Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Có một cô đơn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7497)
06. Có một cô đơn

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

6

Có một cô đơn

C

ơ hội nảy ra trong tháng hai kế tiếp khi mua Pine Cottage và sáu mẫu đất chung quanh nó, gồm cả một ngôi nhà khác lớn hơn. Khi Krishna bày tỏ một ước nguyện có được khu đất này, vạch rõ ra nơi này đã trở thành thiêng liêng biết chừng nào sau tất cả mọi điều đã xảy ra ở đó, tiền bạc được biếu tặng bởi Miss Dodge. Krishna gọi ngôi nhà lớn hơn là Arya Vihara (Tu viện Cao quý), và chẳng mấy chốc sau bảy mẫu đất khác đã được mua và Brothers’ Trust được thành lập để quản lý khu đó. Suốt sống của Krishna tiền bạc, trong hình thức những quà tặng và tài sản thừa kế, tuôn vào khi được cần đến, và sau đó anh kiếm được tiền từ những quyển sách của anh; dẫu vậy, anh không bao giờ giữ bất kỳ thứ gì cho riêng anh, ngoại trừ số tiền £500 hàng năm của Miss Dodge.

 Từ đầu năm 1923 Krishna bắt đầu làm việc nhiều ở Ojai, trả lời hàng tá thư từ chính thức, viết những bài hàng tháng của anh cho tờ Herald, tái tổ chức Star ở California, thực hiện những nói chuyện trong những vùng chung quanh và gây quỹ cho một trường học ở Ấn độ. Tháng năm anh và Nitya mà, do sự điều trị thêm của Abrams một lần nữa được nói đã khỏi bệnh, đi vòng quanh nước Mỹ, chấm dứt ở Chicago cho Hội nghị Theosophy. Tháng sáu hai anh em đến nước Anh. Người ta đã sắp xếp cho hai anh em tham dự Đại hội Theosophy và Star ở Vienna vào tháng bảy. Lady Emily gặp họ tại Plymouth và thông báo cho Mrs Besant rằng bên ngoài Krishna có vẻ chẳng thay đổi bao nhiêu, mặc dù có lẽ đẹp hơn nhiều, ‘nhưng tại từng khoảnh khắc người ta nhận biết được nguồn năng lượng được tập trung lại mãnh liệt nhưng có kiểm soát đang chảy qua anh’. Sau Đại hội, nơi Krishna sẽ gặp lại Helen Knothe (chị vẫn ở Amsterdam), anh hỏi liệu anh được phép có một kỳ nghỉ ‘gia đình’ trong nơi yên tĩnh nào đó mà anh chưa bao giờ biết. Một người bạn của John Cordes sắp xếp một biệt thự nhỏ, Villa Sonnblick, trong toàn quyền sử dụng của anh bên ngoài ngôi làng Ehrwald ở Austrian Tyrol, và tại đó anh và Nitya trải qua bảy tuần lễ cùng một nhóm bạn gồm có Lady Emily, chị tôi Betty và tôi, Helen, Mar de Manziarly, Rajagopal (bây giờ đang ở Cambridge), Cordes, và Ruth Roberts, một cô gái người Anh mà Krishna đã yêu đương lăng nhăng hồi ở Sydney. Krishna, Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal ở trong Sonnblick, nơi tất cả chúng tôi ăn uống, trong khi số người còn lại của chúng tôi ngủ trong một biệt thự nhỏ khác. Mười lăm ngày đầu tiên là một kỳ nghỉ rất hạnh phúc, đó là một nơi lý tưởng cho những chuyến dạo bộ vùng núi và có một cánh đồng bằng phẳng mà chúng tôi có thể chơi rounders ở đó. Vào những buổi picnic trong núi, Krishna, Nitya và Rajagopal thường hát những bài thánh ca của Ấn độ, nghe hay lạ lùng.

 Sau đó, vào giữa tháng tám, ‘cái tiến trình’ bắt đầu lại rất khẩn cấp, mỗi buổi tối, và tiếp tục đến ngày 20 tháng chín. Krishna, hay nói khác đi ‘phần cơ bản của thân thể’, lúc này đã lầm lẫn Helen với người mẹ của anh khi anh ‘đi khỏi’. Lady Emily gửi những lá thư nhật ký cho Mrs Besant kể lại tất cả điều gì đã xảy ra. ‘Nhìn cậu (Krishna) nhảy xuống những quả đồi, đầy duyên dáng và vẻ đẹp và sức sống,’ bà viết, ‘hầu như không thể tin được rằng thân thể tội nghiệp của cậu đã phải chịu đựng mỗi buổi tối.’ Sau một buổi tối bị hành hạ anh gào lớn, ‘Nó đã chưa bao giờ tồi tệ như thế này.’ Nitya đã viết sau đó, ‘Trong suốt những ngày cuối cùng tại Ehrwald họ cố gắng thử nghiệm để Krishna tỉnh táo trong khi cơn đau đớn vẫn còn khá mạnh, nhưng sự tỉnh táo này chỉ kéo dài được 10 hay 20 giây tại mỗi lần, và ngay khi cơn đau đớn quá mạnh, Krishna sẽ rời thân thể.’

 Vào chiều tối ngày 20 tháng chín, Krishna ‘mang qua’ một thông điệp cho Nitya, được cho là từ Bậc Thầy Kuthumi, mà Nitya viết ra:

 

Nitya. Lắng nghe. Công việc này được hoàn tất ở đây, đây là đêm cuối cùng, nhưng nó sẽ được tiếp tục ở Ojai. Nhưng điều này phụ thuộc vào hai con. Cả hai con nên có năng lượng nhiều hơn. Sự thành công sẽ phụ thuộc vào điều gì các con làm trong tháng kế tiếp. Đừng để bất kỳ điều gì ngăn cản nó. Nó đã là một thành công ở đây. Nhưng Ojai phụ thuộc toàn bộ vào hai con, ở đó nó sẽ được tiếp tục với nhiều mãnh liệt hơn nếu hai con sẵn sàng.

Khi hai con rời nơi này hai con phải cẩn thận vô cùng. Nó giống như cái bình mới vừa ra khỏi khuôn, và bất kỳ rung động mạnh nào có lẽ sẽ làm rạn nứt nó, và điều này có nghĩa là sửa chữatu bổ lại và việc này sẽ mất một thời gian dài, nếu hai con thất bại nó sẽ có nghĩa là khởi sự mọi thứ lại từ ngay lúc đầu.

 

Thông điệp này đặc biệt lý thú vì văn phong hoàn toàn không giống như văn phong của Krishna hay của Nitya.

 Ngay khi rời Ehrwald, gần hết nhóm người đến ở tại Castle Eerde ở Hà lan cùng Baron van Pallandt mà đã cống hiến tài sản cho Krishna. Đây là lần cuối cùng nó được sử dụng như một ngôi nhà riêng. Một Trust được thành lập, với Krishna làm Chủ tịch, người mà bất động sản này được chuyển qua và Eerde trở thành Bộ Chỉ huy quốc tế của The Order of The Star in The East.

 Vì tin rằng ‘cái tiến trình’ sẽ được tiếp tục ở Ojai, Nitya cảm thấy rất cần thiết phải có một người khai tâm khác ở đó, vậy là Rajagopal (người đã trở thành một người khai tâm trước khi đến nước Anh) xin nghỉ học tại Cambridge một năm để theo cùng họ. Lúc này họ sống tại Arya Vihara trong khi Rosalind sống tại Pine Cottage cùng người mẹ của em ấy. (Helen đã phải về nhà ở New York.)

 Ngay khi họ đến, ‘cái tiến trình’ đã bắt đầu lại và nặng nề đến độ lần đầu tiên Nitya bị bối rối và viết cho Leadbeater đầy lo âu để hỏi liệu mọi thứ có ‘trôi chảy’ hay không. Tại thời điểm này, Krishna đang bị bắt buộc phải tự chịu đựng sự đau đớn mà đang gia tăng mỗi lúc một mạnh mẽ. Nitya kể cho Leadbeater, ‘Lúc này không có Helen cùng anh và dù Rosalind ở phòng bên cạnh chúng con, anh dường như không cần em ấy; sau khi cơn đau đớn chấm dứt, Krishna rời thân thểthân thể khóc rất đau buồn vì kiệt sức. Anh gọi người mẹ của anh, và con phát giác anh cần Helen, không phải Rosalind. Từ điều gì thân thể của Krishna thỉnh thoảng nói, con có thể nhận thấy rằng vẫn còn có nhiều công việc phải được làm trên thân thể, có lẽ nó có nghĩa phải mất vài tháng.’

Ngày 26 tháng mười một, thân thể của Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà Nitya đính kèm trong lá thư gửi Leadbeater : ‘Công việc đang được làm lúc này có sự quan trọng vô cùngtinh tế cực kỳ. Đây là lần đầu tiên sự thử nghiệm này đang được thực hiện trong thế giới. Mọi công việc trong nhà phải nhường cho công việc này, và không người nào được nghĩ đến lợi ích riêng của mình, ngay cả Krishna.’

Lạ thay Leadbeater không muốn đến Ojai để chứng kiến hiện tượng lạ thường này cho ông. Ông chỉ viết cho Mrs Besant nói rằng ông ‘bị băn khoăn nhiều về toàn công việc đó . . . hoàn toàn trái ngược điều gì chính tôi đã được dạy. Tôi hy vọng bà có thể cam đoan với tôi rằng tất cả đều tốt lành.’ Mrs Besant, mặc dù bây giờ đã gạt đi quyền năng siêu nhiên của bà, rõ ràng có thể cam đoan với ông, và từ đó trở đi Leadbeater giao lại cho bà tất cả trách nhiệm chăm sóc Krishna. Với Nitya ông viết: ‘Tôi không hiểu những biến cố kinh hoàng đang xảy ra trong Krishna thương yêu của chúng ta.’

Đầu năm 1924, Krishna viết cho Lady Emily sau khi ‘cái tiến trình’ đã và đang xảy ra được hai tháng:

 

Càng ngày con càng cáu kỉnh và càng ngày con càng mệt mỏi, con ước mẹ và những người khác ở đây. Những ngày này con thường xuyên cảm thấy muốn khóc và hồi trước con không có như vậy. Thật là khủng khiếp cho những người khác và cho con . . . con ước Helen ở đây nhưng đó là một điều không thể được và cũng có thể họ không muốn bất kỳ ai giúp đỡ con. Vì vậy con phải làm tất cả mọi việc một mình . . . Dù người ta có lẽ cố gắng như thế nào chăng nữa, có một cô đơn, cô đơn của một cây thông đơn chiếc trong vùng hoang vu . . . Mười ngày vừa qua thật là vất vả, xương sống và cổ của con cứng ngắt, và ngày hôm kia con trải qua một buổi tối lạ thường. Dù nó là gì, cái nguồn hay bất kỳ từ ngữ nào người ta gọi cái vật chết tiệt đó, đến thẳng lên xương sống của con, thẳng lên gáy của cổ con, sau đó nó tách thành hai, một đi đến phía bên phải và cái còn lại đi đến phía bên trái của bộ đầu con cho đến khi chúng gặp nhau giữa hai mắt, ngay trên mũi của con. Và con thấy Chúa và Bậc Thầy. Đó là một buổi tối kỳ diệu. Dĩ nhiên toàn sự việc này đau đớn cực độ . . . Con chắc chắn chúng con sẽ có một kỳ nghỉ mau thôi.

 

Krishna cũng diễn tả trải nghiệm này cho Mrs Besant, và cũng vậy Nitya kể cho bà một câu chuyện về nó. Nitya đoán chừng nó có nghĩa ‘mở mắt thứ ba’. Trong chuyên luận về yoga ‘mắt thứ ba’ thường được gọi là The Eye of Shiva. Nó ở giữa trán và, giống như kundalini, được kết hợp với khả năng siêu nhiên. ‘Khả năng siêu nhiên của Krishna vẫn chưa bắt đầu,’ Nitya thêm vào, ‘nhưng con nghĩ lúc này nó chỉ còn là vấn đề thuộc thời gian. Từ khi chúng con ở đây đến bây giờ, chúng con đã trải qua 110 đêm của ‘cái tiến trình’.

Cuối tháng ba Dr Rocke đến Ojai, được gửi đi bởi Leadbeater từ Sydney, nơi hiện nay bà sống, để theo dõi về trường hợp của Krishna. Bà ở lại mười lăm ngày, quan sát ‘cái tiến trình’ mỗi buổi tối. Krishna viết cho Lady Emily rằng ‘bà bị ấn tượng khủng khiếp bởi toàn sự việc và chúng con hoàn toàn không điên khùng’. Dr Rocke vẫn ở đó vào ngày 11 tháng tư – ‘một buổi tối kỳ diệu cho tất cả chúng con’, như Nitya kể cho Mrs Besant, khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp, phần đầu tiên của nó Nitya tin là từ chính Chúa Maitreya:

 

Các Con của Ta, Ta hài lòng về sự chịu đựng và sự can đảm của các con. Nó đã là một đấu tranh lâu dàicho đến lúc này những công việc Chúng ta đã trải qua đã là một thành công tốt lành. Mặc dù đã có nhiều khó khăn Chúng ta đã khắc phục chúng một cách tương đối dễ dàng . . . Các con đã vượt qua sự thử thách rất thành công, mặc dù toàn bộ sự chuẩn bị chưa kết thúc… Chúng tôi xin lỗi về sự đau đớn, kéo dài quá lâu, mà dường như chắc là vô tận cho các con, nhưng có một vinh quang vô cùng đang chờ đợi mỗi người trong các con . . . Phước lành của Ta ở cùng các con.

Mặc dù Chúng tôi sẽ bắt đầu tại một ngày tháng trễ hơn. Ta không muốn các con rời nơi này để đi Châu âu cho đến sau lễ Wesak (lễ hội huyền bí quan trọng vào Trăng tròn tháng Năm, năm đó rơi vào ngày 18 tháng năm), khi các con sẽ thấy Ta. Mặc dù Chúng tôi đã bảo vệ ba nơi trong thân thể của con, chắc chắn sẽ có sự đau đớn. Nó giống như một ca giải phẫu; mặc dù nó có lẽ xong rồi, con chắc chắn sẽ cảm thấy những ảnh hưởng sau đó.

 

Rủi thay, chúng ta không có chuyện kể từ chính Dr Locke về điều gì bà nghĩ về ‘cái tiến trình’.

Hai anh em, cùng Rajagopal và Helen, người họ gặp ở New York, đến nước Anh vào ngày 15 tháng sáu. Mrs Besant cũng ở Nước Anh và họ bị nhiễm trong những hoạt động không ngừng nghỉ của bà, cực điểm là một Đại hội Theosophy và Star tại Arnhem ở Hà lan, được tiếp theo bởi lần họp trại đầu tiên tại Ommen, cách Castle Eeerde một dặm trên phần đất đai được trao tặng bởi Baron van Pallandt. Họp trại này sẽ là một sự kiện hàng năm cho đến khi có chiến tranh.

 Sau họp trại này, cuối cùng Krishna cũng được tự do để tận hưởng kỳ nghỉ ‘gia đình’ mà anh mong chờ. Năm đó nơi được chọn là một khách sạn ở lâu đài thuộc thế kỷ mười một tại đỉnh của một ngọn đồi dốc đứng trên làng Pergine ở Dolomites, nơi Krishna đến cùng những người bạn vào ngày 18 tháng tám. Nhóm người cũng giống năm ngoái, với sự ngoại lệ là Mar de Manziarly và thêm vào một phụ nữ người Ý cùng vài người bạn Ấn độ. Chúng tôi chiếm hai cái tháp có lỗ châu mai tại những góc của lâu đài cũng như vài căn phòng trong khách sạn và dùng những bữa ăn tại phía cuối của một phòng ăn rộng mênh mông, được kéo màn tách khỏi những người khách khác và có người đầu bếp Úc nấu món chay riêng của chúng tôi. Ngay dưới lâu đài là một cánh đồng bằng phẳng, dành chơi rounders, như đã có tại Ehrwald. Nhưng Krishna chỉ được cho phép ít hơn một tuần lễ trước khi ‘cái tiến trình’ khởi sự lại. Lần này còn gây đau đớn hơn trước nhiều lắm, mà hầu như không thể chịu đựng được sau lần ở Ojai. Tuy nhiên, lúc này Helen có mặt ở đó để giúp đỡ.

 Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal đang sống dưới cùng mái nhà với Krishna trong cái tháp tròn. Khi ‘cái tiến trình’ khởi sự, những người khách ở cùng cái tháp đó không đến ăn tối cùng chúng tôi trong khách sạn. Số người còn lại của chúng tôi biết rằng cái gì đó sắp sửa xảy đến mỗi buổi tối – cái gì đó để chuẩn bị cho sự cư ngụ của Chúa Maitreya – nhưng mãi đến năm sau tôi mới được kể về ‘cái tiến trình’ và những chuyện kể của Krishna và Nitya về trải nghiệm ở Ojai được đọc to cho tôi nghe.

 Có một mục đích rõ ràng trong kỳ nghỉ của năm đó. Người ta đã sắp xếp rằng bốn cô gái – Helen, Ruth, Betty, và tôi – nên, theo sự thúc giục của Krishna, đi đến Sydney để được ‘hướng về’ theo Con đường Môn đồ bởi Leadbeater. (Rosalind đã đến đó khi hai anh em rời Ojai vào tháng sáu.) Tất cả những nói chuyện trước công chúng của Krishna trong những nơi khác nhau mà anh đã theo Mrs Besant vào mùa hè đó đã nhấn mạnh rằng, muốn vào được Con đường Môn đồ, rất cần thiết phải nhắm mắt nhảy liều, sống một cách cấp bách, cảm thấy thật mãnh liệt để có thể đủ sức vọt ra khỏi cửa sổ, để tự thay đổi chính mình một cách cơ bản. Lúc này, tại Pergine, theo sự đề nghị của Lady Emily, anh bắt đầu nói về những chủ đề đó cho nhóm người tụ họp ở đó. Sau trò chơi rounders vào buổi sáng, anh sẽ ngồi dưới một cây táo trong cánh đồng và cố gắng nói đi nói lại cho chúng tôi về những phẩm chất phải nhằm đến. Anh bảo với những cô gái rằng mặc dù bản chất tự nhiên của con người trong các cô là muốn hôn nhân và một tổ ấm riêng của họ, họ không thể có những điều đó và hầu hạ Thượng đế khi Ngài đến; nếu họ cố gắng đùa giỡn với cả hai cuộc sống, họ sẽ trở thành kệch cỡm và không điều gì tồi tệ hơn là tánh tầm thường. Nhưng họ không được trở thành khô khan; lớn lên bằng tình yêu và hạnh phúc rực sáng là cách duy nhất để phát triển. Sự trong trắng hoàn toàn về thân thể lẫn tinh thầnyếu tố cốt lõi.

 Bốn cô gái trẻ sôi nổi trong số đó có tôi, vừa mười sáu, là người ít tuổi nhất, luôn luôn được yêu cầu sống những cuộc sống độc thân bên ngoài một tu viện. Thái độ của Krishna về tình dụchôn nhân sẽ thay đổi trong một vài năm nữa. Vào năm 1922 khi anh nghe rằng Mar de Manziarly đã đính hôn và sẽ lập gia đình, anh nói rằng giá như cô tự tử thì hay hơn. (Vụ đính hôn bị hủy bỏ trước khi cô đến Ehrwald.) Anh rất khắt khe với tất cả chúng tôi ở Pergine, thường làm cho chúng tôi khóc lóc bởi những sự thật về tổ ấm anh đã bảo chúng tôi. Anh phát hiện tất cả chúng tôi đều không đáp ứng nhiệt tình lắm; anh kể cho Lady Emily rằng nó giống như đang nói chuyện với nhiều cái bọt biển mà chỉ nuốt trọn tất cả mọi thứ. Anh ước anh có thể ‘trù dập’ chúng tôi nhiều hơn nữa. ‘Các bạn giống như những người ở trong một căn phòng tối om đang chờ đợi ai đó bật đèn cho các bạn thay vì mò mẫm trong bóng tối và tự bật nó lên.’19

 Tuy nhiên bất kể sự khắt khe của anh, người ta cảm thấy tình yêu vô biên của anh dành cho chúng tôi, sự khao khát của anh rằng chúng tôi sẽ lớn lên thành những con người tốt lành – sự kinh hãi của anh rằng chúng tôi sẽ trở thành ‘tầm thường’.

 ‘Cái tiến trình’ kết thúc vào ngày 24 tháng chín khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà anh tin là từ Chúa Maitreya:

 

Hãy học phục vụ Ta, vì tiến theo chính Con đường các con sẽ tìm thấy Ta.

Hãy quên các con, vì chỉ như thế ta sẽ được tìm thấy.

Đừng tìm kiếm những Đấng Vĩ Đại khi họ có lẽ rất gần các con.

 Các con giống như người mù tìm kiếm ánh mặt trời,

Các con giống như người đói được cho thức ăn và sẽ không ăn.

Hạnh phúc các con tìm kiếm không xa lắm; nó sống trong mọi cục đá bình thường.

Ta ở đó nếu các con muốn thấy. Ta là người giúp đỡ nếu các con muốn Ta giúp đỡ.

 

Rất khác biệt với những thông điệp khác, những hàng này có nhiều văn phong của những bài thơ mà Krishna sắp sửa sáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28090)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6642)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8728)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9230)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8168)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8613)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16596)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26692)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18483)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15488)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22360)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19282)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18179)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16061)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25460)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37751)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19919)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10634)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10488)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10297)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10966)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15070)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10787)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19533)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11601)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10679)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11146)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10044)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10467)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10812)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12048)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10955)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12935)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17599)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15043)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15530)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10907)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12004)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10972)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21591)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12009)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9114)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20089)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17111)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9994)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant