Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

37. “Bỗng nhiên tôi thấy Khuôn mặt đó”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8586)
37. “Bỗng nhiên tôi thấy Khuôn mặt đó”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 37

“Bỗng nhiên tôi thấy Khuôn mặt đó.”

C

hính phủ Sri Lanka mời Krishnaji là khách danh dự khi anh thực hiện những nói chuyện của anh ở Colombo. Nhiều bạn bè của anh đã tháp tùng đến hòn đảo ngọc bích này. Mary Zimbalist, Nandini, và tôi ở đó cùng Krishnaji tại Auckland House, nhà khách chính thức của chính phủ Sri Lanka. Mọi nỗ lực đã được thực hiện bởi chính phủ Sri Lanka để nghênh đón Krishnaji. Anh được mời dự tiệc trà bởi tổng thống, gặp thủ tướng, và được phỏng vấn nhiều lần bởi báo chí. Những nói chuyện được tham dự bởi vô số người – những thầy tu và những người dân thường, Sinhalese và Tamilian, những bộ trưởng và những thư ký đã tụ họp để nghe con người thông minh.

 Asit Chandmal cũng ở Colombo. Ông ấy đã đến California và đã gặp gỡ những người khoa học và những người công nghệ đang làm việc về những lãnh vực của những khoa học mới. Ông ấy nói với Krishnaji về thời đại điện tử mà con người đang bị cuốn theo; về những khả năng và những kỹ năng kinh ngạc của những máy tính mới và sự tìm kiếm bộ máy thông minh cao cấp.

 Những người khoa học máy tính đang theo đuổi khả năng sáng chế sự thông minh nhân tạo. Họ đang nghiên cứu bộ não con người, thấy nó làm việc như thế nào và liệu nó có thể được tái tạo. Những người khoa học Nhật bản quan tâm rất nhiều. IBM đã bắt đầu nghiên cứu rồi. Krishnaji hăm hở lắng nghe; ngay tức khắc cái trí của anh nhận biết những kích thước và những phương hướng của sự thông minh mới này, điều kỳ diệu của sự thúc đẩy sáng chế của con người, và kèm theo nó những nguy hiểm vô cùng cho sự tồn tại của nhân loại. Vì nhận ra rằng chẳng mấy chốc con người sẽ bị thách thức tại những mức độ chưa từng xảy ra, anh chất vấn Asit không ngớt.

 Sau đó, chúng tôi tổ chức những bàn luận về máy tính và bộ não của con người. K nói, “Bộ não có một khả năng vô hạn. Khả năng vô hạn đó đang bị sử dụng cho những mục đích vật chất.” Bằng sự rõ ràng vô cùng anh thấy rằng với khả năng sáng chế, trong một thời gian ngắn những năng lực nào đó của bộ não sẽ được đảm đương bởi máy móc.

 “Không còn vận hành nữa, liệu những năng lực này sẽ tàn tạ hay biến mất?” Anh hỏi, “Liệu bộ não sẽ từ từ teo lại? Con người phải hoặc thâm nhập phía bên trong, để cho anh ấy có thể sử dụng những công cụ mới này một cách đúng đắn, hoặc sự nhận biết, từ bibản thể của nhân loại như chúng ta biết nó, sẽ biến mất. Chỉ có hai sự chọn lựa rõ ràng: Hoặc chúng ta cam kết vào toàn lãnh vực của giải trí phía bên ngoài, hoặc chúng ta quay vào trong.”

 Krishnaji hừng hực cùng nghi vấn. Anh bàn luận nó cùng chúng tôi ở Colombo và sau đó ở Rishi Valley và Madras. Trên hai năm, vấn đề này của bộ não con người và sự thách thức của máy móc đang đảm đương những tiến hành và những năng lực của bộ não là sự quan tâm chính của Krishnaji.

 Một buổi sáng tôi yêu cầu Krishnaji cho một gặp gỡ, bởi vì tôi cần những đáp án nào đó cho những nghi vấn khó hiểu đối với tôi. Anh đang ở trong một trạng thái lạ thường; có vẻ anh đang ở phía bên ngoài của anh.

 Tôi chất vấn anh về vị trí của anh mà không có thành trì trong sự thật. Tôi nói, “Hầu hết những hệ thống khác của trạng thái thiền định đều bắt buộc sự cần thiết phải có hỗ trợ tại những chặng đường đầu tiên. Anh đã nói lặp đi lặp lại rằng không có những thứ bậc, không có những mức độ. Bước đầu tiên là bước cuối cùng. Nhưng khi tìm hiểu quá khứ theo lịch sử của anh, cũng như trong những nói chuyện thông thường, tôi đã quan sát rằng anh đã trải qua tất cả kriyas, những hành động được biết đến đối với truyền thống tôn giáo. Anh đã tự thí nghiệm với chính anh, anh đã từ chối những giác quan của anh; buộc một miếng băng trên hai mắt của anh trong nhiều ngày để thấy mù lòa có nghĩa ra sao. Anh đã nhịn ăn nhiều ngày, anh đã quan sát sự yên lặng, ‘maun’, trên một năm vào năm 1951. Lý do của anh cho sự yên lặng này là gì?”

 “Có thể đó là để tìm ra liệu tôi có thể giữ yên lặng,” Krishnaji nói.

 “Nó có giúp đỡ gì được không?”

 “Không nhiều lắm,” là đáp lại.

 “Tại sao anh đã thực hiện nó?”

 “Tôi đã làm những việc điên rồ – ăn không pha trộn tinh bột và chất đạm; chỉ ăn rau; sau đó chỉ ăn chất đạm.”

 “Anh đặt sự yên lặng vào cùng loại?” Nandini hỏi.

 “Bạn có ý tôi không nói chuyện với bất kỳ người nào – bạn chắc chắn chứ? Không bao giờ nghiêm túc đâu. Không có ý định thuộc tinh thần đằng sau sự yên lặng đâu.”

 “Trong sự trải nghiệm đã xảy ra ở Ooty, anh vẫn còn thấy những ảo ảnh. Hiện nay anh vẫn còn thấy những ảo ảnh chứ?” Tôi hỏi.

 “Không.” Có vẻ anh không chắc chắn lắm. “Chờ một tí. Thỉnh thoảng tôi có thấy – những chân dung, những hình ảnh? Bạn thấy chắc phải là một việc lạ lùng lắm khi họ phát hiện tôi. Như tôi có thể nhớ được. Bậc thầy K. H. và Buddha luôn luôn hiện diện nơi nào đó trong cái trí của tôi. Lúc trước những hình ảnh của họ thường theo tôi trong một thời gian đáng kể.”

 “Anh đã kể về một khuôn mặt đang ở cùng anh, mà hòa vào khuôn mặt của anh.”

 “Điều đó đúng.”

 “Hôm nay tôi đang hỏi anh, liệu khuôn mặt đó vẫn còn bên anh?”

 “Có, thỉnh thoảng. Tôi phải thâm nhập điều này. Tại sao bạn đặt ra cho tôi tất cả những câu hỏi này?”

 “Tôi muốn viết một câu chuyện chính xác, không chỉ về những sự kiện; từ quan điểm của tôi những sự kiện không quan trọng lắm.”

 “Ngay từ khởi đầu, C. W. L. và Amma đã nói khuôn mặt đó đã được tạo ra trong nhiều cuộc đời. Tôi còn quá nhỏ không hiểu được điều gì họ nói, nhưng chắc chắn khuôn mặt gây ấn tượng họ nhiều lắm. Họ nói đó là khuôn mặt của Maitreya Bodhisattva. Họ cứ thường xuyên lặp lại điều này, nhưng nó chẳng có ý nghĩa nào với tôi cả, tuyệt đối chẳng có ý nghĩa nào cả. Nhiều, nhiều năm sau, sau cái chết của em tôi, và nhiều, nhiều năm sau đó – tôi không thể nói cho bạn thời gian nào, nhưng một buổi sáng bỗng nhiên tôi thấy khuôn mặt đó, một khuôn mặt đẹp đẽ lạ thường, mà lúc trước thường xuyên ở cùng tôi suốt nhiều năm. Sau đó dần dần khuôn mặt đó biến mất. Tất cả nó bắt đầu sau cái chết của người em.”

 “Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề của những ảo ảnh,” tôi nói.

 “Trong nhiều, nhiều năm tôi thực sự không hoàn toàn hiện diện ở đó. Thỉnh thoảng, thậm chí lúc này, tôi không hoàn toàn hiện diện ở đó. Ojai hoàn toàn không dính dáng với C. W. L. Tại Ootacamund nó hoàn toàn không dính dáng với Rajagopal và Rosalind. Sau khi tôi đi khỏi Ojai – sau năm 1947 đến 1948, mọi thứ bắt đầu xảy ra, giống như thấy khuôn mặt lạ thường này. Lúc trước tôi thấy nó hàng ngày – khi đang ngủ, khi đang dạo bộ. Nó không là một ảo ảnh. Nó giống như bức tranh đó, một sự kiện thực sự.”

 “Anh thấy nó thậm chí ngay cả khi anh thức?” Nandini hỏi.

 “Dĩ nhiên, trên những dạo bộ của tôi, nó hiện diện ở đó.”

 “Chúng tôi thấy nó ở Ooty. Một thay đổi lạ lùng đang xảy ra trong khuôn mặt của anh,” tôi nói.

 “Điều đó đúng.”

 “Và anh nói Buddha hiện diện ở đó. Anh nói rằng thỉnh thoảng anh vẫn còn thấy những ảo ảnh.”

 “Có một đêm nào đó ở Madras tôi thức dậy cùng khuôn mặt này.”

 “Vậy là nó vẫn còn ở đó.”

 “Dĩ nhiên.”

 “Tôi muốn nắm chắc được nó,” tôi nói.

 “Vâng. Đó là, nó không là một ảo ảnh. Nó không là cái gì đó được tưởng tượng ra. Tôi đã thử nghiệm nhiều lần. Nó không là cái gì đó mà tôi mong muốn. Tôi không nói, ‘Ôi, khuôn mặt đẹp đẽ làm sao đâu’ – không ao ước để có nó.”

 “Việc gì xảy đến cho anh khi anh có những ảo ảnh này?”

 “Tôi nhìn vào khuôn mặt.”

 “Có bất kỳ việc gì xảy ra cho anh?”

 “Tôi không biết. Nó giống như lau sạch thân thể và khuôn mặt và không khí. Tôi đã thấy khuôn mặt trong bóng tối, trong ánh sáng, trong dạo bộ. Bạn có lẽ nói rằng điều này hoàn toàn điên khùng. Nhưng nó là như thế. Tôi không bao giờ làm bất kỳ việc gì vì bất kỳ lý do tinh thần nào.”

 “Trước khi tiến trình huyền bí xảy ra ở Ojai, trong những lá thư của anh gởi đến Lady Emily, anh nói anh đang thiền định mỗi ngày?” Mary Zimbalist hỏi.

 “Tất cả thiền định đều thuộc quy tắc của Theosophical Society. Tôi thực hiện nó bởi vì tôi được bảo phải thực hiện nó. Nó là bộ phận thuộc niềm tin của Theosophical Society, nhưng nó không có ý nghĩa gì đối với tôi. Tôi làm tất cả nó một cách tự động.”

“Khi anh ‘lớn lên, hồi tỉnh,’ liệu nó là một lóe sáng hay liệu nó là cái gì đó đã chín chắn mà anh không biết?” Tôi hỏi.

“Trong một lóe sáng, một cách tự nhiên. Lúc trước tôi kinh hãi những lời thề, những kiêng khem, những giữ gìn trong trắng, những không được giận dữ. Tôi không bao giờ thề nguyền. Nếu tôi không ưa thích việc gì, chấm dứt. Nếu tôi ưa thích, tôi tiếp tục nó.”

“Khi người ta đọc quyển Notebook Sổ tay và sau đó đọc những nói chuyện của năm 1948, người ta phát giác có một nhảy vọt cơ bản trong những lời giảng. Liệu có một nhảy vọt luôn luôn đang xảy ra?”

“Vâng, nó luôn luôn đang xảy ra, trong bộ não của tôi, phía bên trong. Lần này sau khi đi từ London đến Bombay và kế tiếp Madras, đêm đầu tiên đó ở Madras, tôi cảm thấy bộ não nổ tung; có một chất lượng, ánh sáng, vẻ đẹp lạ thường. Việc này luôn luôn đang xảy ra, nhưng không phải mỗi ngày. Như thế sẽ là một nói láo. Điều gì cần thiết là sự yên lặng…

“Tôi nhận ra rằng những sự việc đều xảy ra khi anh ở một mình. Nó xảy ra khi anh được đoán rằng ‘bị bệnh’ rất nặng năm 1959, ở Srinagar và sau đó ở Bombay. Tôi chưa bao giờ chắc chắn được liệu rằng anh bị một căn bệnh hay việc gì khác. Khi kết thúc bất kỳ bệnh tật trầm trọng nào, anh đều đưa ra những nói chuyện lạ thường.”

“Bệnh tật có lẽ là một tẩy rửa,” Krishnaji nói.

“Tôi biết anh bị bệnh vào hai dịp ở Bombay. Tôi đã có mặt. Có một bầu không khí lạ thường khi anh bị bệnh.”

“Tôi nhớ anh bị bệnh ở Bombay,” Nandini kể. “Anh bị viêm cuống phổi. Chúng tôi phải hủy bỏ những nói chuyện. Anh bị sốt lên đến 103 hay 104 độ F. Bỗng nhiên anh muốn ói mửa. Vì vậy tôi chạy đi lấy một cái chậu. Tôi cầm tay anh. Tôi thấy anh sắp sửa ngất xỉu. Tôi vội gọi lớn tiếng và anh nói, ‘Không, không.’ Giọng nói của anh đã thay đổi. Khuôn mặt của anh đã thay đổi. Cái người ngồi dựng đứng khác hẳn cái người đã bị ngất xỉu. Anh lại khỏi bệnh.

“Anh bảo với tôi không được để thân thể một mình; chỉ ngồi ở đó. Anh nói, ‘Không bao giờ được căng thẳng khi gần tôi; không bao giờ được lo lắng, đừng cho phép quá nhiều người lại gần tôi. Ở Ấn độ họ không bao giờ để một người bệnh ở một mình.’ Anh bảo tôi ngồi yên lặng và sau đó anh nói, ‘Tôi phải nói cho bạn điều này. Bạn biết cách giúp đỡ một người sắp chết? Nếu bạn biết rằng người nào đó sắp sửa chết, giúp đỡ anh ấy yên lặng, giúp đỡ anh ấy quên đi những tích lũy của anh ấy, được tự do khỏi những phiền muộn của anh ấy, khỏi những vấn đề của anh ấy, giúp đỡ anh ấy từ bỏ những quyến luyến của anh ấy, tất cả những sở hữu của anh ấy.’ Anh yên lặng và sau đó anh nói, ‘Nó chỉ là một bước nhảy qua.’ Và khuôn mặt của anh sáng lên. ‘Nếu bạn không thể thực hiện việc đó, bạn là nơi bạn là, bạn vẫn còn ở nơi bạn là.’ ”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19832)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20902)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19242)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40503)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21240)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41031)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24084)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23031)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17813)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26915)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20705)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33601)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20975)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28872)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12676)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25254)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19120)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17505)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25744)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18988)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18956)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18889)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33291)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38368)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31219)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18209)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24478)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19435)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17885)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23002)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18003)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32149)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17359)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17417)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16059)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18556)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20754)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18057)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20081)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14857)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20881)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15054)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15747)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12929)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14482)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14893)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29360)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12751)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14503)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant