Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần kết

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9070)
Phần kết

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN KẾT

“Nhưng chúng tôi sẽ chôn cất ngài bằng cách nào?”
“Bất kỳ cách nào bạn muốn,” Socrates nói, “đó là nếu bạn có thể bắt được tôi và tôi
 không tuột khỏi những kẽ ngón tay của bạn.”
– PHAEDO, Những ngày cuối cùng của Socrates

 C

âu chuyện của Krishnamurti đã kết thúc. Ngày 17 tháng hai năm 1986, lúc 12:10 A.M Pacific Standard Time, anh chết tại Pine Cottage, Ojai, nơi anh đã bị bệnh phần thân thể trong năm tuần lễ bởi ung thư tuyến tụy. Anh chết trong căn phòng đối diện cây tiêu, mà dưới cây tiêu đó, cách sáu mươi bốn năm, anh đã trải qua những thay đổi vô cùng của ý thức.

 Anh được hỏa thiêu ở Ventura, California. Tro hỏa táng của anh được chia thành ba phần: cho Ojai, Ấn độ, và nước Anh. Ở Ấn độ, tro được gửi gấm cho con sông Ganga: giữa dòng chảy tại Rajghat, Varanasi; tại Gangotri, nguồn của con sông ở sâu trong dãy núi Himalayas; và tại bãi biển Adyar ở Madras, nơi tro được để trong một chiếc thuyền đôi mỏng manh trôi giạt trên những con sóng hỗn loạn để được nhấn chìm trong biển cả.

 Krishnaji đã nói trước khi anh chết rằng thân thể sau khi chết chẳng quan trọng gì cả. Giống như một khúc củi, nó phải được nuốt trọn bởi lửa. “Tôi là một người đơn giản,” anh nói, và chuyến đi cuối cùng của anh phải giống như một người đơn giản. Sẽ không có những nghi lễ sau cái chết của anh, không cầu nguyện, không nhặng xị, không những thủ tục rườm rà. Không bia tưởng niệm nào sẽ được xây trên tro hỏa táng của anh. Trong bất kỳ tình huống nào người thầy sẽ không được tôn thờ. Người thầy không quan trọng; chỉ lời giảng là quan trọng. Chính lời giảng mới phải được bảo vệ để không bị biến dạngsai lầm. Không có vị trí cho thứ bậc hay uy quyền trong lời giảng; không có người kế vị và không người đại diện nào sẽ thực hiện những lời giảng này nhân danh tôi bây giờ hay bất kỳ thời gian nào trong tương lai. Tuy nhiên, anh chỉ thị cho những người thân thiết của anh rằng những tổ chức mang tên anh ở Ấn độ, Mỹ, và Anh nên tiếp tục, cũng như những trường học được thành lập dưới sự hướng dẫn của anh.

 Tro hỏa táng của anh được mang bằng máy bay đến Delhi. Tôi nhận chúng tại chân máy bay và lái thẳng về nhà tôi. Khi chúng tôi vào cổng, một trận mưa nặng hạt ào ào trút xuống. Nó tiếp tục trong khoảng một vài phút, cho đến khi bình đựng tro được đặt dưới một cây bồ đề trong vườn. Sau đó, như đột nhiên khi nó bắt đầu, mưa chợt ngừng lại.

 Khi ở Rougemont, Thụy sĩ, tháng bảy năm 1985 những hàm ý đầu tiên về cái chết đang đến gần của anh nảy ra trong Krishnaji. Tôi gặp anh tại Brockwood Park vào cuối tháng chín. Anh chờ tôi trong căn nhà bếp nhỏ ở phía tây của ngôi nhà cổ. Anh nói rằng anh phải kể cho tôi điều gì đó rất nghiêm túc. “Từ Thụy sĩ, tôi biết khi nào tôi sẽ chết. Tôi biết cả ngày và địa điểm, nhưng tôi sẽ không tiết lộ nó cho bất kỳ ai.” Anh tiếp tục nói, “Sự thể hiện đã bắt đầu phai nhạt.”

 Tôi chết điếng ngườingồi yên lặng.

 Anh đến New Delhi vào ngày 25 tháng mười, nơi anh sẽ nghỉ ngơi vài ngày trước khi đi đến Varanasi. Ngày 29 thảng mười, anh gặp R. Venkataraman, phó tổng thống Ấn độ và một người bạn thân, và Rajiv Gandhi, trước hết ăn trưa tại nhà phó tổng thống và sau đó ăn tối tại nhà tôi. Đây là lần đầu tiên Krishnaji gặp Rajiv từ khi Indira Gandhi chết vào năm trước, và có một chua xót trong gặp gỡ.

 Từ Delhi, Krishnaji đi đến Varanasi, nơi một trại được tham dự bởi ba trăm người đã được tổ chức. Gió mùa đã dư thừa và có dấu hiệu của sự sống mới mẻ đang nảy mầm trên cây cối và những bụi nhỏ; những cây mù tạc vàng xanh rực rỡ đã bắt đầu xuất hiện trên bờ sông. Lễ hội Diwali được tổ chức trong khi Krishnaji đang ở tại đó; hàng ngàn ngọn đèn dầu được thắp sáng tại ngôi nhà nơi Krishnaji sống và con sông rực rỡ bởi những cây đèn dầu thả trôi lung linh trong cơn gió chiều.[1]

 Krishnaji nói về cuộc họp mặt, tổ chức những bàn luận cùng những pandit của Varanasi và những học giả trong truyền thống Vedan và Buddhism, và bàn luận về tương lai của Rajghat cùng những thành viên của Foundation. Professor Krishna, một giảng viên vật lý tại Benares Hindu University, người Krishnaji đã quen biết trong nhiều năm, đồng ý từ bỏ công việc của ông ấy và phụ trách chức vụ Hiệu trưởng của Rajghat Education Center. Hai người hành hương, R. Upasani và Mahesh Saxena, dạo bộ cùng Krishnaji khi anh đi chung quanh khu đất, quan sátmỉm cười cùng người hành hương và người nông dân, lắng nghe nhịp đập của thành phố cổ xưa.

 Upanasi đã sống được ba thập niên ở Rajghat, chăm sóc mảnh đất; sự ân cầnquan tâm của ông đã đưa ông gần gũi cùng Krishnaji và Mahesh Saxena, người mới đến, người đứng đầu cũ của sở cảnh sát ở Delhi. Nhạy cảmtừ bi, Saxena đã từ bỏ công việc của ông ấy, khoác vào một chiếc áo choàng, và trở thành một người tìm kiếm. Trong nhiều năm ông ấy đã sống ở Himalayas, sau đó bắt đầu lang thang cho đến khi ông ấy đến Rajghat. Sự hiện diện và sự mãnh liệt của anh đã cuốn ông ấy vào gần Krishnaji, và chẳng mấy chốc ông ấy cũng tham gia vào Foundation, để trở thành thư ký của nó.

 Từ Rajghat, Krishnaji đi đến Rishi Valley, nơi anh thực hiện những bàn luận cùng những người giáo dục và những học sinh. Những cơn mưa đã nhiều lắm rồi; mảnh đất cằn cỗi đã thức dậy, những cánh đồng xanh tươi, và vô số cây non được trồng bởi các em bé che kín sườn đồi đầy đá.

 Những dạo bộ của anh bắt đầu ngắn lại và anh đang sút cân tại một mức độ đáng ngại. Vào một ngày khi đi đến phòng của anh, Radhika nghe Krishnaji nói chuyện cùng một con chim Hoopoe: “Chắc chắn bạn và con cái của bạn được hoan ngênh khi vào đây. Nhưng tôi có thể cam đoan với bạn rằng bạn sẽ không thích nó. Trong một vài ngày nữa tôi sẽ đi khỏi, căn phòng sẽ bị khóa lại, những cửa sổ sẽ đóng, và bạn sẽ không thể ra ngoài.” Khi cô vào phòng cô trông thấy con chim, gần bên cửa sổ lớn, đang đậu trên một cành cây spathodia, mào của nó xòe ra, đang lắng nghe Krishnaji, nằm trên giường nói chuyện bằng những âm điệu đều đặn. Krishnaji nói rằng con chim thích âm thanh tiếng nói của anh, và đã đậu ở đó lắng nghe anh một lúc rồi. Rất thường xuyên khi nhóm ít người chúng tôi ngồi trên tấm thảm cùng Krishnaji trong phòng của anh, con chim sẽ quặp xuống cửa sổ, gõ vào khung kính, và thông thường tạo ra một ồn ào. Krishnaji sẽ nói, “Người bạn của tôi đây rồi.”

 Anh rút ngắn chuyến ở lại Rishi Valley và đến Vasanr Vihar ở Madras, nơi anh thực hiện ba nói chuyện trước công chúng. Cũng vậy ở đây, cơn mưa đã đến trước anh. Ngôi vườn sum suê và những bông hoa vàng sẫm đã xuất hiện trên cây tabebuia argentina, đang nở hoa trái mùa. Krishnaji bị sốt cao, nhưng anh từ chối bất kỳ sự can thiệp y tế nào và tiếp tục những nói chuyện của anh. Những đám đông lớn tham dự những nói chuyện, bởi vì mọi người đều biết rằng Krishnaji bị bệnh nặng và đây có lẽ là viếng thăm cuối cùng của anh. Anh nói về chết và sáng tạo, vượt khỏi khởi đầu và kết thúc. Năng lượng vô hạn lúc trước tràn đầy thân thể và giọng nói mà sẽ vang vọng trong bầu không khí lúc này đã thấp lắm; thân thể yếu ớt, mặc dù tỏa sáng và thẳng đứng, đã run rẩy như thể không đủ sức bắt kịp sức mạnh và sự xô đẩy của năng lượng đang tràn qua nó. Sau nói chuyện Krishnaji yêu cầu thính giả ngồi yên lặng và thiền định cùng anh.

 Một em bé đứng dậy cùng một bông hoa champak màu trắng. Anh quay lại và mỉm cười khi nhận nó. Em bé mỉm cười. Giảng thuyết kết thúc bằng sự yên lặng và nụ cười. Anh đã nói, đó là nói chuyện cuối cùng.

 Suốt những ngày tiếp theo, anh gặp gỡ những người bạn và những người thân thiết từ Krishnamurti Foundation ở Ấn độ, thỉnh thoảng một mình, thỉnh thoảng từng nhóm. Anh nói với họ về nhiều sự việc, về những trường học và những trung tâm nghiên cứu và sự yên lặng. Gần cuối họp mặt cuối cùng anh nói: “Hãy tuyệt đối tỉnh táo, và không thực hiện nỗ lực.” Asit hỏi liệu đó là những từ ngữ cuối cùng cho chúng tôi, và anh mỉm cười.

 Anh quyết định quay lại Ojai ngày 10 tháng giêng. Chiều hôm đó anh dạo bộ thường lệ trên bãi biển Adyar. Một số đông bạn bè theo cùng anh. Một cơn gió mạnh quét mái tóc của anh giống như vệt sao chổi, hất ngược ra sau khuôn mặt, phơi bày cái trán có vòm cao của anh. Anh có hình dáng của một thánh nhân cổ xưa của rừng rú. Anh dạo bộ trên bãi biển nơi anh đã “được phát hiện,” được nhận nuôi, được khai trí. Ở đây bên cạnh bãi biển, tại Adyar, cách đây bảy mươi lăm năm, khi lần cuối cùng sao chổi Halley vào quỹ đạo mà sẽ đưa nó về hướng mặt trời. Khi quay về, anh yêu cầu bạn bè của anh chờ đợi tại nhà của Radha Burnier bên trong khuôn viên Theosophical Society. Krishnaji nấn ná trên bãi biển, nhìn ra biển cả đang gầm thét. Sau đó anh quay về từng phương Đông, Tây, Nam, Bắc và ngừng mỗi phương chừng một phút; lặng lẽ anh vào cổng và quay về.

 Đêm đó, một tiếng đồng hồ trước khi anh khởi hành, anh đi xuống từ phòng của anh. Anh mặc tươm tất trong quần áo phương Tây, áo choàng bằng vải len khoác trên cánh tay và một khăn quàng bằng lụa in màu đỏ – một quà tặng từ tôi – quấn quanh cổ của anh. Anh chào hỏi những người bạn, đang đứng theo một nửa vòng tròn; sau đó anh đến tôi và bắt tay tôi. “Tôi trông thế nào?” Anh hỏi. “Bốn mươi,” tôi trả lời. Tôi nhận xét về khăn quàng của anh. “Cái khăn quàng ưa thích nhất của tôi,” anh trả lời. Anh biết rằng đó là lần cuối cùng anh sẽ gặp đa số trong những người bạn đang đứng trước mặt anh. Nhưng anh đã cắt đứt mọi cảm xúc, mọi đau khổý thức của chia ly. Đây là ân lành cuối cùng của anh. Đêm đó anh rời đi theo đường Pacific, máy bay đi thẳng đến Los Angeles.

 Ở Ojai, tình trạng sức khỏe của anh trở nên trầm trọng và căn bệnh của anh được chẩn đoán là ung thư tuyến tụy. Tôi đến đó vào ngày 31 tháng giêng để phát giác rằng anh bị bệnh rất nặng. Thân thể nhạy cảm cao độ của anh, đã được bảo vệ cẩn thận qua những năm tháng, bị tàn phá bởi sự hung bạo của căn bệnh. Vào ngày đầu tiên anh thấy chúng tôi như thể qua một lớp sương mù. Anh đã mất đi tất cả ý thức của thời gianvị trí. Nhưng ngày hôm sau anh tập hợp năng lượng lại, và tôi thấy cái trí của anh minh mẫn, hai mắt rõ rànghoàn toàn tỉnh táo. Tôi đọc cho anh những lá thư tôi đã mang theo từ Nandini, Sunanda, và Thủ tướng Rajiv Gandhi, người đã gửi một lá thư cá nhân. Krishnaji cầm tay tôi, nắm thật chặt và một trôi chảy vô hạn của tình yêu vươn ra ngoài tiếp xúc tôi. Anh nói anh quá yếu không thể viết được, nhưng gửi tình yêu của anh đến tất cả những người bạn của anh ở Ấn độ.

 Trong suốt ba hay bốn ngày kế tiếp sức khỏe của anh hồi phục. Anh yêu cầu được ngồi trong một xe đẩy đưa ra cây tiêu. Ở đó anh ngồi một mình và chào từ biệt những hòn núi của Ojai, những cánh rừng trồng cam cùng nhiều cây cối.

 Anh cũng đi bộ đến phòng khách bằng sự trợ giúp và nằm trên ghế sofa nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Anh xem một cuốn phim trên truyền hình tối hôm đó và những bác sĩ cảm thấy rằng, thậm chí có lẽ có một thuyên giảm trong căn bệnh. Đối với tôi anh nói, “Đến gặp tôi ngày mai và tất cả những ngày bạn ở đây.” Vì vậy tôi gặp Krishnaji mỗi sáng. Tôi sẽ ngồi bên cạnh giường ngủ của anh, cầm bàn tay của anh bằng cả hai bàn tay của tôi, và yên lặng cùng anh.

 Tôi thấy những quyển sách bên giường ngủ của anh, những quyển sách bằng tiếng Anh, tiếng Ý, và tiếng Pháp – Golden Treasury của Palgrave, quyển Oxford Book of English Verse, những truyện của Italo Calvino, quyển Berlitz Dictionary of Italian, những truyện của Alphonse Daudet, Gustave Dore, và quyển Alexandria Quartet của Lawrence Durrell.

 Vào ngày Chủ nhật mồng 9 tháng hai, khối u hoành hành không ngớt và Krishnaji lại nằm liệt giường, bệnh rất nặng. Tôi không thể gặp anh ngày hôm đó. Sáng hôm sau anh yêu cầu gặp tôi. Anh nói, “Tôi đã dạo bộ rất lâu trong những hòn núi. Tôi bị lạc và họ không thể tìm được tôi. Vì vậy tôi không thể gặp bạn ngày hôm qua.” Trong tích tắc khuôn mặt của anh trẻ trung lại, đẹp đẽ lạ thường.

 Tôi gặp Krishnaji khoảng một giờ vào ngày khởi hành của tôi, 16 tháng hai. Tôi ngồi cùng anh trong một khoảng thời gian. Anh bị đau đớn lắm, nhưng cái trí của anh rất rõ ràngminh mẫn. Tôi nói tôi sẽ không tạm biệt anh, bởi vì sẽ không có sự chia ly. Bằng nỗ lực phi thường, anh nâng bàn tay của tôi để lên hai môi anh. Sức nắm tay vẫn còn vững chắc. Anh nằm nghỉ êm ả trong một yên lặng bao bọc tôi. Khi tôi sắp sửa rời đi, anh nói, “Pupul, tối nay tôi sẽ đi dạo rất lâu trong những hòn núi. Những làn sương đang bốc lên.” Tôi rời phòng của anh mà không quay lại.

 Đêm đó, lúc chín giờ Pacific Standard Time, Krishnaji ngủ, để bắt đầu dạo bộ lâu của anh vào những hòn núi. Những làn sương đang bốc lên, nhưng anh dạo bộ xuyên qua những làn sương và anh đi khỏi.

TẬP II: Ngày bắt đầu dịch: 8:00 ngày 17 tháng 10 năm 2010
Dịch xong: 15:00 ngày 24 tháng 11 năm 2010
 Sửa xong lần cuối: 15:00 ngày 13 tháng 4 năm 2011


[1]Diwali, lễ hội đèn, được tổ chức vào đêm tối nhất trong tháng, bốn tháng sau khi gió mùa chấm dứt và quả đất thức dậy sự sống mới. Nó báo trước công việc gieo hạt và là một lễ hội để cầu khẩn sự hiện diện của Laksmi, nữ thần thịnh vượng. Ngay cả người dân làng nghèo khổ nhất cũng thắp sáng một cây đèn dầu bằng đất sét để cho nữ thần không đi qua mà không vào nhà của ông ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28091)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6645)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8729)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9231)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8169)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8613)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16600)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26696)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15488)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22361)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19284)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18180)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16065)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25461)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37752)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19919)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10636)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10489)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10298)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10966)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15080)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10787)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19534)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11603)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10680)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11147)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10046)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10469)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10813)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12051)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10958)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12936)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17600)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15046)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15534)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10908)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12004)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10972)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21597)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12009)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9115)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20090)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17116)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9996)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant