Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

41. “Học chết đi chính bạn trọn vẹn”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8638)
41. “Học chết đi chính bạn trọn vẹn”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 41

“Học chết đi chính bạn trọn vẹn.”

N

gày 22 tháng mười năm 1981, Krishnaji đến Ấn độ cùng Asit Chandmal. Krishnaji đã bị bệnh ở Brockwood một vài ngày trước và cũng bị co rút một cơ nơi lưng của anh. Anh đang trông rất yếu ớt và đã sút đi nhiều cân. Anh đã già yếu và lưng của anh hơi còng xuống. Anh muốn nói chuyện nghiêm túc cùng chúng tôi vào buổi chiều. Khoảng 4:30 anh bắt đầu nói với Nandini và tôi. Anh nói rằng mười lăm ngày trước khi anh ở Brockwood; anh bị bệnh và nằm trên giường suốt một tháng. Một đêm anh thức giấc cùng một cảm giác hoàn toàn khỏe mạnh. Mọi cơ quan trong thân thể của anh đều khỏe mạnh và tỉnh táo. Trong tình trạng đó anh có một ý thức rằng cánh cửa của chết đã mở. Anh đang bước qua, hoàn toàn tỉnh táohoàn toàn yên lặng. Tuy nhiên tại một tích tắc của chết, cánh cửa đóng lại. Anh không đóng cửa, cánh cửa đóng lại.

 Sau đó rất nghiêm túc anh quay về phía tôi và nói, “Chết có thể đến tại bất kỳ khoảnh khắc nào.” Anh hỏi tôi cảm thấy thân thể của tôi ra sao. Tôi trả lời nó không được khỏe lắm. Anh nói, “Bạn phải khỏe mạnh. Bạn phải sống lâu hơn tôi.” Và sau đó anh nói những từ ngữ lạ lùng, mà anh lặp lại, “Học chết đi chính mình trọn vẹn.” Thân thể yếu ớt đang rung động, tuy nhiên có một tiếng sấm gầm trong những từ ngữ của anh.

 Từ Delhi, Krishnaji đến Varanasi. Nói chuyện đầu tiên của anh rất phấn khởi. Anh nói về “lời giảng như cái gương trong đó bạn thấy ‘cái gì là’ được phản ảnh. Lời giảng là sự nhận biết bên trong bạn, của sự thật.”

 Krishnaji nói, “Thấy, hỏi, tôn giáo là gì, sự suy nghĩ là gì? Thấy sự suy nghĩ đang nảy sinh, nhìn ngắm nó – nếu không như thế, tất cả đều là ảo tưởngtrở thành. Cái trí tôn giáo thực sự quan tâm đến sự khám pháhiểu rõ Sự thật là gì.

 “Hãy quan sát,” anh nói, “hãy tìm ra nguồn gốc, khởi đầu của sự suy nghĩ, đang vận hành trong thời gian. Suốt hàng thiên niên kỷ, con người bị trói buộc trong khuôn mẫu, trong hiểu biết. Không có tự do trong khuôn mẫu, trong hiểu biết.” Anh nói về tương lai của con người – về những máy tính đang đảm đương khả năng sáng chế của bộ não. Những người khoa học đang nghiên cứu cái máy thông minh cơ bản – những máy tính mẹ mà có thể sáng chế những máy vi tính tương lai. Những máy tính trong tương lai sẽ sáng chế những Thượng đế, thần thánh, tạo ra triết lý. “Vậy thì, con người là gì?” Krishnaji hỏi. “Việc duy nhất con người có thể làm mà máy tính không thể làm là nhìn ngắm sao hôm.

 “Chỉ có hai lựa chọn cho con người: Hoặc anh ấy gắn kết vào sự giải trí phía bên ngoài, như thể thao, tôn giáo, nghi lễ, hoặc anh ấy quay vào phía bên trong. Bộ não có một khả năng vô hạn, lúc này được sử dụng cho công nghệ. Bộ não bị bận rộn bởi vật chất – khi chức năng này được đảm đương bởi cái máy, bộ não sẽ co rút lại. Chỉ tôn giáo có thể sáng tạo một văn hoá mới mẻ. Một tôn giáohoàn toàn độc lập khỏi sự mê tínnghi lễ. Muốn có điều đó, người ta phải khám phá cái vượt khỏi thời gian, vượt khỏi suy nghĩ.”

 Tại bữa ăn trưa, Jagannath Upadhyaya có mặt. Ông vừa được trao tặng một Nehru Fellowship và sắp sửa thực hiện chuyến đi nước ngoài đầu tiên của ông, viếng thăm những trung tâm Phật giáo trong nhiều quốc gia. Krishnaji hỏi ông ấy sẽ giao tiếp với những người có học thức như thế nào, bởi vì Panditji không biết tiếng Anh, mặc dù ông có thể hiểu rõ những từ ngữ được nói ra. Panditji trả lời rằng ông sẽ nói chuyện với những đối tác của ông bằng tiếng Phạn. Thật mau mắn, Krishnaji bắt đầu khuyên Pandit nên mặc quần áo gì ở Châu âu. Jagannath Upadhyaya bị bối rối và choáng váng khi Krishnaji yêu cầu Achyut lập một danh sách quần áo nên mặc cho ông, gồm cả quần áo bên trong bằng len. Krishnaji rất lo ngại rằng Upadhyaya sẽ khổ sở vì ông sẽ không thể chịu đựng nổi mùa đông ở nước ngoài.

 Sau đó chúng tôi bàn luận về nói chuyện buổi sáng. Upadhyayaji kể rằng ông ấy đã bàn luận về nói chuyện đó với bạn bè và họ cảm thấy rằng, lần đầu tiên, họ đã thực sự hiệp thông cùng điều gì Krishnaji đã nói. Thoạt đầu của những năm 1950, khi những học giả của Varanasi nghe Krishnaji lần đầu tiên, những người Phật giáo nghĩ rằng Krishnaji đang nói về Phật giáo, những người Veda lại nghĩ rằng anh ở trong dòng chảy của Vedanta. Sau đó, Upadhyayaji cảm thấy rằng Krishnaji thiên nhiều hơn về dòng chảy của Nagarjuna. Lại nữa, tại một thời kỳ sau đó, ông cảm thấy rằng lời giảng của Krishnaji là điều gì mà Nagarjuna sẽ nói nếu ngài còn sống hôm nay. Nó liên quan đến khoảnh khắc hiện tại. Từ Madras năm ngoái, Panditji đã và đang suy nghĩ mới mẻ lại. Ông không còn đưa ra bất kỳ phát biểu nào về Krishnaji, ông vẫn còn đang dò dẫm. Krishnaji nói anh đã nói nhiều; có nhiều sách. Người ta nói về chúng như ‘Những lời giảng của Krishnamurti.” “Những lời giảng không là quyển sách,” anh nói. “Những lời giảng duy nhất là, ‘Quan sát về chính bạn. Thâm nhập vào chính bạn – vượt khỏi.’ Không có sự hiểu rõ về lời giảng, chỉ có sự hiểu rõ về chính mình. Những từ ngữ của Krishnaji là một kim chỉ phương hướng. Sự hiểu rõ về chính mình là lời giảng duy nhất.”

 Khi được hỏi, Jagannath Upadhyaya đã giải thích cho Krishnaji về bản chất của sự phủ nhận của Nagarjuna. Nó là sự phủ nhận của tất cả giáo điều, niềm tin, bao gồm giáo điều của Buddha. Krishnaji rất quan tâm. Sau đó, anh hỏi Upadhyayaji, “Bạn tiếp cận vấn đề như thế nào?” Upadhyayaji không thể hiểu rõ. Krishnaji tiếp tục dò dẫm. Anh nói, “Trong tiếp cận là đáp án, không phải rời khỏi nó.” Jagannath Upadhyaya nói ông đã hiểu rõ bằng từ ngữ.

 Ngày 24 tháng mười một năm 1981, Achyut, Rimpoche Samdhong, và tôi dùng bữa trưa cùng Krishnaji. Mặt của Rimpoche rất nghiêm trọng. Chúng tôi nói về Tibet và khả năng trở về của Dalai Lama. Krishnaji hỏi những câu hỏi về những trường học của Phật giáo ở Tibet. Bỗng nhiên, Rimpoche nói, “Trong vài ngày qua tôi đã nếm sự đau khổ tột cùng. Tôi đã trầm tư – đã nhìn ngắm, đã lắng nghe, nhưng nó ở đó.” Ông có những giọt nước mắt trong hai mắt và sự đau khổ tột cùng trên khuôn mặt. Chúng tôi nói về sự kết thúc đau khổ và sự bám chặt đau khổ trong cái trí và điều gì được bao hàm. Bỗng nhiên Krishnaji đặt hai bàn tay của anh trên quả tim của anh và nói, “Nó ở đây.” Tôi yêu cầu anh giải thích cử chỉ đó. Anh nói, “Trước hết, người ta phải quan sát, bằng chú ý vô cùng thấy cái trí và đang vận hành của nó, lắng nghe cái gì ở bên trong và bên ngoài; từ điều này nảy sinh sự nhạy cảm và trong nhạy cảm hiện diện sự thấu triệt. Một mình thấu triệt đó sẽ quét sạch sự đau khổ.”

 Một ngày trước tại một bàn luận ít người, chúng tôi đã nói về thời gian và sự hiểu biết. “Liệu bộ não có thể được tự do khỏi thời gian như trở thành – liệu nó có thể thay đổi sự phụ thuộc vào thời gian tâm lý của nó?” Tôi trả lời rằng khi người ta nhìn vào lời giảng, đầu tiên người ta đã tự quan tâm đến sự thay đổi cá thể. Anh nói về cái trí của con người, hàng triệu năm lịch sử của con người, được chứa đựng trong những tế bào não và sự thay đổi trong những tế bào não. Sự sinh ra của cái trí toàn cầu cần đến một cấp bách, một cách mạng trong quy định của con người. Trong vài năm qua Krishnaji đã phủ nhận bất kỳ vị trí nào cho cá thể. Anh đã vượt khỏi “con người” và quy định của con người. Anh đã và đang nói về vũ trụ, và một ý thức của vũ trụ đã thâm nhập vào những lời giảng của anh. Krishnaji đang hỏi, “Sự liên quan của con người với vũ trụ là gì?” Tôi lại hỏi Kishnaji, “Liệu đã có một thay đổi trong những lời giảng của anh?” Anh trầm tư được vài khoảnh khắc, sau đó chỉ về con sông Ganga và nói, “tại cái nguồn, con sông đó là một giọt nước – nó là sông Ganga.”

 Anh nói về thiền định của vũ trụ như nền tảng của sáng tạo. Thiền định là một trạng thái không gian vô giới hạn, không những đường chân trời, và một kết thúc của thời gian. Những từ ngữ “vĩnh cửu không thời gian” là bộ phận thuộc từ vựng của anh. Anh mang vào những lời giảng của anh lý luận của Phật giáo, và cùng sự kết thúc của lý luậnsuy nghĩ anh thâm nhập vào không gian, sử dụng thông minh như dụng cụ. “Thâm nhập là cùng không-gì cả, vào hiện diện không-kết thúc không-từ ngữ.”

 “Liệu người ta có thể nắm bắt cái đó trong ý thức?” Anh hỏi. “Vậy thì ý thức là gì?”

 Trong một dạo bộ, anh nói, “Thâm nhập phía bên trong là vô hạn. Bạn phải một mình, được lột sạch, sau đó bạn có thể thực hiện một chuyến hành trình vào cái không biết được.” Anh vẫn còn đang dò dẫm, đang cảm giác, anh tiếp tục chất vấn.

 Một hôm khác tại bữa ăn trưa, anh đang thâm nhập sự bao la của thời gian và những hàm ý của nó. Anh hỏi, “Liệu thời gian phía bên trong là một sự kiện? Liệu có mũi tên phía bên trong của thời gian?” Anh nói về sáng tạo như hủy diệt tổng thể. “Trong sự sống có cả sáng tạo lẫn hủy diệt – chính động thái của đang lắng nghe là điều kỳ diệu, nó là ánh sáng trong bóng tối. Trong nó là sự đột biến và lật tung những gốc rễ sâu thẳm. Liệu trong động thái của đang lắng nghe, người ta có thể thâm nhập vào chính mình?” Anh hỏi.

 Khi ở Rajghat, Krishnaji thâm nhập bản chất của chú ý. Anh hỏi chúng tôi, “Chú ý là gì?” Anh nói rằng “sự chú ý tổng thể của một suy nghĩ khai mở toàn bản chất của suy nghĩ.”

 Tôi nói rằng muốn có một chú ý tổng thể như thế, cái trí phải có sức nặng. Mỗi chú ý cho chiều sâu đến nền tảng của cái trí. Krishnaji không đồng ý rằng nhiều hành động của chú ý cho chiều sâu đến cái trí. “Không chuẩn bị nào là cần thiết,” anh nói.

 Tôi hỏi anh, “Cái gì cho cái trí sự chuyển động vùn vụt, sự thấu triệt để nhận biết rằng trong một suy nghĩ, tất cả mọi suy nghĩ được phơi bày?” Krishnaji nói về sự cần thiết cho những tế bào não phải tuyệt đối bất động. Tôi nói có một khuynh hướng vốn có sẵn trong bộ não để phải chuyển động. Trong yêu cầu bộ não phải tuyệt đối bất động, Krishnaji đang đi ngược lại bản chất của bộ não.

 “Đột biến là tức khắc,” Krishnaji nói. “Nghi vấn là, cái gì khiến cho nó xảy ra?”

 “Thuộc sinh học, sự đột biến có thể xảy ra khi có một cần thiết cực kỳ cho sự đột biến như thế; hay, với sự kết thúc của một chức năng đặc biệt của bộ não, những tế bào chết đi và một tế bào mới mẻ được sinh ra,” tôi dẫn giải.

 “Sự cần thiết tuyệt đối phải thay đổi tạo ra sự cần thiết thuộc sinh học phải tìm được cái mới mẻ. Bởi vì sự hiểu biết không thể thay đổi con người, tôi hỏi, liệu có một hành động không được đặt nền tảng trên sự hiểu biết?”

 Chú ý của Krishnaji đang ôm ấp cái trí, đang thiết lập một hiệp thông trực tiếp, đang tiếp xúc cùng những cái trí chung quanh anh.

 Tôi nói, “Tôi phải quan sát cái trí, thấy những cái bẫy của nó. Đó là thấu triệt.”

 Krishnaji ngắt lời tôi. “Không, bạn là một người truyền thống. Bạn đang nói về những năm tháng của sự chuẩn bị để thấy cái này. Tôi nói, thấu triệt là sự nhận biết của khuôn mẫu này. Thấu triệt phá sập khuôn mẫu.”

 Tôi nói, “Từ ngữ ‘thấu triệt’ là một từ ngữ lý thú. Nó hàm ý nhìn vào phía bên trong. Thấu triệt là ngoảnh mặt khỏi cái đã được biết.”

 Krishnaji nói, “Vâng. Bộ não bị quy định vào một khuôn mẫu. Chính sự cần thiết thuộc sinh học bắt buộc nó phải phá sập khuôn mẫu. Thấu triệt được cần đến để thấy điều này không cần bị rèn luyện, cũng không cần thời gian.”

 Tôi nói, “Tôi không đang nói về sự tiếp tục như thời gian, nhưng thấu triệt như một đang khoét sâu của cái trí.”

 Krishnaji nói, “Đang khoét sâu là thời gian. Thấy điều gì được hàm ý trong điều gì bạn đang nói.”

 Tôi nói, “Anh đang nói về cái trí tuyệt đối bất động. Cách đây hai mươi năm khi anh đưa ra một nghi vấn như thế, những suy nghĩ của tôi chuyển động về hướng nghi vấn. Việc này không còn xảy ra nữa. Bộ não bất động và lắng nghe. Có một khác biệt trong chất lượng giữa hai trạng thái. Làm thế nào anh có thể phủ nhận hai mươi năm?”

 Krishnaji nói, “Thời gian khiến cho cái trí càng ngày càng đờ đẫn. Tôi nghi ngờ toàn ý tưởng của thời gian để đến được bất kỳ nơi nào. Tôi không chấp nhận thời gian phía bên trong.”

 “Tôi không đang nói về nó như luyện tập,” tôi nói.

 “Nhưng bạn đang tạo ra sức mạnh cho thời gian,” Krishnaji nói. “Làm thế nào một con sông đang bị ngập lụt có thể trôi chảy?” Anh hỏi. “Tuy nhiên vài giọt nước đầu tiên là con sông.”

 Achyut nói, “Anh quá nghiêm khắc trong lý luận của anh. Có sự bao la vô cùng trong điều gì anh nói. Tuy nhiên, tôi thấy rằng có một ngăn cản trong tôi đang chắn ngang sự hiểu rõ về anh của tôi.” 

Krishnaji trả lời, “Liệu bạn có thể suy nghĩ về việc phủ nhận thời gian? Không phải thời gian như dòng chảy thuộc về chiều dài, nhưng thời gian tâm lý như trở thành. Liệu bạn có thể phủ nhận thời gian như thế để cho nó kết thúc trong bộ não? Chúng ta đang nói về qui trình thuộc tâm lý của thời gian như một chuyển động từ đây đến đó.” Anh ngừng. “Liệu bạn có thể yên lặng lắng nghe?” Anh hỏi, “Liệu bạn có thể chấp nhận thời gian như mặt trời mọc và mặt trời lặn và nói, không có thời gian khác?” Anh ngừng. “Đừng nói ‘có.’ Liệu bạn thấy điều này hàm ý rằng không có thời gian thuộc tương lai? Nó có nghĩa quá khứ có hành động riêng của nó, nhưng không phải như chuyển động của thời gian, như đang trở thành cái gì đó. Tôi đang hỏi bạn ‘ngay lúc này.’ Tôi nói, không có sự chuẩn bị cho thấu triệt. Bạn thấy cái đó? Liệu bạn có thể thấy ngay tức khắc, mà không có thời gian?”

 Tôi nói, “Người ta có thể thấy rằng những tế bào não và sự suy nghĩ là một. Trong hàng thiên niên kỷ, những tế bào não đã bị quy định phải chuyển động trong một khuôn mẫu. Cách đây vài năm, Krishnaji đã nói với tôi rằng những tế bào não không thể tự làm mới mẻ chính chúng, nhưng một tế bào mới mẻ phải được sinh ra.”

 Krishnaji nói, “Sự đột biến không thể xảy ra trong tế bào cũ kỹ, cũng không trong sự suy nghĩ. Cái mới mẻ có thể không có sự liên quan gì với cái cũ kỹ. Tất cả mọi thay đổi, chuyển động từ một góc này của bộ não sang một góc khác, không là làm mới mẻ lại. Hãy tìm ra, liệu có thể phá vỡ tình trạng bị quy địnhkhám phá cái gì đó hoàn toàn mới mẻ.”

 Tôi nói rằng trong chú ý tổng thể là sự kết thúc của cái cũ kỹ. Tôi không thể biết hay tiếp xúc những tế bào não, tôi chỉ có thể biết sự suy nghĩ. Bất kỳ sự vận hành nào của chú ý phải ở trên suy nghĩ. Sau đó tôi hỏi, “Chúng ta đã nói rằng chuyển động là vốn có sẵn trong bộ não. Liệu bộ não đó, mà suốt hàng thiên niên kỷ đã biết sự chuyển động, có thể không chuyển động?”

 “Vâng, lúc này chúng ta đang nắm bắt nó,” Krishnaji nói. “Liệu người ta có thể thấy những tế bào não như sự suy nghĩ? Liệu người ta có thể thấy chú ý đó chỉ có thể vận hành vào sự suy nghĩ? Và đột biến đó không thể hành động và không có liên quan với sự suy nghĩ? Cái cũ kỹ phải kết thúc.”

 Tôi quay lại New Delhi và có mặt tại phi trường để tiếp đón Krishnaji khi anh cùng Achyut đến từ Varanasi vào ngày cuối cùng của tháng mười hai năm 1981. Cả hai đều ở tại nhà của tôi số 11 Safdarjung Road. Đó là lần đầu tiên mà Krishnaji, Achyut, và tôi ở một mình cùng nhau, trong cùng một ngôi nhà, và Krishnaji đã bình phẩm về nó.

 Sáng hôm sau, sau khi ăn sáng chúng tôi vào phòng khách và Krishnaji bắt đầu nói về Mrs. Besant và Leadbeater. Tình yêu vô hạn của anh đối với Mrs. Besant là điều rõ ràng. Anh kể với chúng tôi rằng, khi còn là một đứa trẻ, anh có nhiều khả năng siêu nhiên – khả năng đọc được suy nghĩ, hay những gì được viết trong một lá thư chưa mở. Anh có thể làm những vật trở thành hiện thực, thấy những hình ảnh, và đoán trước tương lai. Anh có khả năng chữa trị. Nhưng anh đã gạt đi tất cả những khả năng này một cách tự nhiên. Anh không bao giờ cảm thấy có bất kỳ hứng thú nào trong những khả năng đó. Chúng tôi cố gắng theo đuổi chủ đề, khi bỗng nhiên anh hỏi, “Bạn tin tưởng sự huyền bí?”

 “Vâng,” tôi nói. “Khi chúng tôi gặp anh và nói chuyện với anh một cách nghiêm túc, một bầu không khí huyền bí hiện diện.”

 Krishnaji nói, “Vâng, đó là như thế.”

 Tôi nói, “Có một cảm giác của tiếp xúc mà không có bất kỳ người nào đang hiện diện ở đó – một cảm giác của hiện diện.”

 “Nó ở trong phòng,” Krishnaji nói. “Tôi không biết liệu bạn cảm thấy nó – đó là cái gì?” và tiếp theo một cái nhìn lạ lùng đi vào hai mắt của anh. “Tôi phải cẩn thận ghê lắm về cái này.” Anh ngừng nói đột ngột, sau đó tiếp tục, “Bạn hỏi – tôi sẽ không hỏi.”

 Tôi nói, “Nó là gì?”

 “Cẩn thận. Khi chúng ta nói về cái này, hoặc chúng ta đang tưởng tượng nó hoặc…”

 “Điều gì xảy ra – liệu nó kết hợp với anh?”

 “Vâng, chắc chắn.” Tâm trạng của Krishnaji đang thay đổi, anh đang nói từ chiều sâu thăm thẳm, như thể đang chuyển động vùn vụt qua những không gian vô hạn phía bên trong. “Tôi nghĩ có một lực lượng mà những người Theosophy đã tiếp xúc nhưng đã cố gắng biến nó thành cái gì đó cụ thể. Nhưng, có cái gì đó mà họ đã tiếp xúc và sau đó cố gắng diễn giải thành những biểu tượng và từ vựng của họ, và thế là mất nó. Cảm giác này đã xảy ra suốt sống của tôi – nó không…”

 “Được kết hợp cùng ý thức?” Achyut hỏi.

 “Không, không. Khi tôi nói về nó, cái gì đó lạ thường đang diễn ra. Tôi không thể hỏi nó bất kỳ điều gì,” Krishnaji nói.

 Qua những cửa sổ, những cửa ra vào, sự yên lặng tràn vào.

 “Tất cả những bệnh tật của anh rất kỳ lạ. Mỗi căn bệnh trầm trọng đã được theo sau bởi một nguồn năng lượng mới mẻ.” Tôi nói. Có một khoảng ngừng vô tận.

 Bỗng nhiên Krishnaji hỏi, “Chúng ta đang nói gì vậy?”

 “Liệu nó là cái gì đó ở phía bên ngoài của anh? Liệu nó bảo vệ anh?” Tôi hỏi một cách do dự.

 “Vâng, vâng – về cái đó không có nghi ngờtuyệt đối.”

 “Mỗi lần nó xảy ra – liệu bản chất của nó thay đổi?”

 Krishnaji nói, “Không, không…”

 “Liệu nó mãnh liệt thêm?” Tôi hỏi.

 “Vâng, nó mãnh liệt thêm.” Lại nữa có một khoảng ngừng vô tận.

 Sau đó, như thể đang do dự khi sử dụng những từ ngữ, Krishnaji nói, “Liệu nó là một việc ở phía bên ngoài đang xảy ra phía bên trong? Vũ trụ đang tràn vào – và thân thể không thể chịu đựng quá nhiều của nó. Khi tôi đang nói, nó rất mạnh mẽ. Cách đây năm phút, nó đã không hiện diện ở đó. Khi còn nhỏ, họ bảo tôi, ‘Hãy hoàn toàn giống như một cái kênh không bị tắc nghẽn – đừng chống cự.’ Chỉ sau đó tôi đã thắc mắc ‘họ’ là ai.”

 “Liệu nó có bất kỳ sự liên quan nào đến từ ngữ Maitreya Bodhisattva?” Achyut hỏi.

 “Liệu Maitreya Bodhisattva là tưởng tượng? C. W. L. đã sáng chế nó? Cậu trai sống cùng cái tên đó một cách không ý thức? Hay nó là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn sự truyền giáo của họ?” Dường như Krishnaji hoàn toàn thẩm thấu trong nghi vấn.

 “Từ ngữ Maitreya có bất kỳ ý nghĩa nào đối với anh?” Tôi hỏi.

 “Không,” Krishnaji trả lời.

 Tôi khăng khăng, “Tại sao anh trả lời, ‘Không’? Anh, người mà nói không có ký ức thuộc tâm lý, tại sao những từ ngữ ‘Maitreya, Buddha’ có một ảnh hưởng đối với anh?”

 “Bạn nhớ ‘Buddha’ của Abanendranath Tagore – Hình ảnh đó có một ảnh hưởng lạ thường đối với cậu trai. Cậu trai không biết Phật giáo là gì.” Krishnaji ngừng. “Nhưng, cảm giác của Buddha đã luôn luôn ở đó. Một cảm giác của vô hạn.”

 “Một cảm giác của vô hạn? Chúng ta có thể bàn về nó? Cảm giác đó ở phía bên ngoài anh? Hay nó ở phía bên trong? Liệu thân thể không thể thâu nhận nó?”

 “Đừng nghĩ rằng tôi điên khùng. Tôi đã chưa bao giờ cảm giác như tôi cảm giác lúc này. Rằng vũ trụ thật gần gũi, như thể đầu của tôi được dính chặt trong vũ trụ. Liệu nó nghe có vẻ điên khùng?” Krishnaji hỏi một cách e thẹn.

 “Anh đang nói rằng tất cả những rào cản đã kết thúc?”

 “Bạn thấy, những từ ngữ ‘Maitreya, Buddha,’ đã không còn ý nghĩa. Tôi có một cảm giác rằng tất cả cảm xúc thuộc từ ngữ đã kết thúc.”

 “Anh đã nói điều gì đó về đang rất gần gũi vũ trụ?”

 Krishnaji cười. “Vâng, bộ đầu của tôi ở trong nó.”
“Cái đó hiện diện trong những nói chuyện. Trung tâm của lời giảng của anh đã chuyển động đến một vị trí vũ trụ,” tôi nói.

 Sau đó anh sử dụng những từ ngữ lạ lùng. “Hay nó có lẽ không là gì cả. Nó có lẽ là một cái vòi bạch tuộc đang cảm giác quanh quanh. Tôi không đang nắm được sự rõ ràng của nó. Lúc này, căn phòng tràn đầy nó. Dù nó là gì chăng nữa, căn phòng đang rộn ràng cùng nó. Tôi càng nhìn ngắm bao nhiêu, nó càng hiện diện ở đó – sự mãnh liệt của nó. Tôi có thể ngồi đây cùng hai bạn và thoát đi. Ở cùng vĩ đại đó và thả cho nó vận hành. Nó là một huyền bí; khoảnh khắc huyền bí được hiểu rõ, nó không còn là huyền bí. Người ta không thể hiểu rõ huyền bí đó – nó quá vô hạn. Nó giống như đang nhìn loanh quanh góc đường. Bạn thấy chứ?

 “Tôi có một cảm giác kỳ lạ rằng tôi muốn thâm nhập huyền bí đó. Bạn theo kịp chứ? Và tuy nhiên, có một do dự nào đó khi tiến gần nó. Bạn không thể tiếp xúc nó. Nó hiện diện ở đó. Nó là huyền bí. Trên bục giảng nó là cái gì đó khác biệt. Hay có thể, nó là cùng sự việc.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28163)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6664)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8774)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9280)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15360)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8234)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8663)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16684)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26921)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18624)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15607)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22491)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19410)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18287)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16158)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25576)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12851)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37835)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20064)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10697)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10013)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10537)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10358)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11016)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15158)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10828)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19648)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11680)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10756)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11216)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10092)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10547)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11531)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10869)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11382)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12130)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11030)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12988)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17740)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15176)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15641)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10969)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12084)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11022)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21787)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12072)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9161)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20148)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17226)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10063)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant