Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần kết

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9116)
Phần kết

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN KẾT

“Nhưng chúng tôi sẽ chôn cất ngài bằng cách nào?”
“Bất kỳ cách nào bạn muốn,” Socrates nói, “đó là nếu bạn có thể bắt được tôi và tôi
 không tuột khỏi những kẽ ngón tay của bạn.”
– PHAEDO, Những ngày cuối cùng của Socrates

 C

âu chuyện của Krishnamurti đã kết thúc. Ngày 17 tháng hai năm 1986, lúc 12:10 A.M Pacific Standard Time, anh chết tại Pine Cottage, Ojai, nơi anh đã bị bệnh phần thân thể trong năm tuần lễ bởi ung thư tuyến tụy. Anh chết trong căn phòng đối diện cây tiêu, mà dưới cây tiêu đó, cách sáu mươi bốn năm, anh đã trải qua những thay đổi vô cùng của ý thức.

 Anh được hỏa thiêu ở Ventura, California. Tro hỏa táng của anh được chia thành ba phần: cho Ojai, Ấn độ, và nước Anh. Ở Ấn độ, tro được gửi gấm cho con sông Ganga: giữa dòng chảy tại Rajghat, Varanasi; tại Gangotri, nguồn của con sông ở sâu trong dãy núi Himalayas; và tại bãi biển Adyar ở Madras, nơi tro được để trong một chiếc thuyền đôi mỏng manh trôi giạt trên những con sóng hỗn loạn để được nhấn chìm trong biển cả.

 Krishnaji đã nói trước khi anh chết rằng thân thể sau khi chết chẳng quan trọng gì cả. Giống như một khúc củi, nó phải được nuốt trọn bởi lửa. “Tôi là một người đơn giản,” anh nói, và chuyến đi cuối cùng của anh phải giống như một người đơn giản. Sẽ không có những nghi lễ sau cái chết của anh, không cầu nguyện, không nhặng xị, không những thủ tục rườm rà. Không bia tưởng niệm nào sẽ được xây trên tro hỏa táng của anh. Trong bất kỳ tình huống nào người thầy sẽ không được tôn thờ. Người thầy không quan trọng; chỉ lời giảng là quan trọng. Chính lời giảng mới phải được bảo vệ để không bị biến dạngsai lầm. Không có vị trí cho thứ bậc hay uy quyền trong lời giảng; không có người kế vị và không người đại diện nào sẽ thực hiện những lời giảng này nhân danh tôi bây giờ hay bất kỳ thời gian nào trong tương lai. Tuy nhiên, anh chỉ thị cho những người thân thiết của anh rằng những tổ chức mang tên anh ở Ấn độ, Mỹ, và Anh nên tiếp tục, cũng như những trường học được thành lập dưới sự hướng dẫn của anh.

 Tro hỏa táng của anh được mang bằng máy bay đến Delhi. Tôi nhận chúng tại chân máy bay và lái thẳng về nhà tôi. Khi chúng tôi vào cổng, một trận mưa nặng hạt ào ào trút xuống. Nó tiếp tục trong khoảng một vài phút, cho đến khi bình đựng tro được đặt dưới một cây bồ đề trong vườn. Sau đó, như đột nhiên khi nó bắt đầu, mưa chợt ngừng lại.

 Khi ở Rougemont, Thụy sĩ, tháng bảy năm 1985 những hàm ý đầu tiên về cái chết đang đến gần của anh nảy ra trong Krishnaji. Tôi gặp anh tại Brockwood Park vào cuối tháng chín. Anh chờ tôi trong căn nhà bếp nhỏ ở phía tây của ngôi nhà cổ. Anh nói rằng anh phải kể cho tôi điều gì đó rất nghiêm túc. “Từ Thụy sĩ, tôi biết khi nào tôi sẽ chết. Tôi biết cả ngày và địa điểm, nhưng tôi sẽ không tiết lộ nó cho bất kỳ ai.” Anh tiếp tục nói, “Sự thể hiện đã bắt đầu phai nhạt.”

 Tôi chết điếng ngườingồi yên lặng.

 Anh đến New Delhi vào ngày 25 tháng mười, nơi anh sẽ nghỉ ngơi vài ngày trước khi đi đến Varanasi. Ngày 29 thảng mười, anh gặp R. Venkataraman, phó tổng thống Ấn độ và một người bạn thân, và Rajiv Gandhi, trước hết ăn trưa tại nhà phó tổng thống và sau đó ăn tối tại nhà tôi. Đây là lần đầu tiên Krishnaji gặp Rajiv từ khi Indira Gandhi chết vào năm trước, và có một chua xót trong gặp gỡ.

 Từ Delhi, Krishnaji đi đến Varanasi, nơi một trại được tham dự bởi ba trăm người đã được tổ chức. Gió mùa đã dư thừa và có dấu hiệu của sự sống mới mẻ đang nảy mầm trên cây cối và những bụi nhỏ; những cây mù tạc vàng xanh rực rỡ đã bắt đầu xuất hiện trên bờ sông. Lễ hội Diwali được tổ chức trong khi Krishnaji đang ở tại đó; hàng ngàn ngọn đèn dầu được thắp sáng tại ngôi nhà nơi Krishnaji sống và con sông rực rỡ bởi những cây đèn dầu thả trôi lung linh trong cơn gió chiều.[1]

 Krishnaji nói về cuộc họp mặt, tổ chức những bàn luận cùng những pandit của Varanasi và những học giả trong truyền thống Vedan và Buddhism, và bàn luận về tương lai của Rajghat cùng những thành viên của Foundation. Professor Krishna, một giảng viên vật lý tại Benares Hindu University, người Krishnaji đã quen biết trong nhiều năm, đồng ý từ bỏ công việc của ông ấy và phụ trách chức vụ Hiệu trưởng của Rajghat Education Center. Hai người hành hương, R. Upasani và Mahesh Saxena, dạo bộ cùng Krishnaji khi anh đi chung quanh khu đất, quan sátmỉm cười cùng người hành hương và người nông dân, lắng nghe nhịp đập của thành phố cổ xưa.

 Upanasi đã sống được ba thập niên ở Rajghat, chăm sóc mảnh đất; sự ân cầnquan tâm của ông đã đưa ông gần gũi cùng Krishnaji và Mahesh Saxena, người mới đến, người đứng đầu cũ của sở cảnh sát ở Delhi. Nhạy cảmtừ bi, Saxena đã từ bỏ công việc của ông ấy, khoác vào một chiếc áo choàng, và trở thành một người tìm kiếm. Trong nhiều năm ông ấy đã sống ở Himalayas, sau đó bắt đầu lang thang cho đến khi ông ấy đến Rajghat. Sự hiện diện và sự mãnh liệt của anh đã cuốn ông ấy vào gần Krishnaji, và chẳng mấy chốc ông ấy cũng tham gia vào Foundation, để trở thành thư ký của nó.

 Từ Rajghat, Krishnaji đi đến Rishi Valley, nơi anh thực hiện những bàn luận cùng những người giáo dục và những học sinh. Những cơn mưa đã nhiều lắm rồi; mảnh đất cằn cỗi đã thức dậy, những cánh đồng xanh tươi, và vô số cây non được trồng bởi các em bé che kín sườn đồi đầy đá.

 Những dạo bộ của anh bắt đầu ngắn lại và anh đang sút cân tại một mức độ đáng ngại. Vào một ngày khi đi đến phòng của anh, Radhika nghe Krishnaji nói chuyện cùng một con chim Hoopoe: “Chắc chắn bạn và con cái của bạn được hoan ngênh khi vào đây. Nhưng tôi có thể cam đoan với bạn rằng bạn sẽ không thích nó. Trong một vài ngày nữa tôi sẽ đi khỏi, căn phòng sẽ bị khóa lại, những cửa sổ sẽ đóng, và bạn sẽ không thể ra ngoài.” Khi cô vào phòng cô trông thấy con chim, gần bên cửa sổ lớn, đang đậu trên một cành cây spathodia, mào của nó xòe ra, đang lắng nghe Krishnaji, nằm trên giường nói chuyện bằng những âm điệu đều đặn. Krishnaji nói rằng con chim thích âm thanh tiếng nói của anh, và đã đậu ở đó lắng nghe anh một lúc rồi. Rất thường xuyên khi nhóm ít người chúng tôi ngồi trên tấm thảm cùng Krishnaji trong phòng của anh, con chim sẽ quặp xuống cửa sổ, gõ vào khung kính, và thông thường tạo ra một ồn ào. Krishnaji sẽ nói, “Người bạn của tôi đây rồi.”

 Anh rút ngắn chuyến ở lại Rishi Valley và đến Vasanr Vihar ở Madras, nơi anh thực hiện ba nói chuyện trước công chúng. Cũng vậy ở đây, cơn mưa đã đến trước anh. Ngôi vườn sum suê và những bông hoa vàng sẫm đã xuất hiện trên cây tabebuia argentina, đang nở hoa trái mùa. Krishnaji bị sốt cao, nhưng anh từ chối bất kỳ sự can thiệp y tế nào và tiếp tục những nói chuyện của anh. Những đám đông lớn tham dự những nói chuyện, bởi vì mọi người đều biết rằng Krishnaji bị bệnh nặng và đây có lẽ là viếng thăm cuối cùng của anh. Anh nói về chết và sáng tạo, vượt khỏi khởi đầu và kết thúc. Năng lượng vô hạn lúc trước tràn đầy thân thể và giọng nói mà sẽ vang vọng trong bầu không khí lúc này đã thấp lắm; thân thể yếu ớt, mặc dù tỏa sáng và thẳng đứng, đã run rẩy như thể không đủ sức bắt kịp sức mạnh và sự xô đẩy của năng lượng đang tràn qua nó. Sau nói chuyện Krishnaji yêu cầu thính giả ngồi yên lặng và thiền định cùng anh.

 Một em bé đứng dậy cùng một bông hoa champak màu trắng. Anh quay lại và mỉm cười khi nhận nó. Em bé mỉm cười. Giảng thuyết kết thúc bằng sự yên lặng và nụ cười. Anh đã nói, đó là nói chuyện cuối cùng.

 Suốt những ngày tiếp theo, anh gặp gỡ những người bạn và những người thân thiết từ Krishnamurti Foundation ở Ấn độ, thỉnh thoảng một mình, thỉnh thoảng từng nhóm. Anh nói với họ về nhiều sự việc, về những trường học và những trung tâm nghiên cứu và sự yên lặng. Gần cuối họp mặt cuối cùng anh nói: “Hãy tuyệt đối tỉnh táo, và không thực hiện nỗ lực.” Asit hỏi liệu đó là những từ ngữ cuối cùng cho chúng tôi, và anh mỉm cười.

 Anh quyết định quay lại Ojai ngày 10 tháng giêng. Chiều hôm đó anh dạo bộ thường lệ trên bãi biển Adyar. Một số đông bạn bè theo cùng anh. Một cơn gió mạnh quét mái tóc của anh giống như vệt sao chổi, hất ngược ra sau khuôn mặt, phơi bày cái trán có vòm cao của anh. Anh có hình dáng của một thánh nhân cổ xưa của rừng rú. Anh dạo bộ trên bãi biển nơi anh đã “được phát hiện,” được nhận nuôi, được khai trí. Ở đây bên cạnh bãi biển, tại Adyar, cách đây bảy mươi lăm năm, khi lần cuối cùng sao chổi Halley vào quỹ đạo mà sẽ đưa nó về hướng mặt trời. Khi quay về, anh yêu cầu bạn bè của anh chờ đợi tại nhà của Radha Burnier bên trong khuôn viên Theosophical Society. Krishnaji nấn ná trên bãi biển, nhìn ra biển cả đang gầm thét. Sau đó anh quay về từng phương Đông, Tây, Nam, Bắc và ngừng mỗi phương chừng một phút; lặng lẽ anh vào cổng và quay về.

 Đêm đó, một tiếng đồng hồ trước khi anh khởi hành, anh đi xuống từ phòng của anh. Anh mặc tươm tất trong quần áo phương Tây, áo choàng bằng vải len khoác trên cánh tay và một khăn quàng bằng lụa in màu đỏ – một quà tặng từ tôi – quấn quanh cổ của anh. Anh chào hỏi những người bạn, đang đứng theo một nửa vòng tròn; sau đó anh đến tôi và bắt tay tôi. “Tôi trông thế nào?” Anh hỏi. “Bốn mươi,” tôi trả lời. Tôi nhận xét về khăn quàng của anh. “Cái khăn quàng ưa thích nhất của tôi,” anh trả lời. Anh biết rằng đó là lần cuối cùng anh sẽ gặp đa số trong những người bạn đang đứng trước mặt anh. Nhưng anh đã cắt đứt mọi cảm xúc, mọi đau khổý thức của chia ly. Đây là ân lành cuối cùng của anh. Đêm đó anh rời đi theo đường Pacific, máy bay đi thẳng đến Los Angeles.

 Ở Ojai, tình trạng sức khỏe của anh trở nên trầm trọng và căn bệnh của anh được chẩn đoán là ung thư tuyến tụy. Tôi đến đó vào ngày 31 tháng giêng để phát giác rằng anh bị bệnh rất nặng. Thân thể nhạy cảm cao độ của anh, đã được bảo vệ cẩn thận qua những năm tháng, bị tàn phá bởi sự hung bạo của căn bệnh. Vào ngày đầu tiên anh thấy chúng tôi như thể qua một lớp sương mù. Anh đã mất đi tất cả ý thức của thời gianvị trí. Nhưng ngày hôm sau anh tập hợp năng lượng lại, và tôi thấy cái trí của anh minh mẫn, hai mắt rõ rànghoàn toàn tỉnh táo. Tôi đọc cho anh những lá thư tôi đã mang theo từ Nandini, Sunanda, và Thủ tướng Rajiv Gandhi, người đã gửi một lá thư cá nhân. Krishnaji cầm tay tôi, nắm thật chặt và một trôi chảy vô hạn của tình yêu vươn ra ngoài tiếp xúc tôi. Anh nói anh quá yếu không thể viết được, nhưng gửi tình yêu của anh đến tất cả những người bạn của anh ở Ấn độ.

 Trong suốt ba hay bốn ngày kế tiếp sức khỏe của anh hồi phục. Anh yêu cầu được ngồi trong một xe đẩy đưa ra cây tiêu. Ở đó anh ngồi một mình và chào từ biệt những hòn núi của Ojai, những cánh rừng trồng cam cùng nhiều cây cối.

 Anh cũng đi bộ đến phòng khách bằng sự trợ giúp và nằm trên ghế sofa nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Anh xem một cuốn phim trên truyền hình tối hôm đó và những bác sĩ cảm thấy rằng, thậm chí có lẽ có một thuyên giảm trong căn bệnh. Đối với tôi anh nói, “Đến gặp tôi ngày mai và tất cả những ngày bạn ở đây.” Vì vậy tôi gặp Krishnaji mỗi sáng. Tôi sẽ ngồi bên cạnh giường ngủ của anh, cầm bàn tay của anh bằng cả hai bàn tay của tôi, và yên lặng cùng anh.

 Tôi thấy những quyển sách bên giường ngủ của anh, những quyển sách bằng tiếng Anh, tiếng Ý, và tiếng Pháp – Golden Treasury của Palgrave, quyển Oxford Book of English Verse, những truyện của Italo Calvino, quyển Berlitz Dictionary of Italian, những truyện của Alphonse Daudet, Gustave Dore, và quyển Alexandria Quartet của Lawrence Durrell.

 Vào ngày Chủ nhật mồng 9 tháng hai, khối u hoành hành không ngớt và Krishnaji lại nằm liệt giường, bệnh rất nặng. Tôi không thể gặp anh ngày hôm đó. Sáng hôm sau anh yêu cầu gặp tôi. Anh nói, “Tôi đã dạo bộ rất lâu trong những hòn núi. Tôi bị lạc và họ không thể tìm được tôi. Vì vậy tôi không thể gặp bạn ngày hôm qua.” Trong tích tắc khuôn mặt của anh trẻ trung lại, đẹp đẽ lạ thường.

 Tôi gặp Krishnaji khoảng một giờ vào ngày khởi hành của tôi, 16 tháng hai. Tôi ngồi cùng anh trong một khoảng thời gian. Anh bị đau đớn lắm, nhưng cái trí của anh rất rõ ràngminh mẫn. Tôi nói tôi sẽ không tạm biệt anh, bởi vì sẽ không có sự chia ly. Bằng nỗ lực phi thường, anh nâng bàn tay của tôi để lên hai môi anh. Sức nắm tay vẫn còn vững chắc. Anh nằm nghỉ êm ả trong một yên lặng bao bọc tôi. Khi tôi sắp sửa rời đi, anh nói, “Pupul, tối nay tôi sẽ đi dạo rất lâu trong những hòn núi. Những làn sương đang bốc lên.” Tôi rời phòng của anh mà không quay lại.

 Đêm đó, lúc chín giờ Pacific Standard Time, Krishnaji ngủ, để bắt đầu dạo bộ lâu của anh vào những hòn núi. Những làn sương đang bốc lên, nhưng anh dạo bộ xuyên qua những làn sương và anh đi khỏi.

TẬP II: Ngày bắt đầu dịch: 8:00 ngày 17 tháng 10 năm 2010
Dịch xong: 15:00 ngày 24 tháng 11 năm 2010
 Sửa xong lần cuối: 15:00 ngày 13 tháng 4 năm 2011


[1]Diwali, lễ hội đèn, được tổ chức vào đêm tối nhất trong tháng, bốn tháng sau khi gió mùa chấm dứt và quả đất thức dậy sự sống mới. Nó báo trước công việc gieo hạt và là một lễ hội để cầu khẩn sự hiện diện của Laksmi, nữ thần thịnh vượng. Ngay cả người dân làng nghèo khổ nhất cũng thắp sáng một cây đèn dầu bằng đất sét để cho nữ thần không đi qua mà không vào nhà của ông ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34338)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16871)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22969)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13051)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21962)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22184)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14865)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23574)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24102)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23636)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17142)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19355)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27062)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14421)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13838)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22687)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14739)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17355)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12667)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13863)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10409)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14692)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17198)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12544)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12697)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10356)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28716)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10697)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11130)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16875)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15765)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13340)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12552)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11356)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13027)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19308)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12246)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28604)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10045)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21519)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12789)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17824)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26228)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11705)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10848)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22745)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12035)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10603)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11408)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11525)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant