Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

33. “Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn. Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8746)
33. “Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn. Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 33

“Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn.

Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

K

rishnaji một mình quay lại Ấn độ vào đầu tháng mười một năm 1979. Chúng tôi đang ở ngưỡng cửa của một thập niên then chốt. Trong những năm 1980 thế giới trải qua một thay đổi khó chịu. Một cách mạng đang xảy ra trong môi trường sống và trong những cái trí của con người. Sự tìm kiếm cho thông minh nhân tạo chẳng mấy chốc đã trở thành một quan tâm chính của sự nghiên cứu công nghệ; vi mạch sẽ trở thành rẻ tiền hơn cho sự sản xuất, dẫn đến một cách mạng trong những phương tiện liên lạc; khoa học gene và sinh sản vô tính tạo ra những tiến bộ mau lẹ, làm vẩn đục tương lai của nhân loại, tuy nhiên lại hứa hẹn những ích lợi lớn lao cho nhân loại. Những công cụ cho tốt lành lẫn xấu xa không kể xiết đều sẵn có.

 Tôi tham gia cùng Krishnaji ở Madras. Asit Chandmal cũng ở đó, và cả gia đình Patwardhan, Radha Burnier, và Ahalya Chari, một người giáo dục nổi tiếng đã từ bỏ chức vụ của chính phủ trong những năm 1970 để gia nhập Krishnamurti Foundation. Ngay khoảnh khắc chúng tôi thấy Krishnaji, chúng tôi liền cảm thấy uy quyền của sự hiện diện của anh và năng lượng vô hạn đang tuôn trào từ anh. Dường như cái trí của anh có trọng lượng và chiều sâu và một bất động vô hạn. Tôi đã thấy sự nhấn mạnh của lời giảng thay đổi qua năm tháng. Sự cấp bách đã chuyển từ thay đổi cá thể, sang nghi ngờ về sự thật của tánh cá thể, và một thừa nhận về một dòng chảy của ý thức nhân loại mà trong đó cách mạng sâu thẳm phải xảy ra. Đối với anh cá thể là người đã vượt khỏi dòng chảy.

 Lúc này sự nhận biết đã quét sạch tất cả những giới hạn, để bao gồm vũ trụnăng lượng không bờ bến của nó.

 Mặc dù anh đã đi máy bay thẳng từ London quá cảnh Delhi tới Madras, anh không có vẻ mệt mỏi, háo hức bắt đầu những bàn luận cùng chúng tôi. Ngay hôm đó tại bữa ăn trưa, chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

 Nghi vấn được đưa ra là, “Một yêu cầu duy nhất mà tôi sẽ đòi hỏi, khi thấy sự thoái hoá ở Ấn độ, là điều gì? Nếu nó có thể giúp đỡ? Sự việc trọng điểm là gì?” Sau đó nói chuyện chuyển động quanh bàn ăn và đến một đồng hóa của nghi vấn. Krishnaji nói, “Ấn độ đã sống tất cả những thế kỷ này dựa trên những ý tưởng. Nó phải chuyển động khỏi sống được đặt nền tảng trên những ý tưởng, mà là không-sự kiện, để chỉ thấy sự kiện.” Sau đó anh hỏi, “Làm thế nào cậu trai này nắm được nó?” Chúng tôi thấy rằng quả là vô ích khi đưa ra những giải thích. Trọng lượng và chiều sâu của nghi vấn có nghĩa là nghi vấn phải được nhốt chặt trong cái trí mà không cần cái trí đang sục sạo đáp án.

 Krishnaji đang thâm nhập vấn đề của Ấn độ; nhưng bầu không khí trở nên bị dồn lại đậm đặc đến độ người ta thấy rằng Ấn độ là chính người ta, và rằng anh đang xô đẩy nghi vấn vào mỗi người lắng nghe. Cho “bạn” là Ấn độ.

 Ngày 28 tháng mười một năm 1979, chúng tôi ở Rishi Valley. Radha Burnier từ Madras đến để trải qua vài ngày cùng chúng tôi. Tại bữa ăn sáng vào một ngày nào đó, Krishnaji hỏi Radha Burnier liệu cô sẽ đảm đương chức chủ tịch của Theosophical Society. Cô trả lời rằng cô không biết. Anh hỏi, “Bạn có ý gì qua câu bạn không biết?”

 Bỗng nhiên, bầu không khí lại đậm đặc bởi một năng lượng mới mẻ. Krishnaji nói, “Mrs. Besant có ý định dành riêng mảnh đất tại Adyar cho lời giảng. Theosophical Society đã thất bại, mục đích khởi nguồn bị hủy diệt.” Anh nói về tinh thần tôn giáo trung thực mà chất vấn, nghi ngờ, và phủ nhận. Anh nói nước Mỹ đã không nhận được nó. Châu âu đã không nhận được nó. Ở Ấn độ nó đã bị xóa sạch và bị hủy diệt. Tuy nhiênhiện diện ở đó, Ấn độ, đang khắc khoải trong đất. “Liệu chúng ta có thể làm việc gì đó cho nó?” anh hỏi.

 Lần đầu tiên sự nhấn mạnh không vào cá thể, nhưng vào đất đai, quả đất – đất vật chất của Ấn độ và sự thiêng liêng của nó và khả năng cho nó bám chặt vào cái nguồn của sự sáng tạo. Như thể là Krishnaji đã tìm được cái gì đó quý báu vô cùng; có sự hân hoàn vô hạn trong anh, như thể thời gian mong đợi thật lâu đã đến rồi. Chúng tôi không nói lời nào. Anh quay về chúng tôi, đang tìm kiếm sự khẳng định. “Pupulji,” anh hỏi “bạn cảm thấy ra sao?” Khi tôi nói rằng đây là một huyền bí mới mẻ, anh không phủ nhận nó. Sau đó anh lại nói về Theosophical Society và về Radha Burnier đang trở thành chủ tịch. Tôi hỏi anh, “Tại một khía cạnh anh nói rằng Radha ở sâu thẳm trong Krishnamurti Foundation, tại một khía cạnh khác anh lại nói chị ấy nên là chủ tịch Theosophical Society. Anh thỏa hiệp hai câu phát biểu này như thế nào?”

 Anh nói, “Tôi có thể nói nó, những người khác không thể.” Anh lặp lại, “Tôi có thể nói bất kỳ điều gì.” Nó nhắc nhở tôi về một đoạn trong Brihadaranyaka Upanishad, mà khi nói về người đã khai sáng, nói, “Vậy là hãy để một Brahmana sau khi anh ấy đã thực hiện xong học hành, ham muốn sống như một đứa trẻ. Khi anh ấy đã thực hiện trạng thái của đứa trẻ và học hành, sau đó anh ấy trở thành người tư duy yên lặng. Sau khi đã thực hiện những trạng thái tư duy và không-tư duy, vậy là anh ấy trở thành một Brahmana. Tuy nhiên anh ấy cư xử như anh ấy thực sự là.”

 Krishnaji tiếp tục nói về Ấn độ như nền tảng mà thiêng liêng có thể nở hoa, mặc dù nó đã bị hủy diệt bởi sự xấu xa của chính trị, thoái hóa, và suy đồi đạo đức. Ấn độ là nền tảng nơi hạt giống đã được gieo. Bất kể tất cả mọi chuyện đã xảy ra, nền tảng vẫn còn đó. Anh nói anh cảm thấy cái gì đó đang chờ đợi. Tôi hỏi liệu nền tảng anh nói là nền tảng vật chất, hay anh có ý điều gì khác nữa? Anh trả lời rằng anh có ý quả đất và thiêng liêng của nó. Anh cảm thấy rằng nền tảng này đã được chuẩn bị.

 Bầu không khí đang rộn ràng, mãnh liệt, sinh động. Tại một câu hỏi anh nói, “Họ tìm cho tôi hai thiên thần – qua những năm tháng tôi đã có được nhiều hơn nữa.” Anh đang cười; có những tiếng cười thật vang, và khoảng giữa anh tiếp tục nói, “Tôi rất nghiêm túc.” Anh đã không cười như thế này trong nhiều năm. “Bây giờ tôi phát giác rằng tôi có thể vận hành mà không có một số người trong họ.” Anh quay về Rađha và nói, “Tôi có thể cho bạn hai?” Anh đang cười, hân hoan, nhưng thật nghiêm túc, đang gợi ý điều gì đó.

 Anh nói nhiều người đã bảo anh đừng quay lại Ấn độ. Anh luôn luôn cảm thấy sự thiêng liêng của mảnh đất và ưa thích đến. Cái gì đó đã bị hủy hoại ở Ấn độ, nhưng một hiện diện đã chờ đợi trong đất đai. “Ân lành của không-thời gian đang chờ đợi, đất đai sẵn sàng rồi. Liệu chúng ta có thể sáng tạo cái gì đó thuộc về ân lành này?”

 Cái gì hiện diện là một chiều sâu và mãnh liệt. Nó là một tiên tri rằng một năng lượng thiêng liêng đã sống lại trong mảnh đất Ấn độ.

 Mỗi sáng tại bàn ăn, những câu hỏi được đưa ra và thấu triệt trôi chảy. Chúng tôi thâm nhập, ngừng lại, chất vấn. Cái trí của Krishnaji rất vô lượng và chứa đầy huyền bí. Một buổi sáng, đang nói về sự mãnh liệt vô cùng, Krishnaji chuyển tải một phương cách của nhận biết, của thách thức và trả lời từ một trạng thái nằm vượt khỏi cái trí, vượt khỏi bộ não, ký ức, tất cả những đáp lại của ý thức. “Một trạng thái hiện diện trong lắng nghe tại chiều sâu vô tận; nơi ý thức và chuyển động của nó không can thiệp. Một trạng thái nơi thấy là tổng thể, bao gồm, không-tách rời, một trạng thái của không-chuyển động từ đó hay hướng về; vượt khỏi ma trận và tất cả những ký ức thuộc chủng tộc của con người.” Krishnaji cũng nói về cái trí mà hiện diện khi có sự tin cậy tuyệt đối. Điều này chỉ có thể xảy ra khi cái trí đã trút bỏ tất cả những gánh nặng, được tự do. “Trạng thái này không là một trạng thái của kết thúc suy nghĩ,” Krishnaji nói. “Nó không là khoảng trống giữa những suy nghĩ, nhưng một lắng nghe mà có toàn trọng lượng và chiều sâu của hàng triệu năm của con người, và vượt khỏi nó. Một trạng thái mà có thể tiếp xúc được tại bất kỳ khoảnh khắc nào. Nó giống như đang rút ra năng lượng của vũ trụ.”

 Chúng tôi nói về vị trí của đạo sư và liệu vai trò của đạo sưgiá trị. Tôi nói với Krishnaji rằng, nhìn trở lại từ hôm nay sang nhiều ngày hôm qua, tôi thấy rõ ràng rằng đối với tôi Krishnaji là đạo sư. Krishnaji ngăn cản và hỏi, “Bạn có ý gì qua từ ngữ đạo sư?” Radha Burnier trả lời, “Người mà chỉ đường.” Có những lời bình phẩm khác. Tôi nói, “Người mà đánh thức. Krishnaji đã đánh thức tôi. Có một nhìn mắt vào mắt. Nhìn như thế hiếm hoi.” Tôi hỏi, “Vai trò của anh trong năm 1948 là gì – anh không đánh thức à?” Krishnaji nói, “Sự tiếp cận của người đánh thức và người được đánh thứcsai lầm. Khi có ánh sáng và tôi ở trong bóng tối và chuyển động vào ánh sáng, không có sự tách rời. Chỉ có ánh sáng. Người đánh thức ở đâu? Một số người ở trong ánh sáng, một số người lang thang khỏi, đó là tất cả.” Chốc lát sau anh nói, “Tôi không đang nói rằng tôi là ánh sáng.”

 Một buổi sáng khác, tại bữa ăn chúng tôi bàn luận về bộ não và khả năng thay đổi bộ não của con người. Krishnaji nói anh đã bàn luận cùng những người khoa học về bộ não. Anh đã hiểu rõ họ khi nói rằng “mỗi tế bào trong bộ não con người chứa đựng ký ức của hàng triệu năm của nhân loại.” Sau đó anh hỏi, “Liệu có thể có một thay đổi tổng thể trong đó?”

 Khi những bàn luận tiếp tục, sự quan tâm của Krishnaji đến bộ não và vận hành của nó là điều rõ ràng. Sự nhận biết của anh đã chuyển đến một thâm nhập vào liệu chuyển động của ký ức phía bên trong những tế bào não có thể kết thúc. Chỉ đến lúc đó một cách hoàn toàn mới mẻ của sự nhận biết có thể nảy sinh.

 Người nào đó hỏi liệu sự tiếp xúc và sờ chạm của Krishnaji có thể giải phóng năng lượng được giam giữ trong một vật, và luân phiên vật đó có thể chuyển tải trạng thái tổng thể, thiêng liêng? Liệu nó có thể chữa trị, bảo vệ? Krishnaji nói từ niên thiếu anh có thể đọc những suy nghĩ của người khác, chữa trị con người. Cậu trai đã được đưa ra những vật để hấp dẫn, để làm cho mạnh mẽ bởi năng lượng. Nhưng cậu trai Krishnamurti không hứng thú những quyền năng này.

 Anh nói về một nguồn dự trữ vô hạn của năng lượng mà phải tồn tại. “Liệu con người có thể đến được nó và cho phép nó vận hành?” anh hỏi. Asit nói, “Chắc chắn, một cậu trai không có xấu xa trong cậu ấy, không cái tôi, là một con người hiếm hoi; cậu ấy có thể sờ chạm nó, nhưng liệu năng lượng đó có thể được tiếp xúc bởi những con người bình thường?”

 “Tôi nghĩ có thể được, thưa bạn,” Krishnaji nói đầy do dự.

 Krishnaji ở trong một trạng thái rất lạ thường. Anh nói về một hiệp thông cùng thiêng liêng bằng một cái trí mà có thể thâu nhận, nhưng không tha thiết quyền hành, vị trí. Điều gì cần đến là một tinh khiết tuyệt đối của cái trí.

 Tôi hỏi liệu còn có bất kỳ thứ gì khác cần thiết, và hỏi anh bản chất của sự tinh khiết này của cái trí. Krishnaji nói, “Sự tinh khiết của cái trí của tôi không là sự tinh khiết của ‘cái trí.’ Sự tinh khiết của ‘cái trí’ là cái trí của vũ trụ. Đó là thiêng liêng.” Sau đó tôi hỏi liệu con người mà có sự tinh khiết của cái trí, là một nơi chứa đựng mà có thể thâu nhận. “Bởi vì nó có thể trao năng lượng đến một vật, liệu một con người có thể chuyển tải tổng thể, liệu anh có thể trao cho người khác?”

 Krishnaji nói, “Không. Dù tinh khiết như thế nào, bộ não vẫn còn là vật chất, nó vẫn còn là cái trí. Cái khác lạ là vũ trụ. Nó là vô hạn.”

 Krishnaji chối từ bị trói buộc trong bàn luận. Anh tự hỏi mình, “Liệu có một tối thượng vượt khỏi mà không có gì cả? Một nền tảng từ đó mọi sự vật hiện diện, đằng sau và vượt khỏi mà không có gì cả, không nguyên nhân?”

 “Sau đó chúng tôi bàn luận về sự thiêng liêng của Rishi Valley. Tôi nói ở Ấn độ có một địa điểm như một Punya Sthal – một nơi thiêng liêng. Những vị thần có thể đến và đi, nhưng thiêng liêng của nơi đó tiếp tục.

 Krishnaji nói, “Tôi cảm thấy đất của Rishi Valley có chất lượng đặc biệt này. Nó là,” anh nói rất trang trọng, “ ‘Mảnh đất của tất cả những mảnh đất.’ ”

 Tôi nói toàn thung lũng là một nơi thiêng liêng. Nó đã được thẩm thấu bởi sự hiện diện của Krishnaji và những từ ngữ của anh. Rajghat cũng có ý thức của thiêng liêng đó. “Người ta phải thấy,” Krishnaji nói, “rằng cảm thấy này không bị hủy diệt.”

 Krishnaji nói anh bị hấp lực vô cùng để tiếp tục ở lại Rishi Valley. Anh cảm thấy mạnh mẽ về nó. Asit hỏi tại sao anh không thể sống ở Rishi Valley và để cho mọi người đến gặp anh ở đó từ khắp thế giới.

 Krishnaji yên lặng, sau đó nói, “Sống của tôi đã là một trong chuyển động vật chất. Tôi ở lại đây là điều rất quan trọng, nhưng tôi không thể. Vì Chúa, hãy bước đi nhẹ nhàng trên mảnh đất này.”

 Sau đó, Krishnaji sẽ nói, “Năng lượng là vũ trụ, nó cũng là hỗn độn. Đó là nguồn của sáng tạo. Tức giận là năng lượng, đau khổnăng lượng – nhưng có trật tự tuyệt đối. Liệu nó có thể được thiết lập ở Rishi Valley?”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17378)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46465)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9595)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8775)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15880)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15504)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18290)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9627)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9683)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18480)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15676)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10956)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8945)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10452)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10213)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9375)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11520)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10096)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23029)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9601)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17263)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16659)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19059)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10201)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19418)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9453)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12306)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 11997)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19783)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12716)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13142)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14371)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32399)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13023)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11969)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20859)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40646)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10103)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9578)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19014)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8854)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8339)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10477)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11708)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30662)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11520)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10466)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16048)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25676)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10055)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant