Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Một ước mơ cũ là chết rồi

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6519)
07. Một ước mơ cũ là chết rồi

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

7

Một ước mơ cũ là chết rồi

C

hồng của Lady Emily phản đối mạnh mẽ kế hoạch Sydney khi ông nghe về nó, nhưng khi Miss Dodge đề nghị trả tiền vé khứ hồi cho Lady và bốn cô gái, ông không thể ngăn cản được việc đó vì có thể sẽ bị đổ vỡ hôn nhân. Không hiểu Krishna có nhận thức được sự phản đối của ông không bởi vì, mặc dù anh chống lại sự hôn nhân cho những môn đồ tương lai, anh không là một người phá vỡ gia đình.

 Krishna và Nitya, cùng Lady Emily và bốn cô gái, khởi hành đi Bombay từ Venice vào ngày 2 tháng mười một. (Rajagopal đã quay lại Cambridge để học năm cuối cùng). Vào ngày cuối của chuyến hành trình Nitya bỗng nhiên ho ra máu. Vì người em yêu quý này mười hai tháng kế tiếp sẽ là những tháng ngày lo âu rất nhiều cho Krishna.

 Chúng tôi sẽ ở lại Ấn độ, đầu tiên tại Adyar, sau đó Delhi, trước khi tiếp tục đến Sydney vào năm sau. Chẳng mấy chốc sau khi đến Adyar, nơi chúng tôi gặp lại Madame de Manziarly, Mar và Jo, ‘cái tiến trình’ của Krishna bắt đầu lại không có sự giúp đỡ từ Helen mà, cùng Ruth, đã đi thẳng đến Sydney. Anh cũng không có bất kỳ sự giúp đỡ nào từ Nitya lúc này bị bệnh nặng lại và đã đi thẳng đến Ootacamund cùng Madame de Manziarly. ‘Con nghĩ tất cả sẽ kết thúc vào ngày nào đó,’ từ Adyar vào tháng giêng Krishna viết cho Mrs Besant, đang ở Delhi, ‘nhưng hiện nay nó khủng khiếp lắm. Con không thể làm bất kỳ việc gì cả vân vân. Lúc này nó tiếp tục suốt ngày và suốt đêm.’ Nhưng nó không mạnh mẽ như trước kia. Ngay trước khi viết lá thư này, Krishna đã đến Madanapalle, nơi sanh của anh, để tìm kiếm một khu vực cho một trường đại học mà anh đang ao ước xây dựng. Anh tìm được một nơi đẹp ở Tettu Valley khoảng mười dặm từ thị trấn và cao 2.500 feet trên mực nước biển trung bình. Năm sau anh đã có thể thành lập một Trust để mua 300 mẫu đất ở đó. Anh đặt lại tên nó là Rishy Valley lấy từ tên hòn núi Rishi Conda mà bao quát nó, và ở đó một trường học, không phải trường đại học, được thành lập. Nó là trường đầu tiên trong tất cả tám trường mà Krishna đã thành lập.

Hai anh em được mời tham dự Hội nghị Theosophy ở Sydney vào tháng tư vì vậy họ đi đến đó cùng gia đình Lutyens. Raja đi cùng họ để chăm sóc Nitya vẫn còn bị bệnh rất nặng. Một chuyên gia ở Sydney thông báo rằng em sẽ cần tất cả nghị lực để qua khỏi căn bệnh và phải rời thành phố ngay lập tức, vì vậy em đi thẳng tới Leura ở Blue Mountains nơi một cabin bằng gỗ được dành riêng cho em. Rosalind vẫn còn ở Sidney theo cùng em như y tá, và một vú nuôi đã lập gia đình. Krishna phân chia thời gian của anh giữa Leura và Sydney. Mặc dù anh đã làm tất cả mọi việc có thể được để đưa các cô gái đến Sydney, chắc chắn rằng anh rất ghét bầu không khí nhà thờ ở đó và không được đón chào bởi Leadbeater mà nhận thấy anh tạo ra một ảnh hưởng gây chia rẽ. Anh thường cười toe toét và nháy mắt cho chúng tôi qua cửa sổ khi chúng tôi ngồi trong một căn phòng ngột ngạt, cố gắng tham thiền cùng những hội viên khác của cộng đồng lớn tại Manor, trong vùng ngoại ô của Mosman.20 Anh không chịu nổi sự quan tâm háo hức của mọi người về việc nhận được từng bước một trên Con Đường khi được ban phát nhỏ giọt bởi Leadbeater và dẫn đến sự ganh ghét lẫn kênh kiệu. Khi so sánh với Krishna, mọi người tại Manor dường như thô tục và tầm thường. Anh cố gắng nói chuyện với Leadbeater về ‘cái tiến trình’ nhưng ông không đưa ra một ý kiến ích lợi nào; nó hoàn toàn ngoài khả năng hiểu biết của ông và chắc chắn không là một chuẩn bị cần thiết cho những chặng đường khai tâm.

Nhiều đất đai đã được trao tặng Krishna cho công việc của anh tại nhiều vùng ở Úc, và một giảng đường tròn rộng lớn có từng bậc bằng đá trắng vừa được xây dựng trên một vùng hoành tráng tại bờ của hải cảng Balmoral, gần Manor, nơi người ta chờ đợi Chúa sẽ giảng thuyế khi anh đến. Nơi này và đất đai được quản lý bởi những Trust khác nhau theo thỉnh cầu của Krishna.

Vào tháng sáu bác sĩ nhận xét Nitya đã có đủ sức khỏe để đi. Khi hai anh em xuống tàu đi San Francisco vào ngày 24 tháng sáu, cùng Rosalind và một bác sĩ người Thụy điển của Theosophy, tôi cảm thấy rằng Ánh sáng đã vĩnh viễn rời khỏi tôi. Mẹ tôi, người được cho là đã vượt qua bậc khai tâm thứ nhất của bà ở Sydney, đã trở lại nước Anh, để lại Helen, Ruth, Betty và tôi tại Manor.

Đó là một chuyến đi sợ hãi khi Nitya mỗi lúc một yếu đi. Cuối chuyến đi Krishna viết cho Mrs Besant; ‘Chúng con sẽ vượt qua được và Nitya sẽ khỏe lại thôi. Nó đã là và là một thời gian lo âu nhất, mẹ kính mến riêng của con, nhưng mẹ và những Bậc Thầy ở đó.’ Chỉ sau mười lăm ngày ở Ojai để thực hiện sự điều trị hàng ngày theo phương pháp Abrams, bệnh trạng của Nitya đã đỡ hơn nhiều. Tuy nhiên, sự thuyên giảm tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, và trong ba tháng kế tiếp tất cả những năng lượng của Krishna được dồn hết cho việc săn sóc Nitya vì em bị nặng quá không thể ra khỏi giường được. Krishna chắc phải tuyệt vọng lắm nếu anh không nhận được sự bảo đảm bởi cả Mrs Besant lẫn Leadbeater rằng những Bậc Thầy sẽ không cho phép Nitya chết; cuộc sống của em quá giá trị.

Trong thời gian đó Mrs Besant đã đi cùng Shiva Rao đến nước Anh để giảng thuyết tại Queen’s Hall. George Adrundale, người đã thực hiện một chuyến đi giảng thuyết khắp thế giới cùng người vợ của ông, Rukmini, đang ở tại một cộng đồng Theosophy tại Huizen, Hà lan, không xa Castle Eerde, được quản lý bởi một giám mục Theosophy của Giáo hội Thiên chúa giáo Tự do, James Ingall Wedgwood. Một người Na uy trẻ tuổi được gọi là Oscar Kollerstrom, một môn đồ cũ của Leadbeater ở Sydney và một linh mục trong Giáo Hội Thiên chúa giáo Tự do, cũng có mặt tại Huizen. Arundale gửi điện báo cho Mrs Besant ở London để nói rằng những sự việc kinh ngạc đang xảy ra: Oscar vừa nhận được bậc khai tâm lần thứ ba của ông, Wedgwood lần thứ hai của ông và Rukmini lần thứ nhất của bà; kundalini vừa được đánh thức trong Wedgwood và Rukmini. (Arundale đã là một người khai tâm lần thứ hai rồi và cả ông lẫn Rukmini đều khẳng định có khả năng siêu nhiên. Sau một điện báo lý thú khác, Mrs Besant hủy bỏ những buổi giảng thuyết tại Queen’s Hall của bà và đi đến Huizen, được theo cùng bởi Esther Bright, Lady Emily, Shiva Rao và Rajagopal.

Hai ngày sau khi Mrs Besant đến, vào ngày 26 tháng bảy, Arundale được phong chức linh mục, Miss Bright, Lady Emily và Rajagopal được nói đã nhận được bậc khai tâm thứ hai của họ và vào buổi tối ngày 1 tháng tám Arundale và Wedgwood nhận được bậc khai tâm thứ ba của họ và Rukmini thứ hai của bà. Ngày 4 Arundale được tôn phong chức giám mục. Sự chấp thuận của Leadbeater cho bậc này đã được thỉnh cầu bằng điện báo; khi không có trả lời, Arundale khẳng định rằng ông đã nhận được sự chấp thuận nồng nhiệt của Leadbeater trên mức độ tinh thần. Khi họ từ buổi lễ quay lại, Mrs Besant tìm được một điện báo từ Leadbeater phản đối mạnh mẽ những bậc này. Không một việc xảy ra nào ở Huizen được phê chuẩn bởi Leadbeater.

Arundale tiếp tục ‘mang qua’ những chỉ thị của các Bậc Thầy: không người khai tâm nào sẽ ở chung phòng cùng người không-khai tâm; quần áo bên trong bằng lụa phải được mặc bởi tất cả những linh mục Thiên chúa giáo Tự do (việc này rất khó khăn cho những người nghèo, Lady Emily lưu ý); những áo lễ sẽ được chọn lựa cẩn thận nhưng không được đội mũ (lần đầu tiên Miss Dodge bị choáng váng khi cô được yêu cầu phải mua những quần áo lễ lộng lẫy cho những giám mục; Mrs Besant, Wedgwood và gia đình Arundale phải từ bỏ ăn trứng trong bất kỳ hình thức nào. (Theo Lady Emily, Mrs Besant là người duy nhất tôn trọng triệt để chỉ thị này, với kết cục là bà bị lưng lửng đói từ đó trở đi.)

Vào đêm 7 tháng tám Krishna (tại Ojai), Raja (ở Ấn độ), Arundale và Wedgwood được nói bởi Arundale là đã nhận được bậc khai tâm lần thứ tư hay đắc quả A la hán của họ, và hai đêm sau Arundale ‘mang qua’ danh sách của mười người thuộc điều gì ông nói sẽ là mười hai môn đồ của Chúa. Đây là Mrs Besant, Leadbeater, Raja, Arundale, Wedgwood, Rukmini, Nitya, Lady Emily, Rajagopal và Oscard Kollerstrom. Krishna đã không được nói đến nhưng chắc chắn rằng anh sẽ biết tất cả về điều đó trên thế giới tâm linh.

Trong chủ đề tháng sáu của tờ Herald, Arundale đã tuyên bố rằng Krishna sẽ không tham dự trại Ommen năm đó bởi vì sức khỏe của Nitya nhưng Mrs Besant và ông sẽ ở đó và ông hy vọng mọi người sẽ nghĩ đó là một bổn phận phải tham dự. Vì vậy, đã có vài lần hủy bỏ, và vào ngày 10 tháng tám nhóm Huizen di chuyển đến Ommen nơi trại và Đại hội được khai mạc chiều hôm đó (Mrs Besant ở trong The Castle). Tại một cuộc nói chuyện vào ngày hôm sau, Mrs Besant tuyên bố công khai rằng Chúa đã chọn xong những môn đồ của Ngài nhưng bà chỉ được cho phép công bố danh tính của bảy người trong số họ, những người đã trở thành A la hán rồi – bà và Leadbeater, Raja, Arundale, Krishna, Oscar Kollerstrom và Rukmini mà, bà cam đoan, sẽ trở thành một A la hán trong vài ngày nữa21. Chỉ sau khi tuyên bố như thế bà mới nhận ra rằng bà quên bẵng Wedgwood và nêu danh Krishna như một trong những môn đồ riêng của Ngài. Bà đính chính những sai lầm này trong một cuộc nói chuyện trước công chúng khác vào ngày 14. Trại bế mạc ngày hôm đó và nhóm người Huizen trở lại đó. Arundale liên tục nói đầy hào hứng, ‘Tôi biết điều gì khác nữa đã xảy ra nhưng điều đó dường như không thể tin được.’ Sáng hôm sau Mrs Besant mời Esther Bright, Lady Emily, Rukmini và Shiva Rao vào phòng của bà và rụt rè nói với họ rằng bà, Leadbeater, Krishna, Raja, Arundale, Wedgwood và Oscar tất cả đều đã nhận được bậc khai tâm cuối cùng và thứ năm của họ vào đêm ngày 13 nhưng nó sẽ chẳng tạo ra sự khác biệt gì với cách họ sẽ được đối xử.

Lady Emily bị nhiễm sự kích động của thời gian đó tại Huizen và đã viết cho Krishna rất phấn khởi về nó. Anh đánh điện lại, hỏi Lady liệu Leadbeater đã khẳng định tất cả những điều xảy ra này. Lady đánh điện trả lời rằng chính Mrs Besant đã tuyên bố, thêm vào, ‘Hãy tin tưởng nơi bà.’ Khi Lady Emily quay lại London, bà nhận được một lá thư rất buồn đầy hoài nghi từ Krishna. Do sự thỉnh cầu của anh, bà tiêu hủy tất cả những lá thư của anh viết cho bà vào thời gian điên loạn này; anh sợ nó có lẽ rơi vào những bàn tay khác và gây tổn thương Mrs Besant mà đang viết cho anh để yêu cầu anh khẳng định tất cả mọi điều Arundale đã ‘mang qua’. Không muốn gây tổn thương bà, anh chỉ trả lời rằng anh quá bận rộn săn sóc Nitya nên không biết bất kỳ điều gì về nó. Tiếp theo chẳng bao lâu, anh xin phép liệu Rajagopal có thể được gửi tới Ojai để phụ giúp săn sóc Nitya. Sự thỉnh cầu này được chấp thuận và Rajagopal đã rời đó để đến nước Mỹ trước khi trại khai mạc.

Mrs Besant rất muốn Krishna theo cùng bà đến Ấn độ mùa đông đó để tham dự Hội nghị tại Adyar kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Theosophical Society. Anh không muốn rời Nitya nhưng khi, vào cuối tháng mười một, Nitya có vẻ khỏe hơn và Madame de Manziarly đề nghị sẽ đến thăm Nitya để săn sóc em, Krishna miễn cưỡng đến nước Anh, cùng Rosalind và Rajagopal, để làm vui lòng Mrs Besant. Lady Emily nói chuyện rất lâu với Krishna ngay khi anh đến và nhận thấy anh buồn rất nhiều về tất cả những chuyện xảy ra tại Huizen và Ommen. Cái gì đó đối với anh là đẹp đẽ, riêng tư, thiêng liêng đã bị biến thành xấu xa, thô tục và diễu cợt trước công chúng. Lady Emily hỏi anh tại sao anh đã không nói cho Mrs Besant điều gì anh cảm thấy. Anh trả lời, có tốt lành gì đâu? Họ sẽ chỉ trả lời rằng những Thế lực Đen tối đã nắm được anh. Luôn luôn như vậy, anh đã nhiều lần cố gắng nói với bà nhưng bà dường như không đánh giá đúng mức. Lady Emily cảm thấy rằng Mrs Besant đã bị thôi miên bởi Arundale và chính Lady đã rất nhẹ dạ khi cả tin.

Nhóm người khởi hành từ Naples đi Colombo vào ngày 8 tháng mười một gồm có Mrs Besant, Krishna, Lady Emily, Rosalind, Rajagopal, Shiva Rao, Wedgwood, Arundale, và Rukmini. Hai giám mục, đi quanh Naples trong chiếc áo thầy tu dài màu đỏ nói với Krishna rằng cuộc sống của Nitya có thể cứu được nếu anh công nhận họ như Adepts những người thông thái và là những môn đồ đã được chọn của anh. Krishna sẽ không làm việc đó và cố gắng tránh nói chuyện với họ. Shiva tin rằng không một giây phút nào Krishna không tin tưởng vào quyền năng của những Bậc Thầy sẽ cứu thoát Nitya. Ngay khi họ đang vào kênh Suez, vào đêm ngày 13, một điện báo được phát cho Mrs Besant tuyên bố cái chết của Nitya. Theo Shiva Rao, người đang ở cùng một cabin với Krishna, mười ngày kế tiếp đầy bi thảm. Vào buổi tối Krishna thường khóc sụt sùi, rên rỉ và gào thét vì thương nhớ Nitya, thỉnh thoảng trong tiếng Telegan bản xứ của anh mà, trong khi tỉnh táo, anh không thể nói. Tuy nhiên, trước thời gian họ đến Colombo anh đã chuyển sự thương nhớ thành điều gì hầu như là một phước lành và đã viết một bài về Nitya được xuất bản trong những bài của anh cho tờ Herald tháng giêng năm 1926:

 

Những giấc mộng vui vẻ em tôi và tôi đã trải qua thuộc vật chất hết rồi . . . Chúng tôi đã có những giây phút tuyệt vời trong cuộc sống mặc dù tính nết của chúng tôi khác biệt nhiều. Trong chừng mực nào đó chúng tôi đã hiểu rõ lẫn nhau mà chẳng cần nỗ lực nào . . . Nó đã là một cuộc sống hạnh phúc và tôi sẽ nhớ em phần thân thể suốt cuộc sống này.

Một giấc mộng cũ đã chết rồi và một giấc mộng mới đang được sinh ra, như một bông hoa trồi lên mặt đất cứng . . . Một sức mạnh mới được sinh ra bởi đau khổ đang rung động trong những mạch máu và một thương cảm và hiểu biết mới đang được sinh ra từ sự đau khổ quá khứ. Một khao khát nhiều hơn để thấy những người khác trải qua đau khổ ít hơn và, nếu họ phải trải qua đau khổ, thấy rằng họ chịu đựng nó đầy cao thượng và ra khỏi nó mà không lưu lại quá nhiều dấu vết. Tôi đã khóc nhưng tôi muốn những người khác sẽ không khóc nhưng nếu họ khóc tôi biết điều đó có nghĩa gì . . . Trên mức độ vật chất chúng ta có thể tách rời và bây giờ chúng ta không thể tách rời . . . Là Krishnamurti bây giờ tôi có nhiệt huyết nhiều hơn, trung thành nhiều hơn, thông cảm nhiều hơn và tình yêu nhiều hơn bởi vì trong tôi cũng có thân thể, Thân tâm, của Nityananda . . . Lúc này tôi biết, bằng sự chắc chắn nhiều hơn bao giờ trước kia, rằng có vẻ đẹp thực sự trong sống, hạnh phúc thực sự mà không thể bị phân tán bởi bất kỳ điều xảy ra thuộc vật chất nào, một sức mạnh vô cùng mà không thể bị suy yếu bởi bất kỳ biến cố thoáng qua nào, và một tình yêu vô hạn mà là vĩnh cửu, bất diệt và không thể chinh phục được.

 

Cái chết của Nitya tạo ra một sửng sốt khủng khiếp cho Mrs Besant, mặc dù nó không làm suy yếu sự trung thành của bà, trái lại từ thời điểm đó trở đi dường như Krishna mất đi mọi tin tưởng trong những Bậc Thầy được giới thiệu bởi Leadbeater, mặc dù anh vẫn tin tưởng Chúa Maitreya và vai trò riêng của anh như là phương tiện. Arundale và Wedgwood phát biểu chắc chắn rằng Nitya đã chết bởi vì Krishna đã từ chối công nhận họ.

 Leadbeater cùng một nhóm bảy mươi người, gồm cả Helen, Ruth, Betty và tôi, đến Colombo vài ngày sau. Chúng tôi đã nghe về cái chết của Nitya tại Melbourne. Mrs Besant, Krishna và những người khác, đã đến Adyar rồi, quay lại Colombo để gặp chúng tôi. Lời chào hỏi của Leadbeater với Krishna là: ‘Ít nhất bạn là một A la hán.’

 Sau khi cắt ngang để đến Ấn độ, có một chuyến xe lửa đặc biệt đi Madras cho toàn nhóm người, cùng những đám đông, những vòng hoa, những phủ phục thân thể tại mỗi nhà ga. Krishna, mà biết rằng tôi thương yêu say đắm Nitya, ngồi bên cạnh tôi trong xe lửa. ‘Krishna rất thú vị,’ tôi viết trong nhật ký của tôi, ‘và kể cho tôi về Nitya. Bây giờ họ mãi mãi ở cùng nhau. Chính Krishna tuyệt vời nhiều hơn, và dịu dàng nhiều hơn.’

Tình huống tại Adyar đau khổ nhiều lắm. Ruth thổ lộ rằng Leadbeater không tin bất kỳ những nhập môn nào được tuyên bố ở Huizen. Vì vậy, có hai phe – phe Arundale- Wedgwood và phe Leadbeater, với Krishna và những người theo anh đứng tách biệt cả hai, và Mrs Besant, người không mất tình yêu và sự tôn trọng của bà đối với Krishna, cố gắng hòa giải tất cả họ. Vào một buổi sáng, bà đi thẳng vào phòng của Krishna, cầm tay anh và dắt anh xuống phòng khách riêng của bà nơi Leadbeater, Raja, Arundale, và Wedgwood đang tụ họp và, đặt anh ngồi trên ghế sofa giữa bà và Leadbeater, hỏi anh liệu anh có chấp thuận họ như những môn đồ của anh. Anh trả lời rằng anh sẽ không chấp thuận bất kỳ ai trong số họ ngoại trừ có lẽ chính Mrs Besant. (Ký ức của biến cố này là một trong rất ít biến cố mà Krishna còn nhớ lại trong phần còn lại của cuộc đời anh, bởi vì chẳng bao lâu sau anh sẽ mất một cách thực tế tất cả những hồi tưởng của quá khứ.)

Đại hội của Star theo sau Hội nghị của Theosophy vào ngày 20 tháng mười hai. Tại họp mặt Star đầu tiên, dưới cây bồ đề lúc 8 giờ sáng, cùng trên 3.000 người hiện diện, khi gần kết thúc một nói chuyện về Thầy Thế Giới, anh đột nhiên thay đổi. Anh đã và đang nói: ‘Ngài đến chỉ cho những người mà mong muốn, mà thiết tha, mà ao ước’, và khi vẻ mặt của anh thay đổi và giọng nói của anh sang sảng như tiếng chuông bằng một uy quyền lạ thường: ‘Và Ta đến cho những người mà mong muốn sự thông cảm, mà mong muốn hạnh phúc, mà ao ước được giải thoát. Ta đến để thay đổi, không phải để phá nát, Ta đến không phải để hủy diệt nhưng để xây dựng.’22

Nó là một khoảnh khắc kích động cho những người như chúng tôinhận thấy sự thay đổi. (Wedgwood và Arundale nói họ nghĩ rằng anh chỉ đang trích dẫn kinh thánh.) Chắc chắn Mrs Besant nhận thấy nó. Tại cuộc họp mặt cuối cùng của Đại hội Star bà sẽ nói: ‘ . . . sự kiện đó (của ngày 28 tháng mười hai) đánh dấu sự tôn phong rõ ràng của phương tiện đã được chọn . . . sự chấp nhận cuối cùng của thân thể đã được chọn từ lâu rồi . . . Sắp đến đã bắt đầu.’ Và trong chủ đề tháng giêng của tờ Theosophist, bà viết ‘Không có sự kích động, không có sự xôn xao, ngay cả vào ngày 28 tháng mười hai khi Brother Krishna Người Em Krishna của chúng ta đang kết luận câu nói của em, câu nói của em được chen vào bởi Chúa của chúng ta Thầy Thế giới, người mà chiếm hữu thân thể của em và nói một vài câu.’ Leadbeater cũng chắc chắn như thế. Sau khi ông quay lại Sydney ông phát biểu rằng không có ‘một chút nghi ngờ’ về việc ‘Ngài’ đã sử dụng ‘Phương tiện nhiều hơn một lần’ tại Hội nghị Jubilee.23

Chính Krishna cũng chẳng nghi ngờ gì cả. Tại một nói chuyện với những Đại biểu quốc gia của The Order of The Star tại Adyar, anh nói: ‘Kỷ niệm của ngày 28 phải dành cho các bạn như thể các bạn đang giữ gìn viên ngọc quý giá nào đó và mỗi lần các bạn nhìn nó các bạn phải cảm thấy một xúc động. Vậy là khi Ngài đến lại, và tôi chắc chắn rằng Ngài sẽ đến lại rất mau, nó sẽ dành cho các bạn một con người cao cả và còn là sự kiện đẹp đẽ hơn ngay cả lần vừa rồi.’24 Và tại một gặp gỡ của những học sinh anh nói: ‘Tôi, theo cá thể, cảm thấy hoàn toàn khác biệt sau ngày hôm đó . . . giống như một bình hoa bằng pha lê, một cái lọ đã được tẩy rửa và bây giờ bất kỳ ai trong thế giới có thể đặt một đóa hoa đẹp trong nó và đóa hoa đó sẽ sống trong cái bình và không bao giờ chết.’25

Lady Emily ghi trong nhật ký của bà rằng Krishna kể cho bà lúc này anh cảm thấy giống như một cái vỏ trống không – vì vậy tuyệt đối không thứ bậc. Khi bà mô tả cho anh biết vẻ mặt của anh cũng như giọng nói của anh đã thay đổi như thế nào, anh nói đầy đăm chiêu, ‘Con ước con có thể thấy nó.’ Anh có tin rằng nó là vẻ mặt của Chúa Maitreya? Gần như đến cuối sống của anh, anh luôn luôn nhấn mạnh sự quan trọng mà Mrs Besant và Leadbeater đã luôn luôn trao cho ‘vẻ mặt’, nhưng điều này dường như đã ám chỉ vẻ đẹp thuộc khuôn mặt riêng của anh mà luôn luôn anh nghĩ là hoàn toàn không liên quan giống như anh nghĩ như thế với toàn thân thể của anh. Chắc chắn, anh nghĩ thân thể đã được giao phó cho anh trông nom. Ý thức của tách rời hoàn toàn khỏi thân thể này là một sự việc lạ thường mà kéo dài suốt sống của anh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28091)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6642)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8729)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9231)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8168)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8613)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16597)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26694)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18483)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15488)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22360)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19282)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18179)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16062)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25461)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37751)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19919)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10634)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10488)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10298)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10966)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15079)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10787)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19533)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11602)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10680)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11147)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10045)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10468)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10813)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12050)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10955)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12935)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17599)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15044)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15532)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10907)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12004)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10972)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21594)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12009)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9114)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20090)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17113)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9995)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant