Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. "Tại sao bạn không bắt đầu lau chùi bậc thềm cửa trước của nhà bạn, bộ phận thuộc con đường của bạn mà là chính bạn.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8169)
13. "Tại sao bạn không bắt đầu lau chùi bậc thềm cửa trước của nhà bạn, bộ phận thuộc con đường của bạn mà là chính bạn.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 2

 KRISHNAMURTI Ở ẤN ĐỘ

1947 – 1949

CHƯƠNG 13

“Tại sao bạn không bắt đầu lau chùi bậc thềm cửa trước của nhà bạn, bộ phận thuộc con đường của bạn mà là chính bạn.”

T

rong khi ở Delhi, Krishnaji là khách của người anh của Sanjavee Rao, Sir B. N. Rao, một luật sư và một viên chức nổi tiếng, một thành viên của ngành công chức Ấn độ, người đã được yêu cầu bởi Thủ tướng Jawaharlal Nehru để đưa ra những lời khuyên trong việc thực hiện cái khung của hiến pháp Ấn độ. Delhi đang tắm trong ánh mặt trời rực rỡ, chầm chậm nhận biết được những hàm ý của sự tự do và vô vàn những cơ hội đang chờ đợi sẵn trong mọi phương hướng. Hội đồng Lập pháp đã bắt đầu làm việc; những luật sư, những người suy nghĩ về chính trị, và những người đấu tranh cho tự do đã tụ họp để trình bày có hệ thống trong một hiến pháp viết bằng tay về những lý tưởng mà họ đã chiến đấu vì nó. Không tôn giáo, bình đẳng trước luật pháp, tự do ngôn luận, tự do không bị bắt bớ giam cầm độc đoán – tất cả đều đang được đưa ra tranh luận bằng đam mê. Nhưng nằm dưới những bàn luận này là vụ ám sát Ganhdiji và những sự kiện bi thương khi chia cắt đất nước đã phơi bày sự bạo lực và những lực lượng phân chia được chôn giấu thật sâu trong mảnh đất Ấn độ và những gợi ý của hỗn loạn, sợ hãi, và tàn sát trong tương lai.

 Sanjeeva Rao, người giáo dục thanh lịch và một trong những người hợp tác lâu nhất của Annie Besant, đã từ Madras đến ở cùng Krishnaji. Theo cùng ông là người vợ Padmabai, một người giáo dụcnăng lực cao và một người tiên phong trong sự giáo dục phụ nữ ở Uttar Pradesh. Vào cuối những năm 1920 trong một thời gian ngắn tôi đã học tại Varanasi, ngôi trường nơi Padmabai là hiệu trưởng. Cao cả, luôn luôn bảo vệ, sẵn sàng giúp đỡ, bà chuyển tải sự thương yêuquan tâm đến những cô gái trẻ tuổi, và cũng được đáp lại bằng tình yêu của các em. Trong những năm 1920 sự giáo dục phụ nữ ở Uttar Pradesh vẫn còn là một đề tài nhạy cảm. Nó yêu cầu sự thông minh và tính trung thực để phổ biến những giá trị đúng đắn cho những cô gái bên trong cái khung bị giới hạn mà môi trường sống đòi hỏi. Nguời em út của Sir B. N. Rao, Shiva Rao, người đại diện địa phương ở Delhi của tờ báo hàng ngày The Hindu, viết bằng ngôn ngữ Anh Ấn và có ảnh hưởng sâu rộng, đang ở chung nhà cùng B. N. Rao. Người vợ của ông Kitty, một người Úc đã đến Ấn độ trong những năm 1920 và dạy học ở Montessori School cho trẻ em tại Varanasi, đảm trách nữ chủ nhà của B. N. Rao.

 Vào những buổi chiều sau bữa ăn tối, K nghe anh em Rao bàn luận về Ấn độ và những rắc rối của hiến pháp mới đang được hình thành.

 K đang viếng thăm và nói chuyện ở Delhi sau khi vắng mặt nhiều năm, và huyền thoại về những năm đầu đời của anh đã tạo ra sự hiếu kỳ và sự quan tâm vô cùng. Những người khoa học, những người cầm quyền, những người ngoại giao, những giáo sư, và những khất sĩ đến những nói chuyện và những bàn luận của anh, thách thức anh bằng những câu hỏi về những thực tế khắc nghiệt của tình hình Ấn độ. Họ phát hiện trong Krishnaji một người lắng nghe nhiệt thành và yên lặng, và thách thức anh bởi sự không đầy đủ của lời giảng của anh, khẳng định rằng anh không có giải pháp cho những vấn đề của nghèo đói, những người thuộc đẳng cấp ti tiện, hệ thống đẳng cấp. Trả lời của Krishnaji là đặt ra một câu hỏi khác: Liệu họ đã biết bản chất của vấn đề rộng lớn này?

 Trong người thầy hiện đại này họ tìm kiếm một Vivekanand, nhưng rời khỏi đầy bối rối – bởi vì họ gặp phải một con người của sự hiện diện siêu đẳng mà không phù hợp vào bất kỳ những bảng phân loại biết trước của họ về những vị thánh và những khất sĩ. Anh trả lời những câu hỏi về nghèo đói bằng cách nói rằng những nhu cầu của con người – lương thực, chỗ ở, quần áo – chỉ có thể được tổ chức hiệu quả khi những nhu cầu không bị lợi dụng cho những mục đích thuộc tâm lý để có được những kết quả tự-loại trừ, nhưng được giải quyết trên mức độ riêng của chúng. Nhận biết được sự tự mãn và thiển cận của những người hỏi, anh khiển trách họ: “Cái trí là chính bạn. Nó không thể yên lặng khi nó đang ngồi trên miệng một núi lửa.” Phủ nhận tất cả những niềm tin, những tín điều huyền bí, và những luyện tập, anh nói cùng những người đã tụ họp, “Cái tôi không là một thực thể vĩnh cửu, nhưng một con suối, nước đang chảy.”

 Hầu hết mọi ngườiẤn độ đã chứng kiến sự đấu tranh dành độc lậpsức mạnh của một chuyển động tập thể, và họ cảm thấy rằng để xây dựng một Ấn độ mới mẻ, vô vàn người phải phát động một đấu tranh mới mẻ cho những giá trị. Krishnaji bảo họ, “Để sáng tạo một cấu trúc mới mẻ tôi phải là người kiến trúc, người xây dựng cũng như người công nhân.” Khi được hỏi một con người có thể làm được gì, anh trả lời, “Bạn suy nghĩ dựa vào những chuyển động to lớn, những hành động to lớn, những trách nhiệm to lớn, nhưng bạn không nhận trách nhiệm. Tại sao bạn không bắt đầu lau chùi bậc thềm cửa trước của nhà bạn, bộ phận của con đường của bạn mà là chính bạn?”

 Ánh sáng thông minh của anh đang dò dẫm vào suy nghĩ và cái trí. “Chúng ta cảm thấy rằng ‘cái tôi’ khác biệt với suy nghĩ, với cái trí. Liệu ‘cái tôi’, người suy nghĩ tách rời khỏi suy nghĩ? Vậy thì người suy nghĩ có thể vận hành vào suy nghĩ. Liệu ‘cái tôi’ tách rời khỏi những phẩm chất của nó? Xóa sạch suy nghĩ, người suy nghĩ ở đâu? Sau mỗi câu anh ngừng lại, như thể thả cho những từ ngữ chìm sâu vào ý thức của người lắng nghe.

 “Chúng ta cảm thấy rằng ‘cái tôi’ là vĩnh cửu, bởi vì tất cả những suy nghĩ khác đến và đi. Nếu người suy nghĩvĩnh cửu, vậy thì suy nghĩ có thể được thay đổi, được kiểm soát, được biến đổi bởi người suy nghĩ. Nhưng ‘cái tôi’ không là kết quả của suy nghĩ hay sao? Cái trí của bạn tách rời ‘cái tôi’ khỏi suy nghĩ bởi vì nó không thể chịu nổi tình trạng không-vĩnh cửu. Suy nghĩ không thể chuyển động từ cái đã được biết đến cái không biết được. Làm tự do cái trí khỏi cái đã được biết là tất cả mọi việc mà cái trí phải làm. Muốn tìm ra cái gì vượt khỏi những từ ngữ, những từ ngữ phải ngừng lại. Tôi chỉ có thể sử dụng từ ngữ để đến cái cửa.”

 Tháng mười hai, Krishnaji được mời đến Teen Murti House, nơi cư ngụ chính thức của Thủ tướng. Tôi cũng có mặt. Jawaharlal vừa quay lại từ Jaipur Congress và trông rất mệt mỏi và buồn bã. Ông nói với Krishnaji, “Thời gian này tôi rất bận rộn, đang làm việc gì mà tôi không biết.” Ông hỏi Krishnaji làm thế nào những lực lượng không-hòa nhập đang lan tràn mau lẹ có thể được ngăn chặn. Krishnaji trả lời rằng sự hòa nhập chỉ có thể bắt đầu tại mức độ cá thể.

 “Đây phải là một tiến hành từ từ, trong khi sự không-hòa nhập đang lan tràn mau lẹ,” Jawaharlal Nehru nói. “Có gì để chứng tỏ rằng những lực lượng không-hòa nhập sẽ không tràn ngập những lực lượng hòa nhập?”

 Krishnaji trả lời, “Điều đó có thể được.”

 Sau đó họ bàn luận làm thế nào cá thể sẽ tự tái sinh chính anh ấy. Krishnaji nói, “Sự hiểu rõ về cái tôi chỉ sinh ra trong liên hệ, trong nhìn ngắm chính bạn trong liên hệ với con người, những ý tưởng, và những sự vật; với cây cối, quả đất, và thế giới quanh bạn và bên trong bạn. Sự liên hệ là cái gương trong đó cái tôi được phơi bày. Nếu khônghiểu rõ về chính mình không có nền tảng cho suy nghĩ và hành động đúng đắn.”

 Jawaharlal Nehru ngắt lời và hỏi, “Làm thế nào người ta bắt đầu?”

 K trả lời, “Bắt đầu nơi bạn là. Đọc mỗi từ ngữ, mỗi cụm từ, mỗi đoạn văn của cái trí, khi nó vận hành qua sự suy nghĩ.”

 Nehru đang lắng nghe, nhưng người ta có thể thấy sự mệt mỏi trên khuôn mặt của ông. Ông hỏi, “Nhân tố chung trong tất cả con người là gì?”

 “Ham muốn lẩn tránh đau khổtìm kiếm hạnh phúc,” Krishnaji nói.

 Kế tiếp Nehru bàn luận sự sợ hãi mà đang xô đẩy con người đến những hành động của bạo lực. Ông hỏi Krishnaji liệu hành động được sinh ra từ sự hiểu rõ có thể làm tự do con người khỏi sợ hãi, sợ hãi thuộc tâm lý mà là lực lượng thúc đẩy những hành động của con người.

 Krishnaji nói, “Tự do khỏi sợ hãi chỉ có thể được sinh ra khi con người nhận biết được chuyển động của sợ hãi bên trong chính anh ấy. Đang thấy nó là đang dập tắt nó.”

 Jawaharlal Nehru và Krishnaji dường như thực sự không hiệp thông cùng nhau ngoại trừ một hay hai lần. Thủ tướng có vẻ rất quan tâm, nhưng rất mệt mỏi. Ông giữ cho mình tỉnh táo bằng cách hút thuốc. Cái trí của ông quay lại vấn đề của sự hòa hợp và sự tiếp cận đến hiểu rõ về chính mình. “Làm thế nào con người hiểu rõ về chính anh ấy?” Ông cứ liên tục đang hỏi, đang tìm kiếm một chứng cớ.

 “Nhìn ngắm cái gì bên ngoài bạn và bên trong bạn. Nhìn ngắm những suy nghĩ của bạn,” Krishnaji nói. “Ai là người suy nghĩ? Và liệu những suy nghĩ tách khỏi người suy nghĩ?” Anh nói về sự cần thiết phải có một cách mạng sâu thẳm trong ý thức; về sự khẩn cấp phải có một nhận biết của toàn cầu để vận hành, nếu không có nó con người không thể tồn tại. Đây là những từ ngữ tiên tri; chúng sẽ bắt đầu có sự xác nhận quan trọng trong thế giới bạo lực, phân chia của những năm 1980.

 Trên đường về nhà sau gặp gỡ, Krishnaji bị bực dọc và buồn bã. Anh bình phẩm rằng cái trí của Nehru là một cái trí nhạy cảm, tốt lành. Nó bị lãng phí trong chính trị. Chính trị gây chết người. Sau đó, tại bữa ăn tối, Krishnaji bàn luận với anh em Rao về vấn đề của không-hoà nhập ở Ấn độ. “Xã hội đang liên tục không-hòa nhập. Vậy thì vị trí của một người đổi mới trong xã hội là gì? Anh ấy không đang thêm vào không-hòa nhập hay sao? Một người đổi mới quan tâm đến những hậu quả và những sắp xếp lại của chúng. Chỉ một người cách mạng đi tới gốc rễ, tới nguyên nhân mà trong đó sự kết thúc được chứa đựng.” Krishnaji đang tự chất vấn chính anh. Anh hỏi liệu Gandhiji là một người cách mạng hay một người đổi mới.

 “Gandhiji có tầm nhìn của người cách mạng. Ông có khả năng suy nghĩ bao quát. Suy nghĩ của ông không phải là suy nghĩ của một người đổi mới,” Sir B. N. Rao nói.

 “Lúc đó ông là một người cách mạng trong suy nghĩ, nhưng trong thực hiện, tầm nhìn thâu hẹp lại. Bị trói buộc trong chính trị, Gandhiji phải thỏa hiệp, và ý thức cách mạng của ông bị chìm xuống và ông trỗi dậy như một người đổi mới,” Krishnaji trầm ngâm. Sau đó anh hỏi Sir B. N. Rao liệu Ấn độ có những người lãnh đạo có thể định hình những hậu quả.

 “Ở Ấn độ, những người lãnh đạo dường như không có quyền hành. Những hậu quả đang cuốn họ đi. Trong sự không-hòa nhập mau lẹ này có cả thất vọng lẫn hy vọng. Có hai con đường trước mặt Ấn độ. Hoặc nó sẽ hoàn toàn bị cuốn đi và không còn có bất kỳ sự quan trọng nào trong thế giới; hoặc, bằng chính sự tiếp xúc những chiều sâu của không-hòa nhập, cá thể sẽ thức dậy trách nhiệm của anh ấy và khước từ bị cuốn đi theo dòng chảy. Một xã hội mới mẻ sẽ trỗi dậy hoàn toàn khác hẳn bất kỳ xã hội nào đã được biết.” Krishnaji nói rằng anh cực kỳ quan tâm để thấy điều gì sẽ xảy ra.

 Lại nữa anh nói về gặp gỡ của anh với Jawaharlal Nehru. Anh đã cảm thấy bị xúc động sâu đậm bởi sự tốt lành của cái trí của thủ tướng, và thật buồn cho ông khi một cái trí nhạy cảm như thế phải bị trói buộc trong chính trị. Krishnaji nói, “Chính trị đã làm cằn cỗi cái trí, nó gây hủy hoại cho sự nở hoa của cái trí.”

 Anandmai Ma, người nổi tiếng nhất trong những “Người Mẹ” được sùng bái đang sống lúc đó (những phụ nữ mà trong sống của họ đã thăng hoa cái tôi và trở thành những biểu tượng của Sakti, người mẹ chính như năng lượng), có một số người theo sau rất đông ở Bắc Ấn, đến gặp Krishnaji. Họ gặp ngoài vườn, bởi vì Người Mẹ không bao giờ vào nhà của một người. Bà không nói tiếng Anh, và nói chuyện qua một thông ngôn. Bà có một hiện diện tỏa sáng tươi cười. Bà nói rằng bà đã xem một bức ảnh của Krishnaji nhiều năm trước và biết rằng anh là một người rất vĩ đại. Bà hỏi anh, “Tại sao ông phủ nhận những đạo sư? Ông mà là đạo sư của những đạo sư.” (câu này được dịch cho anh).

 Anh trả lời, “Con người sử dụng đạo sư như một chiếc nạng.”

 “Con người đến nghe ông giảng tới mức độ hàng ngàn,” bà nói. “Điều đó có nghĩa ông là đạo sư.” Ông dịu dàng cầm tay bà và không trả lời.

 Nhiều người viếng thăm đến và phủ phục mình tại chân của K và Anandmai Ma. Anandmai Ma chấp thuận sự chào hỏi của họ, nhưng Krishnaji bị bối rối. Như luôn luôn như vậy, anh sẽ không cho phép họ cúi đầu chào, nhưng bật dậy và cúi xuống để sờ hai bàn chân của người tìm kiếm sự ban phước lành.

 Sau đó, khi Anandmai Ma ra về, Krishnaji nói về bà bằng sự nồng nhiệt và thương yêu. Đã có sự hiệp thông, mặc dù đa phần không diễn tả bằng từ ngữ. Tuy nhiên, anh kinh hãi bởi quang cảnh những người đàn bà theo sau đầy khích động phủ phục trên mặt đất vây quanh bà.

 Trong những ghi lại của tôi tại thời kỳ đó, tôi đã ghi lại sự viếng thăm của một khất sĩ già mù lòa, người chỉ nói được tiếng Hindu. Người khất sĩ hỏi Krishnaji về sự tự do khỏi những ràng buộc của thân thể và cái trí. Người nào đó thông dịch lại. Krishnaji trả lời đầy đam mê và mãnh liệt, và người khất sĩ dường như hiểu rõ. Mặc dù trong những nói chuyện trước công chúng của anh Krishnaji phê bình những người khoác vào chiếc áo choàng, sâu thẳm bên trong anh luôn luôn cảm thấy anh có sự giống nhau rất nhiều về tính chất đối với những người mặc áo choàng. Trong những năm đầu tiên của anh, có chứng cớ rằng thỉnh thoảng anh đã suy nghĩ về việc trở thành nguời khất sĩ. Nhận biết được những hàm ý của nó, anh đã không làm như thế, nhưng một hòa nhã đặc biệt cho những khất sĩ và những thầy tu Phật giáo thực sự vẫn còn y nguyên, và anh không bao giờ từ chối gặp họ, dù mệt nhọc đến chừng nào. Sự phê bình của anh về những nghi lễ, những kỷ luật và những luyện tập, tuy nhiên, lại rất sắc bén.

 Có một ngày hai hoàng tử Iran đến gặp Krishnaji. Họ đang viếng thăm Ấn độ và nghe về sự hiện diện trong thành phố của một người thầy tôn giáo vĩ đại. Họ hỏi Krishnaji liệu anh có thể tiên đoán tương lai của họ. Krishnaji trông rất giễu cợt, và đã nói rằng anh không là một người chiêm tinh. Họ bị bối rối, bởi vì họ đã nghĩ rằng Krishnaji là một người tôn giáo nên cũng là một người tiên tri.

 Những bàn luận cùng một nhóm nhỏ đã bắt đầu. Achyut Patwardhan ở Delhi và Sunanda cũng vậy, cùng thân thể trẻ trung uyển chuyển và trí năng sắc bén như dao cạo của cô. Sunanda còn rất trẻ, và những giác quan nổ tung của cô khiến cho cô thích thú nhiều lắm. Ngây ngất trong bầu không khí vây quanh Krishnaji và bị rực cháy bởi vẻ đẹp vô cùng của anh, cô sẽ tiếp tục ngồi trên nền nhà sau khi những bàn luận chấm dứt, hai mắt của cô nhắm chặt lại, một lòng bàn tay ép trên má của cô. Sau một vài phút, khi được hỏi chuyện gì xảy ra vậy, cô sẽ mở hai mắt to của cô và nói, “Tôi đang trải nghiệm.”

 Những bàn luận rất chính xác, dò dẫm; mỗi chuyển động, mỗi hành động của sống được mang vào ánh sáng của sự chú ý và được hiểu rõ. Thỉnh thoảng sự tiến hành gây đau đớn, và cái trí của thân thể bị co rút lại do bởi phải đương đầu giải quyết. Chúng tôi bàn luận về bạo lực, tức giận, ganh tị, và chết.

 Tại một trong những bàn luận buổi chiều K được hỏi, “Làm thế nào người ta có thể thương yêu? Được bao bọc trong trạng thái đó đến độ hành động và phản ứng đều thuộc tình yêu, và thế là được tự do khỏi cái tôi?”

 Krishnaji nói, “Liệu bạn có thể biết tình yêu? Chắc chắn, cái mà bạn biết không là tình yêu. Tình yêu là nhạy cảm, mỏng manh đối với mọi thứ. Nó là đạo đức. Liệu đạo đức có thể được học hành? Bất kỳ gắng sức nào để trở thành đạo đức, bất kỳ nỗ lực, là phủ nhận đạo đức.”

 Một công chức trẻ đã nói rằng những huyền bí nào đó đã khẳng định rằng bằng sự thừa nhận một Thượng đế con người, đang phú cho Thượng đế đó những chất lượng nào đó và tình yêu bao la, và sau đó giao phó cái tôi cho những chất lượng đó, cái tôi kết thúc.

 “Việc này hàm ý sự chiếu rọi của cái tôi trong một ý tưởng đã hình thành sẵn về những chất lượng của tình yêu là gì,” Krishnaji nói. “Tôi nói, muốn biết nó bạn phải ở trong trạng thái của không-biết-gì-cả. Nhưng muốn ở trong một trạng thái của không-biết-gì-cả là ham muốn một kết quả, mà bạn đã chiếu rọi rồi; bởi vì tất cả mọi điều bạn biết là cái đã được biết. Làm thế nào bạn có thể đi từ cái đã được biết đến cái không biết được? Bất kỳ việc gì bạn thực hiện từ cái đã được biết vẫn còn trong cánh đồng của cái đã được biết. Vậy thì điều gì xảy ra?” Những người tham dự được thẩm thấu bởi sự minh bạchdễ hiểu của những từ ngữ của anh. “Bạn không tìm kiếm một lối ra, bởi vì bạn không biết một lối ra. Khoảnh khắc bạn thực sự thấy điều này, bạn ra khỏi – trong một trạng thái của không-biết, thâu nhận, sẵn sàng để tiếp nhận cái không biết được.”

 Chúng tôi cũng bàn luận bản chất của sự nhận biết, rằng qua sự suy nghĩ không có lối thoát khỏi lề thói của cái trí, bởi vì suy nghĩ là ngục tù của nó. Krishnaji hỏi, “Liệu có thể có một cái trí hoàn toàn trống không, được tự do khỏi bất kỳ chuyển động đang trôi chảy nào của cái tôi? Liệu chuyển động tới lui đó có thể kết thúc? Trong việc này liệu không có sự tan biến của cái tôi hay sao?”

 Tại khoảnh khắc đó những ngọn đèn bị tắt. Trong bóng tối bầu không khí trở nên bị dồn chặt vào, những cái trí trở thành tối tăm như một trợ giúp cho trống không và không gì cả. Krishnaji bỗng nhiên ngừng nói. Anh nói rằng anh sẽ chờ những ngọn đèn sáng lên. “Trong bóng tối cái trí có thể tự-thôi miên chính nó, tưởng tượng tất cả mọi loại trạng thái. Điều này nguy hiểm. Nó là ảo tưởng.”

 Chính là những biến cố nhỏ này mới phơi bày sự hòa hợpbao la của một cái trí khước từ thỏa hiệp hay cho phép bất kỳ chỗ bám víu cố định nào.

 Achyut Patwardhan, người đã ở Delhi, đến gặp Krishnaji đều đặn. Ông đã đến gặp Dr. Gyanchand, một người kinh tế nổi tiếng tại Delhi University, người đã tuyên bố những quan điểm Xã hội. Gyanchand đã tranh luận với Achyut về bản chất và khung cấu trúc được cần đến để thiết lập những nguyên tắc của sự bình đẳng trong hiến pháp. Ông đã nói rằng khả năng tri thức phải là tiêu chuẩn cho tánh lãnh đạo. Achyut hỏi Krishnaji liệu đây là sự tiếp cận đúng đắn. Đối với Achyut, chủ nghĩa xã hội hàm ý sự vắng mặt của thứ bậc giai cấp tại mọi mức độ. Bằng cách tập trung vào hận thùđau khổ, chủ nghĩa Marxism đã không thấy điều này. Krishnaji hỏi, “Liệu có thể có một tiếp cận mà xóa sạch những khác biệt giữa khả năng hay trí năng?”

 Achyut nói, “Chủ nghĩa xã hội không thể chỉ quan tâm đến những nhu cầu thuộc kinh tế của con người. Sự đấu tranh thuộc kinh tế chắc chắn tạo ra những khác biệt về khả năng, nếu nền tảng không là một bình đẳng của tinh thần.”

 Người nào đó nêu lên câu chuyện của Krishna thay đổi một người phụ nữ lưng gù trở thành có phẩm giá. “Làm thế nào một thay đổi thuộc tâm lý như thế có thể được tạo ra? Liệu có thể có một thay đổi tại gốc rễ của cái trí, và thế là phía bên ngoài nhìn thấy trước toàn bộ những khác biệt thuộc khả năng?”

 Krishnaji hỏi, “Liệu vấn đề không là một vấn đề của khước từ chấp nhận một người lãnh đạo hay sao? Việc này, một mình nó mang lại sự bình đẳng trong những liên hệ thuộc kinh tế và xã hội. Khi bị quăng vào trách nhiệm riêng của anh ấy, chắc chắn con người sẽ tìm hiểu. Và trong tìm hiểu không có cao hơn, không có thấp hơn. Bất kỳ hệ thống nào được đặt nền tảng trên sự chấp thuận của những khác biệt thuộc khả năng để thiết lập địa vị, chắc chắn phải dẫn đến một xã hội thứ bậc, và thế là nuôi dưỡng chiến tranh giai cấp.”

 Sau đó Krishnaji hỏi tôi, “Điều gì trao tặng phẩm giá cho con người? Sự hiểu rõ về chính mình – sự hiểu rõ về bạn là gì? Người theo sau là người xấu xa tệ hại nhất.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19754)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20840)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19150)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40353)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21163)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40946)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24011)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22967)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17753)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26787)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33494)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28713)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19057)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17406)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25577)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18835)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33163)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38243)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24390)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19382)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17816)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22863)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31984)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17325)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16003)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18510)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17935)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20020)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20799)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15014)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15686)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29236)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12687)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14433)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant