Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011
PHẦN 5
THAY ĐỔI TẦM NHÌN
1962-1977
“Viên đá cuội trong Cái Ao”
N |
ăm 1977, kèm theo sự thất bại của Indira Gandhi, tôi từ chức những chức vụ chủ tịch của nhiều tổ chức và ủy ban chính phủ và từ Delhi quay lại Bombay, nơi tôi sẽ sống trong một căn hộ thuê, cũ kỹ trên Malabar Hill. Tôi đã làm việc năng động trong nhiều tổ chức lâu lắm rồi trước khi độc lập, và đây là lần đầu tiên trong ba mươi lăm năm tôi phát giác chính mình không-làm gì cả. Tôi vẫn còn là chủ tịch của Krishnamurti Foundation, nhưng tôi nhận biết mang máng sự bất mãn trong số những đồng nghiệp của tôi.
Từ đầu năm 1978, tôi bắt đầu thấy rõ sự giảm sút của năng lượng phía bên trong tôi. Sự nhạy bén và cùng nhau của những giác quan của tôi đã bị cùn lụt và đang mất đi sức sống. Tôi đã bắt đầu viết, nhưng những từ ngữ tuôn ra khó khăn lắm.
Tôi viết cho Krishnaji ở California tại Malibu, nơi anh đang ở. Anh trả lời ngay tức khắc:
Pupul quý mến của tôi,
Bởi vì bạn đã viết về chính bạn, tôi xin được phép vạch ra những vấn đề nào đó và tôi mong rằng bạn sẽ không phiền hà lắm.
Tôi không nghĩ rằng do bởi tuổi già sinh ra sự thoái hoá của cái trí nhưng bạn đã gặp phải nhiều choáng váng thuộc tâm lý. Bạn đã bị tổn thương nặng nề và nếu tôi được phép nói rõ, bạn đã không chữa trị chúng, đã không thấy vượt khỏi điều đó. Hãy suy nghĩ thật nghiêm túc điều gì tôi đang viết.
Lúc này, bạn phải bắt đầu nhận biết thật sâu thẳm, không thuộc trí năng. Nhận biết thân thể của bạn; bạn phải buông bỏ nó; nhận biết bạn ăn gì và bạn ăn bao nhiêu; tập luyện, vân vân. Hãy giáo dục thân thể đó, bạn đã lơ là nó; vậy là thông minh riêng của nó sẽ đảm trách.
Bạn đã, nếu tôi được phép nói rõ, vun đắp trí năng, cùng sự hung hăng của nó và không màng đến phía còn lại của nó mà là tình yêu, từ bi. Dĩ nhiên, người ta không thể hay có lẽ không vun đắp tình yêu nhưng người ta phải hoàn toàn nhận biết điều này. Nếu người ta được phép nói rõ, hãy trao chú ý trọn vẹn và thế là không-chọn lựa của bạn vào tất cả điều này.
Dĩ nhiên, có tuổi già, cùng tất cả những phiền toái của nó nhưng chúng là bình thường và tự nhiên. Nhưng không cách nào những phiền toái này nên cản trở cái trí và vẻ đẹp của nó; mặc dù chúng có liên quan lẫn nhau, cái trí là vô hạn.
Xin lỗi khi phải viết như thế này! Tôi muốn giải thích nó càng ít từ ngữ bao nhiêu càng tốt. Bạn sẽ hiểu rõ tất cả điều này và thương yêu làm sao đâu khi người ta đang viết điều này. Hãy giữ gìn sức khỏe, Pupul và gặp bạn mau thôi.
Yêu
quý,
J. K.
Từ nước Anh, Krishnaji đến vào cuối thu năm 1978. Anh đi thẳng từ Delhi đến Varanasi, được theo cùng bởi Mary Zimbalist. Tôi theo anh đến Rajghat, Varanasi, nơi tôi sẽ ở lại trong một căn nhà vùng quê trên bờ của một vực thẳm, nhìn ra sông Ganga. Con sông nước cạn, lộ ra hai bờ được trồng bởi cây mù tạc vàng rực. Những mặt trời mọc và lặn đã nhiễm vào nước; chim chóc nghỉ ngơi trên những cành cây ló ra sông và những âm thanh của sử thi “Ramayan” của Tulsida trôi nổi dưới con sông.
Nhưng sự đam mê mà con sông đó đã đánh thức trong tôi vào những năm đầu tiên không còn nữa. Khi tôi nói chuyện với những đồng nghiệp, lại nữa tôi cảm thấy bị lạc điệu.
Krishnaji rất nồng nhiệt và ân cần khi anh gặp tôi, nhưng cũng vậy, với anh tôi cảm thấy một khoảng cách. Sau vài ngày tôi đến gặp anh. Thoạt đầu tôi do dự lắm, nhưng sau vài phút tôi nói với anh rằng tôi đang cảm thấy già nua, bộ não đang mất đi sự nhạy bén và khả năng thâm nhập lẫn đào sâu. Chẳng còn bao nhiêu những thấu triệt mới mẻ. Anh đang ngồi cách xa tôi. Sau khi tôi nói xong, chúng tôi ngồi yên lặng một lúc. Cuối cùng anh nói, “Hai năm qua tôi đã nhận thấy rằng bạn không gặp tôi.”
Tôi rưng rưng nước mắt. Tôi ngước lên và bắt gặp hai mắt của anh đang phản ảnh chính tôi. “Khi những tế bào não thoái hóa, chúng không bao giờ có thể mới mẻ lại,” anh nói. “Khi một liên hệ bị đổ vỡ, nó không bao giờ có thể được khôi phục lại.” Anh ngừng nói, có lẽ đang lắng nghe sự phản ứng không-từ ngữ của tôi. Sau đó anh tiếp tục. “Nhưng một tế bào mới mẻ trong bộ não phải được sinh ra, một liên hệ mới mẻ hiện diện. Trong đó là mới mẻ lại.” Tôi lắng nghe. Không phản ứng, không phản đối. Không một suy nghĩ nào nảy sinh và cũng không cần thiết phải hỏi anh thêm nữa. Tôi ngồi yên lặng, sau đó đi về phòng của tôi.
Tôi nói rất ít trong suốt những ngày tại Varanasi. Chẳng mấy chốc, đầu tháng mười hai, tôi rời Varanasi để đi Rishi Valley.
Bộ não của tôi đã nghỉ ngơi. Đã không có sự rõ ràng hay năng lượng tức khắc, nhưng sự hỗn loạn phía bên trong bộ não, cảm giác của một thủy triều đang rút xuống, đã chấm dứt. Tôi lại có thể nhìn ngắm những cái cây; quan sát hình thể của tảng đá láng này lóng lánh vào tảng đá láng khác đang thay đổi màu sắc cực mạnh trong ánh mặt trời, lắng nghe những âm thanh xa xa của trẻ em, nhìn ngắm những con bướm bay thành đàn trên những bông hoa dại trong thung lũng; nhưng khoảng cách giữa những đồng nghiệp và tôi vẫn tiếp tục.
Một buổi sáng tôi thức giấc sau một giấc ngủ sâu. Krishnaji bị bệnh và đang nghỉ ngơi trong phòng riêng của anh. Tôi đi đến anh và thấy anh đang nằm trên giường. Tôi nói, “Krishnaji, tôi đã suy nghĩ nhiều về điều gì anh đã nói với tôi ở Varanasi. Tôi cũng đã xem xét chức chủ tịch Krishnamurti Foundation hiện nay của tôi, và tôi cảm thấy một cách sâu thẳm tận đáy quả tim của tôi rằng anh nên là chủ tịch. Tôi đã phản đối chức vụ chủ tịch của anh từ đầu những năm 1970, bởi vì tôi cảm thấy rằng anh sẽ phải gánh những trách nhiệm, phải tiếp xúc với luật pháp và nhiều thứ nữa, nếu anh là chủ tịch. Gánh nặng này tôi cảm thấy không nên đặt vào anh. Nhưng lúc này tôi lại cảm thấy rằng sẽ đúng đắn cho anh khi là người đứng đầu của K. F. I.”
Anh nhắm hai mắt lại, đặt hai lòng bàn tay trên ngực của anh, và nằm yên lặng một lúc lâu. “Bạn cảm thấy nó từ những chiều sâu của chính bạn?”
“Vâng.”
“Vậy thì hãy thả nó một mình, câu trả lời sẽ đến,” anh nói, hai mắt của anh vẫn nhắm lại.
Sau đó anh mời những thành viên của Foundation hiện diện ở Rishi Valley và nói, “Hôm qua Pupul đến gặp tôi và từ tận đáy quả tim của bạn ấy, nói rằng bạn ấy cảm thấy K nên là chủ tịch của K. F. I. Tôi đã không trả lời nhưng thả nó, bởi vì trong cách khác thường riêng của tôi, một đáp án sẽ đến.” Nhưng, anh nói, anh muốn rõ ràng về vị trí của anh.
“Năm 1928, K đã giải tán Order of the Star và nói tất cả những tổ chức quy định con người; thuộc tinh thần, thuộc chính trị, hay liên quan đến sự đổi mới xã hội; những tổ chức không mang lại tự do. Con người đã càng lúc càng trở thành một con người có tổ chức.
“Tôi sẽ làm gì?” anh hỏi. “Tôi không là một con người của tổ chức. Tôi không tuân phục vào một khuôn mẫu. Vì vậy sự liên hệ của chúng ta là gì? Liệu K. Foundation phải tồn tại? Những trường học đã đảm đương những Foundation. Chức năng của Foundation là gì – liệu chúng ta rõ ràng – tại sao Foundation nên tồn tại? Mục đích của nó là giữ gìn đất đai và thấy những trường học được duy trì trong phương hướng đúng đắn.
“Pupul nói rõ rằng trong nhều năm bạn ấy đã không đồng ý tôi là chủ tịch – tôi hiểu rõ. Bạn ấy nói rằng, lúc này tôi nên chấp thuận và tôi hỏi chức năng của tôi và sự liên quan của tôi với toàn bộ sự gây dựng ở Ấn độ là gì – và tất cả các bạn nghĩ trách nhiệm của tôi là gì? Hãy luôn nhớ rằng, K đã giải tán tất cả những tổ chức mà ông ta có liên quan. Ông ta nói không tổ chức nào sẽ giúp đỡ cho thế giới.” Rajesh nói Krishnamurti Foundation ở Ấn độ không là một tổ chức, nhưng trong ý nghĩa đúng đắn nó là một lực lượng hướng dẫn.
“Vì vậy nếu ông ta là chủ tịch, điều gì sẽ xảy ra? Nhớ rằng tôi sẽ ở trong quốc gia này chỉ trong ba tháng. Tôi không thể nói tiếp tục rồi quay lại và nói, ‘Nó không đang chuyển động trong phương hướng đúng đắn.’
“Sự liên hệ của bạn với tôi là gì? Liệu chúng ta tin cậy lẫn nhau, rằng chúng ta sẽ làm đúng đắn trong tất cả những hoàn cảnh?”
Tôi trả lời rằng mỗi người chúng tôi có một liên hệ cùng Krishnaji, và bởi vì điều đó chúng tôi có một liên hệ nào đó với lẫn nhau. Chúng tôi có trách nhiệm với Krishnaji, nhưng khi Krishnaji đi khỏi, chúng tôi đã không cảm thấy có trách nhiệm với nhau.
Achyutji nói, “Chúng tôi chịu trách nhiệm đối với lời giảng, mà là cái nguồn.”
“Tôi cảm thấy nếu anh là chủ tịch có lẽ giải quyết được sự bế tắc đang tồn tại trong Foundation,” tôi nói. “Có những cản trở. Sự bế tắc phải được đập nát.”
Krishnaji nói, “Đập nát nó. K hiện diện ở đâu?”
Sau đó chúng tôi bàn luận bản chất của đồng-hợp tác – cùng nhau làm việc trong đồng-hợp tác, không phải bởi vì một lý tưởng, không phải về cái gì đó, nhưng đơn giản là cùng nhau làm việc, đồng-hợp tác. Những bàn luận sẽ tiếp tục trong hai ngày kế tiếp.
Sau những gặp gỡ tôi đi đến phòng của anh; hai mắt của tôi sáng lên, được tự do khỏi những gánh nặng. Tôi nói với anh. “Liệu anh nhận ra rằng, cùng việc không là chủ tịch Krishnamurti Foundation của tôi, tôi hoàn toàn rũ bỏ được mọi thứ?”
Anh nói, “Vâng, tôi biết,” và yên lặng.
Không một từ ngữ cần phải thốt ra, một liên hệ mới mẻ của sự tin cậy và một tình bạn vô giới hạn cùng Krishnaji được sinh ra. Nói với tôi về bản chất của sự tin cậy, anh nói, “Nó chỉ có thể xảy ra được khi bộ não buông bỏ những gánh nặng của nó, được tự do.” Chẳng mấy chốc tôi sẽ bắt đầu viết một quyển sách về Krishnaji. Tôi kể cho anh về ý định của tôi, và anh đã đáp lại bằng sự nồng nhiệt.
Liên quan đến quyển sách tôi đang viết, tại Rishi Valley một buổi sáng tháng mười hai năm 1978, tôi hỏi Kishnaji liệu tôi có thể tìm hiểu cái trí của anh và khai mở phương cách vận hành của nó. Anh sẵn sàng đồng ý. Tôi đặt ra cho anh những câu hỏi, anh lắng nghe câu hỏi rất mãnh liệt, và từ sự mãnh liệt đó đáp án nảy ra. Người ta có thể cảm thấy sức mạnh và độ dầy của cái trí và chiều sâu mà từ đó anh nói.
Tôi nói, “Tôi đã nghe anh được trên ba mươi năm. Anh nói không có con đường dẫn đến sự thật, không phương pháp được dính dáng. Nhưng khi tôi quan sát anh, một tiến hành nào đó đã tự bộc lộ. Tôi muốn tìm hiểu cái trí của anh bởi vì tôi cảm thấy rằng sự thâm nhập vào cái trí của anh, và phương cách nó vận hành, có lẽ tiết lộ bản chất của sự quan sát và sự tìm hiểu đúng đắn. Và đó là mấu chốt mà chúng tôi đang bị sa lầy. Lúc này, anh thâu nhận một câu hỏi được đưa ra cho anh như thế nào? Liệu chúng tôi có thể thâm nhập vào trạng thái của cái trí mà thâu nhận một câu hỏi?”
“Đúng. K thâu nhận một câu hỏi như thế nào? Làm thế nào K, khi một câu hỏi được đưa ra cho anh, bắt đầu câu trả lời? Tôi nghĩ anh ấy sẽ nói, trước hết phải có hồn nhiên. Đó có nghĩa là một lắng nghe không-kết luận, không-rào chắn và bởi vì không-cản trở, cái trí…liệu tôi có thể sử dụng từ ngữ trống không? Cái trí trống không, trong ý nghĩa rằng không-những đáp án được nghĩ trước, không-hồi tưởng về những đáp án cũ kỹ, và thế là không-đang ghi lại thêm nữa về những đáp án đó.”
Tôi tiếp tục đẩy sâu, “Bây giờ trong trạng thái đó, vận hành của chú ý là gì? Có một vận hành của chú ý, mà là vận hành của tìm kiếm. Nếu cái trí không tìm kiếm, điều gì xảy ra cho câu hỏi? Cái trí có lẽ thâu nhận câu hỏi trong trống không, nhưng điều gì thực sự xảy ra cho câu hỏi? Bởi vì anh có trả lời.” Tôi đang thách thức anh.
K trả lời, “Khi một câu hỏi được đưa ra, có một đang nghe về nó, không chỉ bằng tai, nhưng còn cả đang nghe về nó mà không có qui trình thông thường của nghe. Nó giống như một hạt giống được đặt vào đất và tiếp theo đất tác động vào hạt giống và hạt giống tác động vào đất và dần dần từ đó trồi lên một cái cây, một bông hoa, và vân vân. Vì vậy, khi một câu hỏi được đưa ra, nó được nghe bằng tai và cũng có một trạng thái trong đó đang nghe không-tai và từ trạng thái đó có đáp án.”
“Khi người ta quan sát anh, người ta cảm thấy rằng đôi mắt của anh đang tham gia trong tiến hành lắng nghe,” tôi nói. “Anh có một mắt đang lắng nghe, nếu tôi có thể giải thích như thế. Lúc này, anh đã nói có một đang lắng nghe bằng tai và có một đang lắng nghe không-tai. Liệu một dụng cụ mới mẻ đã hiện diện? Một dụng cụ, không phải trong ý nghĩa của một tăng trưởng thuộc vật chất trong những tế bào não, nhưng một khả năng mới mẻ?” Tôi đã bắt đầu khoét sâu.
“Tôi nghĩ như thế, Pupulji. Tôi muốn trả lời điều này bằng cách giới thiệu một từ ngữ khác, ‘thấu triệt’. Thấu triệt là một trạng thái của cái trí trong đó không có hồi tưởng, không có kết luận, không có ý thức của mong đợi, không có chất lượng của phản ứng, và thâm sâu hơn nữa được bao gồm trong từ ngữ đó. Lúc này, khi bạn đưa ra một câu hỏi, có một đang nghe bằng tai và cũng có một đang nghe không-tai, mà có nghĩa cái trí ở trong một trạng thái không-hồi tưởng, không-kết luận, không-ghi lại trước của câu hỏi đó và vì vậy không có trả lời cho câu hỏi đó phụ thuộc ký ức có sẵn. Trạng thái đó không hiện diện ở đó, có thấu triệt vào câu hỏi.” Krishnaji đang thâm nhập cái trí của anh.
“Liệu đang nghe không-tai hiện diện cùng ngay sự kết thúc của qui trình cái trí? Hay liệu nó là cái gì khác?
“Khi có thấu triệt của loại đó, chính những tế bào não trải qua một thay đổi. Khi có thấu triệt, thấu triệt đó thay đổi những tế bào não.” Anh đang nhận biết cái trí của anh khi anh nói.
“Anh đã nói có đang nghe bằng tai và có một đang nghe không-tai, và thấu triệt đó sáng tạo một thay đổi trong những tế bào não. Liệu thấu triệt nảy sinh bởi vì đang nghe không-tai? Liệu anh có thể giải thích đang nghe không-tai này?”
“Chúng ta hãy xem thử. Trước hết có đang nghe bằng tai, mà tất cả chúng ta đều biết; và đang nghe không-tai, mà là một trạng thái giống như tình trạng của một cái ao phẳng lặng, một cái hồ hoàn toàn yên lặng và khi bạn thả một cục đá vào nó, nó tạo ra chút sóng lăn tăn rồi tan biến. Tôi nghĩ đó là đang nghe không-tai, một trạng thái khi có sự yên lặng tuyệt đối của cái trí; và khi nghi vấn được thả vào cái trí, đáp án là sóng, một gợn sóng. Tôi không hiểu liệu tôi đang giải thích rõ ràng.
“Liệu cái ao là ma trận của cái trí?” tôi hỏi.
“Bạn có ý gì qua từ ngữ ma trận?”
“Liệu nó chỉ là ‘cái trí’?”
“Tôi không hoàn toàn hiểu rõ lắm,” Krishnaji nói. “Tôi sẽ phải tìm hiểu nó. Khi bạn nói liệu nó chỉ là ‘cái trí’, bạn có ý gì?”
“Liệu nó là tổng thể của cái gì đã là? Thoạt đầu anh đã nói rằng ý thức là nội dung của nó.”
“Vâng.” Krishnaji đang lắng nghe mãnh liệt.
“Đang thâu nhận vào…”
“Lúc này hãy chờ một chút. Quan sát nó. Ý thức bị phân chia; và khi bạn đưa ra một câu hỏi cho ý thức bị phân chia đó, đáp án sẽ bị phân chia.”
“Khi câu hỏi được đưa ra, và được thâu nhận như trong một cái ao, liệu nó là tổng thể mà thâu nhận?” Đến lúc này cái trí của tôi đã nắm bắt được sự yên lặng, và những câu hỏi tôi đưa ra đang nảy ra từ những trả lời của Krishnaji.
“Tôi nghĩ điều đó thực sự lý thú lắm, và chúng ta nên thâm nhập nó. Liệu cái trí có thể thâu nhận thật lạ thường đến độ nó không có những rào cản và quá khứ không len lỏi vào nó?’
“Quá khứ là những mảnh?” tôi tìm kiếm sự rõ ràng.
“Đúng, quá khứ là những mảnh. Và liệu quá khứ có thể không len lỏi vào nó?”
“Ông nói có một đang lắng nghe bằng tai và có một đang lắng nghe không-tai. Liệu đang lắng nghe đó có cùng chất lượng như đang lắng nghe mà chúng ta biết? Hay liệu nó thuộc về một bản chất khác hẳn?”
“Thuộc về một bản chất khác hẳn, chắc chắn.”
“Sự khác biệt là gì?” tôi đang đẩy sâu thêm.
“Đang lắng nghe bằng tai hay đang nghe bằng tai, và trả lời từ đang lắng nghe đó cho một câu hỏi chắc chắn sẽ bị phân chia. Đúng chứ? Điều đó rõ ràng. Nhưng khi có một đang lắng nghe không-tai, trạng thái của đang lắng nghe đó không bị phân chia. Đang lắng nghe bằng tai hàm ý một ghi lại và một hồi tưởng từ sự hiểu biết thuộc quá khứ. Nó là trải nghiệm đang trả lời câu hỏi. Trong đang lắng nghe không-tai, không có dính dáng đến quá khứ. Thế là nó không là một đáp án bị phân chia. Tôi nghĩ điều đó đúng đắn.”
“Liệu đang lắng nghe không-tai đó khác biệt với cái mà thâu nhận?”
“Tôi không theo kịp lắm,” K nói.
“Một câu hỏi được đưa ra, nó được thâu nhận bằng tai, nhưng cũng có một đang lắng nghe không-tai. Bây giờ, liệu đang lắng nghe không-tai đó, giống hệt như trạng thái mà thâu nhận?” Tất cả những nương tựa phía bên trong tôi đã kết thúc.
“Đúng, phải như thế, dĩ nhiên. Một cái ao tuyệt đối yên lặng, một câu hỏi được thả vào cái ao, cái ao là nước tinh khiết không có tất cả ô nhiễm mà con người đã bỏ vào, mà là quá khứ. Cái ao là nước trong trẻo, thông suốt, và một câu hỏi được thả vào nước đó như một cục đá và câu trả lời là sóng. Tôi nghĩ đó là phương cách nó vận hành.”
“Bởi vì có một đang lắng nghe không-tai, liệu cũng có một đang thấy không-mắt?”
“Có,” Krishnaji nói. “Bạn đang sử dụng từ ngữ ‘mắt’ trong ý nghĩa của thị giác, mắt nhìn? Có.”
“Liệu chúng ta có thể thâm nhập bản chất của nó?”
“Chúng ta hãy xem thử. Đang nghe không-tai và đang thấy – đang thấy bằng mắt mà không có quá khứ đang can thiệp cùng đang thấy – là giống hệt. Đang nghe không-tai và đang thấy, đang thấy bằng mắt, đang thấy bằng thị giác, cả hai đều giống hệt.” Krishnaji đang làm cho dễ hiểu khi anh trả lời. “Điều gì quan trọng là sự không-hồi tưởng mà không có quá khứ đang can thiệp.”
“Thưa anh, truyền thống khẳng định rằng chuyển động phía bên ngoài của mắt là chuyển động của đặt tên. Chuyển động của thị giác mà quay lại, đột phá qui trình đặt tên, phá vỡ qui trình đặt tên, làm tan biến qui trình đặt tên. Liệu đó là như thế?” Tôi quay lại ký ức, đến một qui trình quen thuộc trong yoga.
“Chúng ta hãy xem thử liệu tôi đã hiểu rõ câu hỏi một cách đúng đắn. Liệu bạn đang nói có cái nhìn thị giác đang đi ra ngoài rồi sau đó đang quay lại từ chuyển động phía bên ngoài vào chuyển động phía bên trong?”
“Không,” tôi nói. “Có chuyển động, phía bên ngoài, mà tất cả chúng ta đều biết, mà là chuyển động của đang thấy, đang ghi lại, đang tập trung, vân vân. Tiếp theo có cho sadhaka, một người tham thiền, đó là cho người mà đang thấy, một chuyển động trong đó chính đang thấy bằng mắt bị quẳng vào bên trong, phá vỡ qui trình đặt tên, qui trình phân chia. Nó là một chuyển động đang chảy lùi.”
“Chuyển động tiến tới và chuyển động lùi lại?”
“Nó không là chuyển động tiến tới đang lùi lại, nhưng thị giác mà chuyển động ra ngoài, và một chuyển động khác trong đó nó không chuyển động ra ngoài.”
“Tôi hiểu. Nó không giống như một thủy triều mà đang đi ra ngoài và đang đi vào trong. Chỉ có một đang đi ra ngoài.”
“Và một chuyển động khác hoàn toàn, mà đang rút vào thuộc thị giác.”
“Vậy là đó là điều gì truyền thống nói. Bạn nói gì đây?” Krishnaji hỏi.
“Đang nhìn ra ngoài tập trung.”
“Bằng từ ngữ đang nhìn ra ngoài, bạn có ý đang nhìn cái cây?”
“Đang nhìn phía bên trong kết thúc đang tập trung, kết thúc chính dụng cụ mà tập trung.” Tôi đang cố gắng phơi bày một trạng thái của nhận biết.
“Tôi phải hiểu điều này rất rõ ràng,” K nói. “Bạn nói đang nhìn phía bên trong này không cùng chuyển động của mắt mà nhìn, quan sát thế giới bên ngoài, nhưng một đang nhìn phía bên trong, mà không là rút ra ngoài của thủy triều. Có đang thấy, đang ra ngoài và đang vào trong. Nhưng liệu đây là một cách hoàn toàn khác hẳn của nhìn phía bên trong?”
“Nhìn phía bên trong không là thủy triều đó,” tôi trả lời.
“Không là thủy triều đó?”
“Nhưng nhìn phía bên trong có thể là một thủy triều.”
“Dĩ nhiên. Đó là sự nguy hiểm của nó. Thủy triều đó đi ra và thủy triều đó đi vào.”
“Anh có thể nhìn bằng cùng…”
K ngắt lời, “Tôi biết, nó có thể cùng nước. Ngược lại, đi ra ngoài bằng mắt này và nhìn phía bên trong là hai qui trình khác biệt, hoàn toàn khác biệt. Liệu đó là như thế? Bạn thấy, tôi nghi ngờ toàn sự việc này. Tôi không hiểu liệu có một nhìn phía bên trong. Chúng ta có thể thâm nhập điều đó?” Anh ngừng lại. “Liệu nhìn phía bên trong hàm ý một chuyển động của sự suy nghĩ?”
“Không, thưa anh.”
“Vậy thì nếu không có chuyển động của sự suy nghĩ, vậy thì bạn có ý gì qua từ ngữ nhìn phía bên trong?” Những dụng cụ của sự thâm nhập rất tinh tế.
“Nhìn phía bên trong là đang thấy của ‘cái hiện diện’ tại một tích tắc đặc biệt. Không có phía bên trong và phía bên ngoài trong trạng thái đó.”
“Đó là toàn mấu chốt. Lúc này, chúng ta hãy rất rõ ràng. Điều gì bạn đang nói là rằng, nhìn-phía bên ngoài và nhìn-phía bên trong không là thủy triều đang đi ra ngoài và thủy triều đang đi vào trong. Nhìn-phía bên trong không là phản ứng đối với nhìn-phía bên ngoài. Nhìn-phía bên trong hoàn toàn khác biệt nhìn-phía bên ngoài. Bạn đang nói, nhìn-phía bên trong đó xóa sạch toàn cấu trúc của sự suy nghĩ. Đó là điều gì bạn đang nói.” Anh ngừng. “Tôi nghi ngờ điều đó.” Anh lại ngừng. “Tôi nghi ngờ liệu có một nhìn-phía bên trong. Chúng ta hãy thư thả. Chờ đã, tôi chỉ đang thâm nhập, Pupul. Tôi không đang nói nó là như thế hay không là như thế. Nhìn-phía bên trong là gì? Người ta có thể nhìn-phía bên trong từ điều gì bạn đã nói, vào toàn chuyển động của sự suy nghĩ. Đúng chứ? Liệu đó là nhìn-phía bên trong?”
“Tôi sẽ nói nó là nhìn-phía bên trong, bởi vì trong nó có nhìn thuộc vật chất.”
“Vâng, trong thấy phía bên ngoài.”
“Và một nhìn không-vật chất. Đó là, nhìn là thuộc vật chất, nhưng cái gì được thấy là không-thuộc vật chất. Suy nghĩ không là một sự việc mà có thể được thấy.”
“Tất cả suy nghĩ là một qui trình vật chất,” Krishnaji nói bằng sự chính xác.
“Nhưng nó không thể thấy được.”
“Vâng. Nhưng nó là một qui trình vật chất – sự hồi tưởng, sự ghi lại của hiểu biết; tất cả điều đó là một qui trình vật chất.”
“Vâng, đó có lẽ là như thế, nhưng có một khác biệt giữa trạng thái của thấy cái micro và thấy chuyển động lóe sáng của cái trí.”
“Nhưng chuyển động lóe sáng của suy nghĩ vẫn còn là qui trình vật chất.” Krishnaji khẳng định chắc chắn.
“Vâng, đúng rồi. Nó là một qui trình vật chất. Liệu sự tồn tại của nó ở trong một kích thước mà chúng ta gọi là phía bên trong?”
“Phía bên trong? Tôi nghi ngờ điều đó.” Một yếu tố mới mẻ đã thêm vào, đang bộc lộ ảo tưởng của phía bên ngoài và phía bên trong.
“Nó ở nơi nào đó, thưa anh.”
“Đúng, nhưng tại sao nó phải ở phía bên trong hay phía bên ngoài?”
“Bởi vì nó không ở phía bên ngoài, nó không là cái gì đó nhìn thấy được ‘phía bên ngoài.’ ”
“Nó không nhìn thấy được như khuôn mặt của một người nhìn thấy được trong gương. Suy nghĩ không thể nhận biết được bằng mắt như bạn nhận biết được khuôn mặt của bạn trong gương. Vì vậy, liệu đó là cái mà bạn không thể nhận biết được trong gương nên bạn gọi là phía bên trong?”
“Đúng, nó tồn tại,” tôi nói.
“Vâng, nhưng tôi sẽ nghi ngờ liệu nó ở phía bên trong.”
“Anh có thể không sử dụng từ ngữ phía bên trong nhưng thay thế bằng một từ ngữ khác.” Tôi đang đẩy sâu sự thách thức.
“Không, không.”
“Nó ở đâu?”
“Tôi sắp sửa nói cho bạn điều gì đó. Tôi tin rằng những người Eskimo, khi họ sử dụng từ ngữ suy nghĩ, họ có ý cái gì đó phía bên ngoài.”
“Vâng.”
“…Theo dõi nó cẩn thận, theo dõi nó. Hãy suy nghĩ về nó.”
“Tôi hiểu rõ, thưa anh. Tôi thấy vật gì là cái gì đó phía bên ngoài. Nó là một thấy thuộc vật chất. Bản chất của chính sự suy nghĩ, tôi không bao giờ có thể thấy bằng cùng…thuộc mắt”
“Điều đó rất đơn giản. Tôi có thể thấy khuôn mặt của tôi trong gương. Tôi không thể thấy suy nghĩ trong một cái gương. Điều đó dễ hiểu.”
“Tôi thấy suy nghĩ ở đâu? Vậy thì ‘thấy’ này là gì?” Tôi hỏi.
“Đó là nó. Tôi không nghĩ có ‘thấy.’ ”
“Nhưng anh liên tục nói phải có ‘thấy.’ ”
“Thấy? Thấy bông hoa,” Krishnaji nói.
“Cũng cả thấy tức giận.”
“Không, tôi đã chỉ nói ‘thấy.’ ”
“Vừa lúc nãy anh đã nói điều gì đó. Anh đã nói, ‘Tôi không nghĩ có một thấy gì cả.’ Liệu có thể thâm nhập câu đó?”
“Tôi phải rất rõ ràng về mấu chốt này,” Krishnaji nói. “Trước hết có một nghe bằng tai và có một nghe không-tai, mà là một trạng thái giống như một cái hồ xử lý nước thải của nhà máy tuyệt đối phẳng lặng không một chút lăn tăn nào. Không có không khí khiến cho nó gợn sóng. Và lúc đó nghi vấn được thả vào nó, nó giống như một cục đá rơi xuống một cái hồ phẳng lặng. Những gợn sóng là những đáp án.”
“Mà chính nghi vấn tự-dội lại?”
“Đúng, đó là điều gì chúng ta đã nói từ khởi đầu. Khi bạn tiếp cận nghi vấn mới mẻ lại, chính thả nghi vấn vào cái hồ xử lý nước thải sáng tạo đáp án. Không có thực thể trả lời. Điều đó rất quan trọng. Lúc này, luôn luôn nhớ rằng thấy khuôn mặt trong gương là rõ ràng, nhưng thấy suy nghĩ không thể được, ‘thấy suy nghĩ là gì?’ ”
“Cái gì đang thực sự xảy ra?” Tôi hỏi.
“Đó là điều gì chúng ta sắp sửa tìm ra,” K trả lời. “Trước hết chúng ta hãy rõ ràng. Không có ‘thấy’ suy nghĩ. Bởi vì điều đó hàm ý rằng có một người thấy và suy nghĩ như tách khỏi. Thấy khuôn mặt trong gương là rõ ràng. Cái gương không thể phản chiếu suy nghĩ. ‘Thấy’ suy nghĩ hàm ý rằng có một người thấy và suy nghĩ. Nhưng người thấy là suy nghĩ. Vì vậy chỉ có suy nghĩ, mà không thể được thấy trong cái gương. Vì vậy đối với tôi không có nhìn-phía bên trong.”
“Vậy thì anh có ý gì khi anh nói về ‘thấy’ cái gì là?”
“ ‘Thấy cái gì là’ không chỉ là quan sát bằng mắt thường, hệ thần kinh thị giác, nhưng còn cả nghe ‘cái gì là’ không-bằng tai; ‘cái gì là’ hàm ý tất cả điều đó, ‘thấy’, ‘nghe.’ ”
“Nhưng anh nói suy nghĩ không thể thấy được.” Tôi thúc đẩy anh.
“Không. Suy nghĩ không thể thấy được bằng nhìn-bên trong.”
“Vậy thì suy nghĩ có thể thấy được bằng cái gì?”
“Suy nghĩ không thể thấy…”
“Nó không thấy được bằng nhìn-bên trong, nó không thấy được như anh thấy trong cái gương và tuy nhiên anh nói có một ‘thấy.’ ”
“Không, tôi sẽ không sử dụng từ ngữ ‘thấy,’ K nói.
“Vậy thì anh sẽ sử dụng từ ngữ gì?”
“Tôi sẽ nói, ‘suy nghĩ đang nhận biết chính nó.’ ”
“Suy nghĩ đang nhận biết chính nó?” Tôi hỏi.
“Đang nhận biết những hoạt động riêng của nó.”
“Nhưng anh đã nói, tất cả những năm này, về ‘thấy cái gì là.’ ”
“Tôi nói về thấy cái gì đang xảy ra, thực sự, phía bên trong, không phải sự quan sát về ‘cái gì là’ đang xảy ra bằng một mắt thường hay bằng một suy nghĩ khác. Khi bạn nói ‘thấy,’ nó hàm ý điều đó.”
“Trạng thái đó là gì?” Tôi dò dẫm.
“Đó là điều gì chúng ta đang thâm nhập. Nếu bạn nói phía bên trong ‘thấy’, tôi nói rằng bạn đang mang một trạng thái phân hai vào cái được thấy. Đúng chứ?” Cái trí của Krishnaji đang tinh tế xuyên thủng.
“Liệu có thể có ‘thấy’ mà không có một trạng thái phân hai?’ Tôi hỏi.
“Vâng, ‘thấy’ này hàm ý một trạng thái không-đối nghịch.”
“Bởi vì thấy như thế cùng chất lượng giống như cái hồ.”
“Vâng, đó là lý do tại sao khi bạn nói về nhìn-phía bên trong, có cái gì đó giả tạo trong sự tiếp cận đó. Chính suy nghĩ phải yên lặng. Tôi nghĩ nó làm việc giống như cái hồ. Và khi bạn đưa ra một nghi vấn từ đó, nghi vấn được đáp lại từ cái hồ.”
“Nhưng, thưa anh, tức giận nảy sinh, hay ghen tuông nảy sinh. Nó là một sự việc thuộc vật chất?”
“Tuyệt đối.”
“Tôi trở nên nhận biết và nó qua rồi. Bởi vì tôi không thể ‘thấy’ cái mà qua rồi.”
“Nhìn kìa, bạn nói ghen tuông nảy sinh và có đang quan sát về nó.”
“Liệu có thể có một quan sát về trạng thái thực sự của ghen tuông nảy sinh? Nếu như thế, nó sẽ không nảy sinh.”
“Không,” K trả lời. “Sự kiện là, ghen tuông nảy sinh. Ghen tuông là một phản ứng mà chúng ta đặt tên. Trước khi bạn đặt tên nó như là ghen tuông, liệu phản ứng đó có thể được nhìn ngắm? Không phải như một người nhìn ngắm đang nhìn ngắm. Bạn hiểu rõ điều gì tôi đang nói? Nhưng nhìn ngắm trong đó không-đối nghịch? Liệu tôi có thể chỉ thấy phản ứng? Qua từ ngữ ‘thấy’ phản ứng, tôi có ý ‘thấy’, ‘quan sát’ mà không-mắt hay không-tai. Sự quan sát của đang nảy sinh phản ứng đó là không-nghe, là nghe không-tai, thấy không-mắt. Liệu nó nghe có vẻ điên khùng không?
“Lúc này, chúng ta hãy rõ ràng,” anh tiếp tục. “Chúng ta đang nói, một nghi vấn được đưa ra và nghi vấn đó giống như một viên đá bị rơi xuống một cái hồ xử lý nước thải và cái hồ xử lý đó tuyệt đối phẳng lặng. Chính đáp án là đang thả viên đá xuống nó, ngược lại, cái hồ yên lặng.
“Bây giờ, điều gì chúng ta đang nói không là thủy triều đang đi ra, thủy triều đang đi vào. Nhưng đang nói về sự quan sát ‘cái gì là’ mà không có một hồi tưởng lúc trước gắn kết vào ‘cái gì là.’ Đó là tất cả.”
“Vâng, nó cũng không bằng thị giác hay bằng thính giác.”
“Tuyệt đối.”
“Nhưng tuy nhiên anh đã sử dụng từ ngữ quan sát…”
“Quan sát trong ý nghĩa rằng, trong quan sát như thế không có sự hồi tưởng về sự việc đang được quan sát. Tôi nói đúng trong điều này, hãy cho phép tôi thâm nhập chầm chậm. Trong tiến hành của quan sát, không có trung tâm từ đó nó đang được quan sát, trung tâm là ký ức, vô số những kết luận, những tổn thương. Không có một vị trí từ đó ‘nó’ đang được quan sát. Đúng chứ? Và trong quan sát này, không có kết luận, không có kết hợp cùng những sự kiện thuộc quá khứ, mà có nghĩa ‘thấy’ cũng yên lặng như cái hồ xử lý nước thải. ‘Cái gì là’ là sự thách thức, và liệu cái hồ xử lý nước thải mà phẳng lặng có thể phản ứng khi sự thách thức rơi xuống nó?” Lăn tăn của cái hồ xử lý nước thải đang phản ứng.”
“Lăn tăn là phản ứng?” Tôi hỏi.
“Lăn tăn là phản ứng. Đó là một việc lạ thường.”
Tôi hỏi, “Lúc này, tôi đã quan sát anh đang lắng nghe sự phản ứng riêng của anh, bằng cùng nhận biết như anh lắng nghe một câu hỏi. Liệu anh lắng nghe những phản ứng của anh?”
“Tôi lắng nghe nó để thấy điều gì được nói ra là chính xác.”
“Anh lắng nghe những phản ứng riêng của anh; và đối với anh, những phản ứng của anh và những phản ứng của một người khác đều ở cùng một mức độ.”
K nói, “Nhưng nếu bạn đang nói chuyện nghiêm túc và bạn đang lắng nghe người hỏi và đang trả lời, có một hành động của lắng nghe – trong cả hai phương hướng – không phải lắng nghe phản ứng của bạn hay phản ứng của tôi, chỉ có lắng nghe.”
“Anh lắng nghe,” tôi đáp lại, “và nếu điều gì được nói ra không là như thế, anh chuyển động khỏi. Có một linh động tổng thể, nếu tôi được phép giải thích như thế. Không có thâu nhận trả lời và bám vào nó.”
“Bạn thấy nếu viên đá rất nhẹ, lăn tăn là gợn sóng tí ti,” K giải thích. “Nhưng nếu nó là một cục đá nhỏ được quẳng xuống, có rất nhiều gợn sóng. Vì vậy, hành động của lắng nghe không chỉ là đến người đang hỏi nhưng còn cả một lắng nghe đến đang trả lời. Nó là một trạng thái tổng thể của lắng nghe cả người hỏi lẫn người đó mà trả lời. Khi trả lời của người đó không hoàn hảo như nó nên là, bởi vì có lắng nghe, có một rút lui khỏi đó. Và thế là, bạn thay đổi và bạn chuyển động. Vậy là tôi đã khám phá cái gì đó. Không có nhìn hay lắng nghe phía bên trong. Chỉ có nhìn và lắng nghe.”
“Tôi phải thẩm thấu điều này. Tôi chỉ đang thâu nhận nó.” Tôi ngừng lại. “Cái hồ xử lý nước thải là gì?”
“Trước hết,” K hỏi, “cái hồ xử lý nước thải của ai? Cái hồ xử lý nước thải của cái trí của bạn, cái trí của K, hay cái hồ xử lý nước thải của một người bị khích động?”
“Chúng ta đang nói về cái hồ xử lý nước thải của Krishnaji,” tôi nói, “bởi vì điều gì đang được gắng sức là thấy rằng người ta có thể thâm nhập sâu đến chừng nào trong khoét vào cái trí của anh.”
“Tôi hiểu rõ. Bạn đang hỏi tình trạng của cái hồ xử lý nước thải mà có vẻ như K có là gì. Tôi không nghĩ K nhận biết cái hồ xử lý nước thải này.”
“Anh nhận biết cái gì?”
“Rất quan trọng phải hiểu rõ rằng nếu K nhận biết nó, nó không là một cái hồ xử lý nước thải. Chờ đã, chờ đã. Vâng, điều đó đúng.”
“Lúc này, nếu tôi được phép hỏi, bản chất phía bên trong của chính anh là gì?” Tôi đang thách thức cái trí của K để thấy anh sẽ bộc lộ bản chất của nó sâu thẳm đến mức độ nào. Có một ngừng lại. Sau đó, từ một chiều sâu vô cùng, Krishnaji nói, “Tôi chưa bao giờ đã tự-chất vấn chính mình cái trí, bản chất bên trong của K, là gì. Nếu tôi trả lời ‘không-gì cả,’ mà có nghĩa ‘không một sự việc sự vật,’ liệu điều đó có thể được chấp thuận? Không có gì cả. Liệu bạn sẽ hiểu rõ trạng thái của hiện diện bên trong của K, mà là không-gì cả, mà tuyệt đối là không-gì cả? Nó giống như đo lường cái không thể đo lường được. Tôi không đang nói cái trí của tôi là không thể đo lường được – nhưng nó giống như đo lường cái không thể đo lường được.”
Người chị cả của tôi đã chết vì bệnh tim năm 1976. Mẹ tôi không thể khuất phục sự buồn bã. Thân thể và cái trí của mẹ bị suy sụp, và mẹ trải qua một đột quỵ nhẹ. Mẹ rất tận tụy với Krishnaji và đã là người chủ nhà đãi khách của anh trong nhiều dịp. Anh viết cho mẹ một lá thư được đính kèm trong lá thư gửi cho Nandini trong đó anh hỏi thăm sức khỏe của mẹ, gửi thương yêu của anh, và bày tỏ sự biết ơn cho lòng hiếu khách và ân cần mẹ đã cống hiến cho anh trong nhiều năm. Chúng tôi đọc lá thư cho mẹ nghe, và mẹ cố gắng mỉm cười. Mẹ đã khỏi nhưng vẫn rất yếu.
Tháng giêng năm sau, khi Krishnaji ở Bombay, anh đến thăm mẹ. Mẹ nằm trên giường, sự sống đang giảm dần; nhưng mẹ đã tắm trước khi Krishnaji đến và sari vải muslin trắng choàng đầu mẹ. Thấy anh, khuôn mặt và hai mắt mẹ sinh động trở lại. Anh cầm tay mẹ trên một tiếng đồng hồ và nói chuyện với mẹ bằng sự chú ý vô hạn. Mẹ nói với anh, “Con gái của tôi chết rồi.”
“Tôi biết, Amma,” anh trả lời. “Tất cả chúng ta đều phải chết.” Cái trí của mẹ đã trở nên yên lặng, và mặc dù mẹ không bao giờ hồi phục, sự đau khổ phía bên trong của mẹ đã kết thúc. Mẹ chết nhẹ nhàng, không phiền hà bất kỳ người con nào đang ngồi trong phòng kế bên. Mẹ một mình khi ra đi.
Krishnamurti Foundation ở Mỹ đã sắp xếp một hội thảo cho những người khoa học và những người triết lý vào mùa xuân năm 1976 tại Arya Vihara ở Ojai. Sunanda, chồng cô, Pama, và cháu trai của Krishnaji, Narayan có mặt ở đó. Balasundaram, người cũng dự tính đi, bị bệnh vàng da và phải hủy bỏ chuyến đi của ông.
Krishnaji dành thời gian ở Ojai cùng Sunanda; họ dạo bộ cùng nhau, anh nói chuyện với cô nhiều lắm, bàn luận công việc tại Vasant Vihar; anh tỏa ra trọn vẹn. Cô quay lại Ấn độ rạng rỡ cùng ân lành của anh.
Ngày 3 tháng sáu năm 1976, tôi đã viết cho Krishnaji về sức khỏe của mẹ tôi và gặp gỡ của tôi với Sunanda:
Tôi đã ở Bombay suốt hai tuần qua do bệnh tật của mẹ tôi. Nó là một thời điểm khó khăn vô cùng. Mẹ bị nhiễm trùng đường tiểu cùng những biến chứng trong hai lá phổi và suốt hai tuần lễ vừa qua không thể nói hay nhận chất dinh dưỡng hay nước bằng miệng. Bác sĩ cảm thấy nó có lẽ là tê liệt từng phần của cuống họng. Mẹ đang nhận chất dinh dưỡng bằng mũi và trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ vừa qua có vẻ khỏe hơn. Mẹ đã bắt đầu hình thành những từ ngữ mà mặc dù chưa rõ ràng nhưng có thể nhận ra được. Mẹ đã quên quá khứ gần nhất và cứ liên tục yêu cầu Moon. Có một tuyệt vọng nào đó trong những câu hỏi của mẹ.
Tôi đã gặp Sunanda và Pama khi họ đang đi ngang qua Bombay và chúng tôi đã nói chuyện lâu. Tôi hạnh phúc ghê lắm khi họ sẽ đi Vasant Vihar và tôi hy vọng mọi thứ sẽ tốt đẹp ở đó cho họ và công việc ở Vasant Vihar sẽ nở hoa. Tôi sẽ đi Madras vào ngày 6 cho một gặp gỡ của Foundation Trust. Trên một chuyến viếng thăm sớm hơn, Radha và tôi đã rà soát lại những sửa chữa được gợi ý bởi anh, và tôi nghĩ công việc về nó chắc phải đã bắt đầu rồi.
Tôi cảm thấy đồng ý với anh rằng Thư ký của Krishnamurti Foundation không nên giống như Hiệu trưởng của Rishi Valley School. Điều này đã được quyết định khi anh ở đây một năm trước. Năm ngoái sau khi Balasundaram gặp anh ở nước ngoài, anh đã viết cho tôi và nói Balasundaram đã giải thích với anh rằng chức vụ Thư ký chỉ là một vấn đề thuộc kỹ thuật và trong quan điểm của anh tất cả những hoạt động của Foundation nên được chuyển đến Rishi Valley, nơi phải trở thành trung tâm của công việc. Tôi không mang theo lá thư đó ở đây, nhưng khi tôi quay lại Delhi tôi sẽ gửi cho anh một bản sao lá thư của anh. Tôi đã tìm kiếm sự rõ ràng từ anh rằng liệu trong ánh sáng của điều gì anh cảm thấy, Chức vụ Thư ký và Hiệu trưởng nên là một và anh đã giải thích rõ ràng chức vụ và kết luận rằng nó không nên là một. Tại gặp gỡ của Foundation năm ngoái khi vấn đề bổ nhiệm được đề cập, họ hiểu ra rằng Balasundaram sẽ phải tiếp tục công việc một năm nữa như Thư ký cho đến khi giải quyết xong mọi vấn đề bởi vì ông là hiệu trưởng và theo pháp luật quyền hành động là tên của ông. Muốn thực hiện sự thay đổi khi chưa hết thời hạn sẽ gây ra nhiều phức tạp. Tất cả những thành viên Foundation đã đồng ý điều này. Theo luật pháp Thư ký của Foundation được bổ nhiệm hàng năm tại cuộc họp hàng năm được tổ chức khoảng tháng mười hay mười một. Tôi đã bàn luận vấn đề này cùng Balasundaram và chính ông cũng đồng ý rằng ông không nên tiếp tục như Thư ký. Tôi luôn luôn cảm thấy rằng Pama là người đúng đắn để đảm trách chức vụ Thư ký, và bởi vì điều này nên tôi đã thuyết phục anh ấy gia nhập Foundation.
Tháng mười hai, Pama Patwardhan nhận chức vụ Thư ký từ Balasundaram, và Sunanda và Pama đến sống tại Vasant Vihar. Ngôi nhà rất bừa bãi, không tiền bạc, và họ phải làm việc cực nhọc để xây dựng mới mẻ lại nơi này. Sunanda sẽ chịu trách nhiệm công việc xuất bản và chẳng mấy chốc một tờ tin tức đã xuất hiện. Trong những năm sau, Vasant Vihar, bộ chỉ huy của Krishnamurti Foundation ở Ấn độ, trở thành một trung tâm cho sự xuất bản của K. F. I., lưu trữ văn thư, và lời giảng. Quyển Truyền thống và cách mạng, Krishnamurti bàn về Giáo dục, những nói chuyện khác, và những biên tập ở Ấn độ về những tác phẩm của Krishnaji được xuất bản.