Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

33. “Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn. Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8713)
33. “Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn. Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 33

“Năng lượng là Vũ trụ, nó cũng là Hỗn độn.

Đó là Nguồn của Sáng tạo.”

K

rishnaji một mình quay lại Ấn độ vào đầu tháng mười một năm 1979. Chúng tôi đang ở ngưỡng cửa của một thập niên then chốt. Trong những năm 1980 thế giới trải qua một thay đổi khó chịu. Một cách mạng đang xảy ra trong môi trường sống và trong những cái trí của con người. Sự tìm kiếm cho thông minh nhân tạo chẳng mấy chốc đã trở thành một quan tâm chính của sự nghiên cứu công nghệ; vi mạch sẽ trở thành rẻ tiền hơn cho sự sản xuất, dẫn đến một cách mạng trong những phương tiện liên lạc; khoa học gene và sinh sản vô tính tạo ra những tiến bộ mau lẹ, làm vẩn đục tương lai của nhân loại, tuy nhiên lại hứa hẹn những ích lợi lớn lao cho nhân loại. Những công cụ cho tốt lành lẫn xấu xa không kể xiết đều sẵn có.

 Tôi tham gia cùng Krishnaji ở Madras. Asit Chandmal cũng ở đó, và cả gia đình Patwardhan, Radha Burnier, và Ahalya Chari, một người giáo dục nổi tiếng đã từ bỏ chức vụ của chính phủ trong những năm 1970 để gia nhập Krishnamurti Foundation. Ngay khoảnh khắc chúng tôi thấy Krishnaji, chúng tôi liền cảm thấy uy quyền của sự hiện diện của anh và năng lượng vô hạn đang tuôn trào từ anh. Dường như cái trí của anh có trọng lượng và chiều sâu và một bất động vô hạn. Tôi đã thấy sự nhấn mạnh của lời giảng thay đổi qua năm tháng. Sự cấp bách đã chuyển từ thay đổi cá thể, sang nghi ngờ về sự thật của tánh cá thể, và một thừa nhận về một dòng chảy của ý thức nhân loại mà trong đó cách mạng sâu thẳm phải xảy ra. Đối với anh cá thể là người đã vượt khỏi dòng chảy.

 Lúc này sự nhận biết đã quét sạch tất cả những giới hạn, để bao gồm vũ trụnăng lượng không bờ bến của nó.

 Mặc dù anh đã đi máy bay thẳng từ London quá cảnh Delhi tới Madras, anh không có vẻ mệt mỏi, háo hức bắt đầu những bàn luận cùng chúng tôi. Ngay hôm đó tại bữa ăn trưa, chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

 Nghi vấn được đưa ra là, “Một yêu cầu duy nhất mà tôi sẽ đòi hỏi, khi thấy sự thoái hoá ở Ấn độ, là điều gì? Nếu nó có thể giúp đỡ? Sự việc trọng điểm là gì?” Sau đó nói chuyện chuyển động quanh bàn ăn và đến một đồng hóa của nghi vấn. Krishnaji nói, “Ấn độ đã sống tất cả những thế kỷ này dựa trên những ý tưởng. Nó phải chuyển động khỏi sống được đặt nền tảng trên những ý tưởng, mà là không-sự kiện, để chỉ thấy sự kiện.” Sau đó anh hỏi, “Làm thế nào cậu trai này nắm được nó?” Chúng tôi thấy rằng quả là vô ích khi đưa ra những giải thích. Trọng lượng và chiều sâu của nghi vấn có nghĩa là nghi vấn phải được nhốt chặt trong cái trí mà không cần cái trí đang sục sạo đáp án.

 Krishnaji đang thâm nhập vấn đề của Ấn độ; nhưng bầu không khí trở nên bị dồn lại đậm đặc đến độ người ta thấy rằng Ấn độ là chính người ta, và rằng anh đang xô đẩy nghi vấn vào mỗi người lắng nghe. Cho “bạn” là Ấn độ.

 Ngày 28 tháng mười một năm 1979, chúng tôi ở Rishi Valley. Radha Burnier từ Madras đến để trải qua vài ngày cùng chúng tôi. Tại bữa ăn sáng vào một ngày nào đó, Krishnaji hỏi Radha Burnier liệu cô sẽ đảm đương chức chủ tịch của Theosophical Society. Cô trả lời rằng cô không biết. Anh hỏi, “Bạn có ý gì qua câu bạn không biết?”

 Bỗng nhiên, bầu không khí lại đậm đặc bởi một năng lượng mới mẻ. Krishnaji nói, “Mrs. Besant có ý định dành riêng mảnh đất tại Adyar cho lời giảng. Theosophical Society đã thất bại, mục đích khởi nguồn bị hủy diệt.” Anh nói về tinh thần tôn giáo trung thực mà chất vấn, nghi ngờ, và phủ nhận. Anh nói nước Mỹ đã không nhận được nó. Châu âu đã không nhận được nó. Ở Ấn độ nó đã bị xóa sạch và bị hủy diệt. Tuy nhiênhiện diện ở đó, Ấn độ, đang khắc khoải trong đất. “Liệu chúng ta có thể làm việc gì đó cho nó?” anh hỏi.

 Lần đầu tiên sự nhấn mạnh không vào cá thể, nhưng vào đất đai, quả đất – đất vật chất của Ấn độ và sự thiêng liêng của nó và khả năng cho nó bám chặt vào cái nguồn của sự sáng tạo. Như thể là Krishnaji đã tìm được cái gì đó quý báu vô cùng; có sự hân hoàn vô hạn trong anh, như thể thời gian mong đợi thật lâu đã đến rồi. Chúng tôi không nói lời nào. Anh quay về chúng tôi, đang tìm kiếm sự khẳng định. “Pupulji,” anh hỏi “bạn cảm thấy ra sao?” Khi tôi nói rằng đây là một huyền bí mới mẻ, anh không phủ nhận nó. Sau đó anh lại nói về Theosophical Society và về Radha Burnier đang trở thành chủ tịch. Tôi hỏi anh, “Tại một khía cạnh anh nói rằng Radha ở sâu thẳm trong Krishnamurti Foundation, tại một khía cạnh khác anh lại nói chị ấy nên là chủ tịch Theosophical Society. Anh thỏa hiệp hai câu phát biểu này như thế nào?”

 Anh nói, “Tôi có thể nói nó, những người khác không thể.” Anh lặp lại, “Tôi có thể nói bất kỳ điều gì.” Nó nhắc nhở tôi về một đoạn trong Brihadaranyaka Upanishad, mà khi nói về người đã khai sáng, nói, “Vậy là hãy để một Brahmana sau khi anh ấy đã thực hiện xong học hành, ham muốn sống như một đứa trẻ. Khi anh ấy đã thực hiện trạng thái của đứa trẻ và học hành, sau đó anh ấy trở thành người tư duy yên lặng. Sau khi đã thực hiện những trạng thái tư duy và không-tư duy, vậy là anh ấy trở thành một Brahmana. Tuy nhiên anh ấy cư xử như anh ấy thực sự là.”

 Krishnaji tiếp tục nói về Ấn độ như nền tảng mà thiêng liêng có thể nở hoa, mặc dù nó đã bị hủy diệt bởi sự xấu xa của chính trị, thoái hóa, và suy đồi đạo đức. Ấn độ là nền tảng nơi hạt giống đã được gieo. Bất kể tất cả mọi chuyện đã xảy ra, nền tảng vẫn còn đó. Anh nói anh cảm thấy cái gì đó đang chờ đợi. Tôi hỏi liệu nền tảng anh nói là nền tảng vật chất, hay anh có ý điều gì khác nữa? Anh trả lời rằng anh có ý quả đất và thiêng liêng của nó. Anh cảm thấy rằng nền tảng này đã được chuẩn bị.

 Bầu không khí đang rộn ràng, mãnh liệt, sinh động. Tại một câu hỏi anh nói, “Họ tìm cho tôi hai thiên thần – qua những năm tháng tôi đã có được nhiều hơn nữa.” Anh đang cười; có những tiếng cười thật vang, và khoảng giữa anh tiếp tục nói, “Tôi rất nghiêm túc.” Anh đã không cười như thế này trong nhiều năm. “Bây giờ tôi phát giác rằng tôi có thể vận hành mà không có một số người trong họ.” Anh quay về Rađha và nói, “Tôi có thể cho bạn hai?” Anh đang cười, hân hoan, nhưng thật nghiêm túc, đang gợi ý điều gì đó.

 Anh nói nhiều người đã bảo anh đừng quay lại Ấn độ. Anh luôn luôn cảm thấy sự thiêng liêng của mảnh đất và ưa thích đến. Cái gì đó đã bị hủy hoại ở Ấn độ, nhưng một hiện diện đã chờ đợi trong đất đai. “Ân lành của không-thời gian đang chờ đợi, đất đai sẵn sàng rồi. Liệu chúng ta có thể sáng tạo cái gì đó thuộc về ân lành này?”

 Cái gì hiện diện là một chiều sâu và mãnh liệt. Nó là một tiên tri rằng một năng lượng thiêng liêng đã sống lại trong mảnh đất Ấn độ.

 Mỗi sáng tại bàn ăn, những câu hỏi được đưa ra và thấu triệt trôi chảy. Chúng tôi thâm nhập, ngừng lại, chất vấn. Cái trí của Krishnaji rất vô lượng và chứa đầy huyền bí. Một buổi sáng, đang nói về sự mãnh liệt vô cùng, Krishnaji chuyển tải một phương cách của nhận biết, của thách thức và trả lời từ một trạng thái nằm vượt khỏi cái trí, vượt khỏi bộ não, ký ức, tất cả những đáp lại của ý thức. “Một trạng thái hiện diện trong lắng nghe tại chiều sâu vô tận; nơi ý thức và chuyển động của nó không can thiệp. Một trạng thái nơi thấy là tổng thể, bao gồm, không-tách rời, một trạng thái của không-chuyển động từ đó hay hướng về; vượt khỏi ma trận và tất cả những ký ức thuộc chủng tộc của con người.” Krishnaji cũng nói về cái trí mà hiện diện khi có sự tin cậy tuyệt đối. Điều này chỉ có thể xảy ra khi cái trí đã trút bỏ tất cả những gánh nặng, được tự do. “Trạng thái này không là một trạng thái của kết thúc suy nghĩ,” Krishnaji nói. “Nó không là khoảng trống giữa những suy nghĩ, nhưng một lắng nghe mà có toàn trọng lượng và chiều sâu của hàng triệu năm của con người, và vượt khỏi nó. Một trạng thái mà có thể tiếp xúc được tại bất kỳ khoảnh khắc nào. Nó giống như đang rút ra năng lượng của vũ trụ.”

 Chúng tôi nói về vị trí của đạo sư và liệu vai trò của đạo sưgiá trị. Tôi nói với Krishnaji rằng, nhìn trở lại từ hôm nay sang nhiều ngày hôm qua, tôi thấy rõ ràng rằng đối với tôi Krishnaji là đạo sư. Krishnaji ngăn cản và hỏi, “Bạn có ý gì qua từ ngữ đạo sư?” Radha Burnier trả lời, “Người mà chỉ đường.” Có những lời bình phẩm khác. Tôi nói, “Người mà đánh thức. Krishnaji đã đánh thức tôi. Có một nhìn mắt vào mắt. Nhìn như thế hiếm hoi.” Tôi hỏi, “Vai trò của anh trong năm 1948 là gì – anh không đánh thức à?” Krishnaji nói, “Sự tiếp cận của người đánh thức và người được đánh thứcsai lầm. Khi có ánh sáng và tôi ở trong bóng tối và chuyển động vào ánh sáng, không có sự tách rời. Chỉ có ánh sáng. Người đánh thức ở đâu? Một số người ở trong ánh sáng, một số người lang thang khỏi, đó là tất cả.” Chốc lát sau anh nói, “Tôi không đang nói rằng tôi là ánh sáng.”

 Một buổi sáng khác, tại bữa ăn chúng tôi bàn luận về bộ não và khả năng thay đổi bộ não của con người. Krishnaji nói anh đã bàn luận cùng những người khoa học về bộ não. Anh đã hiểu rõ họ khi nói rằng “mỗi tế bào trong bộ não con người chứa đựng ký ức của hàng triệu năm của nhân loại.” Sau đó anh hỏi, “Liệu có thể có một thay đổi tổng thể trong đó?”

 Khi những bàn luận tiếp tục, sự quan tâm của Krishnaji đến bộ não và vận hành của nó là điều rõ ràng. Sự nhận biết của anh đã chuyển đến một thâm nhập vào liệu chuyển động của ký ức phía bên trong những tế bào não có thể kết thúc. Chỉ đến lúc đó một cách hoàn toàn mới mẻ của sự nhận biết có thể nảy sinh.

 Người nào đó hỏi liệu sự tiếp xúc và sờ chạm của Krishnaji có thể giải phóng năng lượng được giam giữ trong một vật, và luân phiên vật đó có thể chuyển tải trạng thái tổng thể, thiêng liêng? Liệu nó có thể chữa trị, bảo vệ? Krishnaji nói từ niên thiếu anh có thể đọc những suy nghĩ của người khác, chữa trị con người. Cậu trai đã được đưa ra những vật để hấp dẫn, để làm cho mạnh mẽ bởi năng lượng. Nhưng cậu trai Krishnamurti không hứng thú những quyền năng này.

 Anh nói về một nguồn dự trữ vô hạn của năng lượng mà phải tồn tại. “Liệu con người có thể đến được nó và cho phép nó vận hành?” anh hỏi. Asit nói, “Chắc chắn, một cậu trai không có xấu xa trong cậu ấy, không cái tôi, là một con người hiếm hoi; cậu ấy có thể sờ chạm nó, nhưng liệu năng lượng đó có thể được tiếp xúc bởi những con người bình thường?”

 “Tôi nghĩ có thể được, thưa bạn,” Krishnaji nói đầy do dự.

 Krishnaji ở trong một trạng thái rất lạ thường. Anh nói về một hiệp thông cùng thiêng liêng bằng một cái trí mà có thể thâu nhận, nhưng không tha thiết quyền hành, vị trí. Điều gì cần đến là một tinh khiết tuyệt đối của cái trí.

 Tôi hỏi liệu còn có bất kỳ thứ gì khác cần thiết, và hỏi anh bản chất của sự tinh khiết này của cái trí. Krishnaji nói, “Sự tinh khiết của cái trí của tôi không là sự tinh khiết của ‘cái trí.’ Sự tinh khiết của ‘cái trí’ là cái trí của vũ trụ. Đó là thiêng liêng.” Sau đó tôi hỏi liệu con người mà có sự tinh khiết của cái trí, là một nơi chứa đựng mà có thể thâu nhận. “Bởi vì nó có thể trao năng lượng đến một vật, liệu một con người có thể chuyển tải tổng thể, liệu anh có thể trao cho người khác?”

 Krishnaji nói, “Không. Dù tinh khiết như thế nào, bộ não vẫn còn là vật chất, nó vẫn còn là cái trí. Cái khác lạ là vũ trụ. Nó là vô hạn.”

 Krishnaji chối từ bị trói buộc trong bàn luận. Anh tự hỏi mình, “Liệu có một tối thượng vượt khỏi mà không có gì cả? Một nền tảng từ đó mọi sự vật hiện diện, đằng sau và vượt khỏi mà không có gì cả, không nguyên nhân?”

 “Sau đó chúng tôi bàn luận về sự thiêng liêng của Rishi Valley. Tôi nói ở Ấn độ có một địa điểm như một Punya Sthal – một nơi thiêng liêng. Những vị thần có thể đến và đi, nhưng thiêng liêng của nơi đó tiếp tục.

 Krishnaji nói, “Tôi cảm thấy đất của Rishi Valley có chất lượng đặc biệt này. Nó là,” anh nói rất trang trọng, “ ‘Mảnh đất của tất cả những mảnh đất.’ ”

 Tôi nói toàn thung lũng là một nơi thiêng liêng. Nó đã được thẩm thấu bởi sự hiện diện của Krishnaji và những từ ngữ của anh. Rajghat cũng có ý thức của thiêng liêng đó. “Người ta phải thấy,” Krishnaji nói, “rằng cảm thấy này không bị hủy diệt.”

 Krishnaji nói anh bị hấp lực vô cùng để tiếp tục ở lại Rishi Valley. Anh cảm thấy mạnh mẽ về nó. Asit hỏi tại sao anh không thể sống ở Rishi Valley và để cho mọi người đến gặp anh ở đó từ khắp thế giới.

 Krishnaji yên lặng, sau đó nói, “Sống của tôi đã là một trong chuyển động vật chất. Tôi ở lại đây là điều rất quan trọng, nhưng tôi không thể. Vì Chúa, hãy bước đi nhẹ nhàng trên mảnh đất này.”

 Sau đó, Krishnaji sẽ nói, “Năng lượng là vũ trụ, nó cũng là hỗn độn. Đó là nguồn của sáng tạo. Tức giận là năng lượng, đau khổnăng lượng – nhưng có trật tự tuyệt đối. Liệu nó có thể được thiết lập ở Rishi Valley?”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17032)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38457)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21821)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21903)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69632)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6794)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38588)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43863)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 43947)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42765)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44267)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 22990)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39066)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21652)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42221)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35410)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46355)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 29962)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30691)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26110)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20268)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25462)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18391)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17023)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40630)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21626)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25760)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41298)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24805)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23670)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 14989)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19875)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37658)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19007)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17602)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23440)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36145)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40232)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19410)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21627)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46040)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35791)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28438)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28729)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32027)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26126)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33299)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24018)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24729)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant