thực rằng Chúa Maitreya đã trang trọng trao Krishna cho chúng ta dạy dỗ nhân danh Brotherhood Huynh đệ. Krishna đã cảm kích sâu sắc và đã khác hẳn kể từ đó.’

 Nhưng chẳng mấy chốc một sự kiện còn lý thú hơn đã xảy ra. Vào ngày 8 tháng giêng năm 1910, có một trao đổi những bức điện văn đầy xúc động. Leadbeater gửi cho Mrs Besant ở Benares: ‘Sự khai tâm được sắp xếp vào ngày mười một. Surya (biệt hiệu của Chúa Maitreya trong quyển Những cuộc đời của Alcyone) đích thân sẽ hành lễ. Sau đó được sắp xếp thăm Shamballa.[8] Bao gồm ba mươi sáu tiếng đồng hồ sống cách ly.’ Điện văn trả lời tức khắc: ‘Đóng (phòng) Shrine Điện thờ và hành lang của tôi khóa cửa cầu thang cho thời gian được yêu cầu. Sử dụng phòng của tôi, phòng thư ký của tôi và phòng của bà Lubke[9] khi được yêu cầu. Ông có thẩm quyền về mọi việc.’

 

 Từ tối thứ hai ngày 10 tháng giêng cho đến sáng ngày mười hai, Krishna và Leadbeater được đóng kín trong phòng của Mrs Besant với Nitya hay Dick Clarke thức canh liên tục bên ngoài cửa. Clarke ghi lại rằng Leadbeater và Krishna đã duy trì ‘rời khỏi những thân thể của họ trong suốt những thời điểm tốt nhất của hai đêm và một ngày, quay lại thân thể rất thỉnh thoảng và sau đó chỉ khi nào ưa thích, nhưng vừa đủ để hấp thụ sự nuôi dưỡng (đa phần là sữa ấm) mà chúng tôi cung cấp tại chỗ nghỉ của họ.’ Krishna nằm trên giường của Mrs Besant và Leadbeater nằm trên sàn nhà.8

 Theo Leadbeater, trong một lá thư gửi Mrs Besant, Krishna thức giấc vào sáng ngày 11, la lớn, ‘Con nhớ! Con nhớ!’ Leadbeater yêu cầu cậu kể lại cho ông tất cả mọi điều mà cậu đã nhớ lại và những nhớ lại này được viết ra vào ngày 12 trong một lá thư rất dài gửi đến Mrs Besant. Leadbeater bảo đảm với bà rằng lá thư này là những từ ngữ riêng của Krishna, ngoại trừ vài giúp đỡ về các thì và thêm vào một từ ngữ đó đây của ông. Như được ghi lại của Krishna, Bậc Thầy Morya hiện diện tại nhà của Bậc Thầy Kuthumi cũng như Mrs Besant và Leadbeater; sau đó tất cả họ đi cùng nhau đến nhà của Chúa Maitreya nơi nhiều Bậc Thầy khác hiện diện. Krishna được dẫn đến trước mặt Chúa Maitreya bởi những người đỡ đầu của cậu, Mrs Besant và Leadbeater, và, bởi vì đã trả lời đúng những câu hỏi được đặt ra cho cậu, cậu được hoan nghênh vào Great White Brotherhood Huynh đệ Thuần khiết Vĩ đại. Đêm sau cậu được dẫn đến gặp Hoàng đế của Thế giới, và như cậu đã viết, ‘đó là trải nghiệm tuyệt vời nhất cho tôi trong tất cả mọi việc bởi vì Ngài là một cậu bé không lớn tuổi hơn tôi nhiều lắm, nhưng là người đẹp trai nhất mà tôi đã từng gặp, mọi thứ đều rực sáng và lộng lẫy, và khi Ngài mỉm cười nó giống như mặt trời. Ngài mạnh mẽ giống như biển cả, đến độ không thứ gì có thể đứng đối diện Ngài, và tuy nhiên Ngài không là gì cả ngoại trừ tình yêu, đến độ tôi không có chút mảy may sợ hãi Ngài.’9

 Khi Krishna xuất hiện từ phòng của Mrs Besant, mọi người đang chờ đợi phủ phục trước cậu. Chắc chắn rằng khi nhìn từ bức ảnh được chụp trực tiếp sau đó, cậu đã có được trải nghiệm rất lạ thường nào đó. Cậu không nhớ được bất kỳ việc gì trong tất cả những việc xảy ra này trong những năm sau ngoại trừ việc gì những người khác đã kể cho cậu.

 Vào tháng ba, Narianiah đồng ý nhường lại trách nhiệm bảo hộ hợp pháp của hai cậu con cho Mrs Besant. Bà chuyển các cậu đến phòng kế cận phòng riêng của bà mặc dù các cậu tiếp tục có những bài học tại Octagon Bungalow. Tháng chín Mrs Besant đưa các cậu đến Benares nơi các cậu ở cùng bà tại nhà riêng, Shanti – Kunja. Krishna chọn ra năm người từ nhóm môn đồ đặc biệt của bà và xin phép liệu cậu có thể chỉ dẫn cho họ những phẩm chất của môn đồ giống như cậu được dạy bởi Bậc Thầy Kuthumi. Trong số năm người này là George Arundale, Hiệu trưởng ba mươi hai tuổi của Central Hindu College tại Benares, và E. A. Wodehouse, Giáo sư tiếng Anh ở đó, người anh của P. G. Wodehouse. Mrs Besant, hài lòng về sự thỉnh cầu, viết cho Leadbeater: ‘Thật tốt lành khi thấy cậu bộc lộ ra, phước lành cho cậu . . . Cậu phát triển rất nhanh, và không thể hiện dấu hiệu của nhút nhát hay rụt rè, nhưng một phẩm cách chững chạcnhân từ . . . những môn đồ, George (Arundale) trông hoàn toàn là lạ.’ Chính Krishna yêu cầu Leadbeater gửi cho cậu những ghi chú mà cậu đã viết về lời dạy của Bậc Thầy.[10]

 Wodehouse viết về Krishna tại thời điểm này ở Benares:

Điều gì đặc biệt gây tác động chúng tôi là sự tự nhiên của cậu . . . không có một dấu hiệu của bất kỳ loại làm bộ làm tịch hay giả vờ nào. Cậu vẫn còn thuộc một bản chất của nhút nhát, nhún nhường và kính trọng những người lớn và nhã nhặn với tất cả mọi người. Ngoài ra, đối với những người mà cậu ưa thích, cậu thể hiện một loại tình cảm thiết tha, mà có sức lôi cuốn khác thường. Về vị trí ‘huyền bí’ của cậu, dường như cậu hoàn toàn không ý thức được. Cậu không bao giờ ám chỉ đến nó – không bao giờ, trong một khoảnh khắc, cho phép một hàm ý mong manh nào thâm nhập vào câu nói hay thái độ của cậu . . . Một phẩm chất khác là một tánh không ích kỷ đầy thanh thản. Dường như cậu không một mảy may nào bận tâm đến chính mình . . . Chúng tôi không là những người tôn sùng mù quáng, sẵn sàng để không thấy điểm xấu nào của cậu ngoại trừ sự hoàn hảo. Chúng tôi là những người lớn tuổi, những người có giáo dục, và có những kinh nghiệm nào đó về giới trẻ. Nếu có bất kỳ một dấu vết nào của kiêu ngạo hay giả dối, hay bất kỳ điệu bộ nào như là ‘đứa trẻ thiêng liêng’, hay một cái tôi khinh khỉnh, chắc chắn chúng tôi đã đưa ra những nhận định ngược lại.10

 

Sự diễn tả của Wodehouse có thể được áp dụng đúng thực cho bản chất của Krishna trong phần còn lại thuộc sống của anh.



[1] Một vài lá thư của The Mahatma Letters, như chúng được gọi, hiện lưu trữ tại The British Library.

 

[2] Ngày tháng này tùy theo những tính toán chiêm tinh của Ấn độ mà tính một ngày từ 4 giờ sáng đến 4 giờ sáng .Qua sự tính toán gần đúng của phương Tây, ông được sinh ra lúc 12.30 sáng ngày 12 tháng năm.

 

[3] Câu chuyện khi sinh ra và thời niên thiếu của Krishna được đọc chính tả bởi Narianiah năm 1911 cho một người huyền bí học Anh tại Adyar và được ký bởi Narianiah trong sự hiện diện của hai nhân chứng tin cậy.

 

[4] The World through Blunted Sight thế giới qua tầm nhìn mù quáng, Patrict Trevor – Rover, p. 155 (Thames và Hudson, 1988).

 

[5] The Lives of Alcyone Những cuộc đời của Alcyone, sau đó được xuất bản đăng lên hàng tháng trong tờ Theosophist.

 

[6] Hubert và mẹ cậu ấy ở tại Adyar được năm năm. Sau đó cậu ấy đến Oxford, lập gia đìnhtrở thành một luật sư ủy quyền ở Chicago. Cậu ấy rất cay đắng về Leadbeater. Quyển The last four lives of Annie Besant Bốn cuộc đời cuối cùng của Annie Besant, A.H.Nethercote, p. 193n. (Hart – Davis, 1961)

 

[7] Những hội nghị hàng năm được tổ chức cách năm tại Adyar, bộ chỉ huy quốc tế của Theosophical Society, và Benares, bộ chỉ huy của vùng Ấn độ. Mrs Besant có một ngôi nhà tại Benares.

 

[8] Một ốc đảo ở sa mạc Gobi nơi Vua của chức sắc huyền bí đã sống, The Sanat Kumara của kinh Ấn độ giáo.

 

[9] Một phụ nữ lớn tuổi làm việc trong thư viện. Phòng của bà kế phòng khách của Bà Besant. Leadbeater nhận thấy bà là ‘một ảnh hưởng gây suy yếu’, và đây là một cơ hội để dời bà đi luôn và quét vôi phòng bà lại.

 

[10] Leadbeater đánh máy những ghi chú trước khi gửi chúng (những ghi chú viết tay đã bị biến mất) và chính loại đánh máy này đã được sử dụng cho At the Feet of the Master Tại chân Thầy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34227)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16805)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22845)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12981)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21848)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22065)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14820)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23437)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23987)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23522)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17068)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19283)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26920)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14340)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13794)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22618)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14668)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17286)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12601)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13777)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10340)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14611)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17142)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12475)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12637)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10304)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28633)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10640)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11068)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16828)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15719)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13290)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11288)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12969)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19244)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12187)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28470)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10004)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21417)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12753)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17775)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26075)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11645)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10799)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22644)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11989)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10561)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11346)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11485)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant