Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Phụ Trương - Sống Tức Là Tương Quan

28 Tháng Tám 201100:00(Xem: 7127)
17. Phụ Trương - Sống Tức Là Tương Quan

Diệu Nga
DỐC MƠ ĐỒI MỘNG
 Tu Viện Trúc Lâm Canada Xuất Bản PL. 2547 DL. 2003

Sống Tức Là Tương Quan

Tuổi trẻ thường hay chịu ảnh hưởng của bạn bè. Hồi còn nhỏ, tôi rất phục cách sống và lối xử sự của một người bạn thân ở trung học. Chị không làm mích lòng ai, cũng không gây gỗ với ai bao giờ. Chị thường nói với tôi: “Bạn bè, hễ hợp với mình thì mình chơi thân, không hợp thì xã giao bề ngoài, còn đối với người mình ghét thì coi như họ không có mặt trên thế gian này, như vậy khỏi bận tâm”. Tôi áp dụng phương thức đó một thời gian khá lâu nhưng về sau này, khi tuổi đời tăng trưởng và tầm suy nghĩ có chiều sâu hơn, tôi thấy trong phương cách đó có điều gì không ổn. Đối với những người mình ghét, dù mình coi họ như “không” đi nữa thì cũng vẫn phải bận tâm vì họ như thường, chứ nào được an tâm.

Sống là tương quan với tha nhân hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp. Không thể nào có một thái độ dửng dưng, biệt lập. Tôi ghét ông A nào đó thì hình ảnh của ông A đã gây tác động trong tâm tôi rồi, đó cũng là một hình thức tương quan. Hoặc có khi nào bạn lang thang một mình giữa phố xá đông người, tấp nập xe cộ lại qua mà thấy lòng trống vắng, cô đơn? Những khi ấy bạn có thật sự cách biệt với những người không quen biết đang hấp tấp ngược xuôi trên đường phố chăng? 

Xin thưa: không! Bởi vì nếu bạn giữ đúng luật lưu thông, luật đi đường dành cho người đi bộ thì chính bạn đang là giọt nước đang cùng dòng nước chảy xiết một chiều. Trái lại, nếu bạn phạm luật giao thông, gây tai nạn, bạn tạo ra biết bao trở ngại cho những người đang di chuyển chung quanh bạn, đó là sự tương quan rất rõ ràng. Dù có tác động thuận hay nghịch, hoặc dù không thấy có tác động xảy ra đi chăng nữa, thì lúc nào sống cũng có nghĩa là tương quan. Hôm nay tôi muốn cùng quý đạo hữu chia xẻ ý nghĩa của tương quan trong khía cạnh thực tế nhất hầu rút ra một bài học thực tiễn về đời sống để thấy đạo và đời vốn chỉ là một thôi.

Lý tương quan trong đạo Phật, nếu nói đủ, phải là: luật tương quan – tương duyên – tương sinh của vạn hữu. Trên thế gian này, không có cái gì có thể sống riêng rẽ biệt lập mà không dính dáng, liên hệ tới vật khác. Chẳng những sự sự vật vật có liên hệ với nhau một cách mật thiết (tương quan) lại còn phải nương vào nhau để phát sinh (tương sinh) và nương vào nhau để tồn tại (tương duyên). Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái nọ. Sự vật liên hệ với nhau trùng trùng như lưới võng, đan kết chằng chịt với nhau khắn khít đến nỗi nếu chỉ bứt đi một mắt lưới thôi thì cả cái lưới đều rách rời ra cả. Vì vậy nên kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Một là tất cả, tất cả là một” nhằm hiển minh lý “Trùng trùng duyên khởi” hay “Vô tận duyên khởi”.

Đem lý duyên khởi này xét nghiệm trong đời sống của con người, chúng ta sẽ thấy rõ mối quan hệ giữa mình và người rất sâu xa mật thiết và bất cứ điều gì mình gây ra cho người khác đều trở lại tác động vào chính bản thân như tiếng la hét của mình trong hang núi sẽ trở thành tiếng vang dội ngược lại tai mình; như trái banh ném vào tường cũng sẽ dội ngược lại chỗ người vừa ném nó.
Tương tợ như thế, trong gia đình nếu bậc làm cha mẹ biết thương yêu, lo lắng, dạy dỗ cho con cái nên người, thì sự thành công, thành nhân của con cái chẳng những là phần thưởng tinh thần vô cùng quý báu khiến cho mẹ cha được nở mặt nở mày mà các con còn biết hiếu đạo, biết phụng dưỡng mẹ cha. Trái lại nếu cha mẹtrách nhiệm, thờ ơ trong việc giáo dục thì con cái sẽ hoang đàng, bạc bẽo với mẹ cha của chúng. Những gia đình có con nuôi, con ghẻ (cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha) hay con riêng, nếu đứa trẻ không được thương yêu và đối xử bình đẳng với anh chị em của chúng thì không khí trong gia đình sẽ kém vui vì những chuyện xích mích bất hòa. Cho dù đứa trẻ tánh tình hiền lành, không có phản ứng mạnh mẽ gì khi bị ức hiếp nhưng thái độ câm nín chịu đựng lặng lẽ của nó cũng là áng mây mờ che phủ hạnh phúc trong gia đình và làm mọi người cảm thấy buồn bã đến khó chịu.

Thậm chí đến những con vật chúng ta nuôi trong nhà như chó, mèo v.v… nếu chúng ta không thương yêu chăm sóc lại còn đánh đập bạc đãi thì hình vóc tiều tụy và dáng vẻ thiểu não của chúng cũng tạo ra sự ảm đạm trong nhà.

Bên cạnh gia đình là môi trường bằng hữu. Bạn bè thì có kẻ ghét người thương. Đối với người mình mến thích thì dĩ nhiên không có vấn đề đặt ra vì mình sẵn sàng chìu bạn dù phải chịu thua thiệt chút đỉnh. Nhưng đối với kẻ mình không ưa mà cứ phải đối diện hoài (oán tắng hội khổ!) thì quả nhiên mình khó có thể cư xử đẹp với họ. Nhưng thử hỏi, nếu mình chơi xấu với họ thì hậu quả sẽ ra sao? Để trả lời câu hỏi này, tôi xin kể một câu chuyện cổ tích Tây Phương. “Ngày xưa có một anh tiều phu kia lang thang trong rừng để đốn củi. Trong lúc mệt mỏi, chàng ta nằm ngả lưng bên bờ suối. Đang lúc mơ màng nửa thức nửa ngủ bỗng một bà tiên hiện ra. Bà thấy cảnh cùng khổ của anh nên động lòng từ, ban cho anh một điều ước với điều kiện là nếu anh ước gì thì người cừu địch của anh sẻ được gấp đôi cái mà anh có. Điều kiện kỳ lạ này làm anh suy nghĩ, đắn đo. Nếu anh ước giàu có thì tên thợ săn mà anh ghét cay ghét đáng ở cạnh nhà sẽ giàu có gấp đôi; nếu anh ước vợ đẹp thì bà vợ xấu xí hiện nay của hắn sẽ hóa ra xinh đẹp gấp đôi người đẹp của anh; nếu anh ước danh vọng địa vị thì đương nhiên hắn cũng hơn anh và dẫu anh ước tài năng tuyệt xảo đi nữa, thì hắn cũng sẽ giỏi hơn anh… chỉ mới nghĩ thế thôi mà anh đã thấy ức lòng. Thế rồi, trong tâm trạng căm tức đó, anh ước được chột một mắt với hy vọng rằng kẻ thù sẽ đui cả đôi mắt. Buổi chiều, anh lững thững trở về với con mắt chột. Anh cố tình đi ngang qua nhà tên thợ săn để xem hắn có bị mù không? Nhưng hỡi ôi! Đôi mắt hắn vẫn bình thường. Hắn đang giỡn với con chó săn của hắn ở trước sân nhà. Bây giờ anh vừa ngậm ngùi vừa xấu hổác tâm của mình”.
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Ngậm máu phun người, dơ miệng mình”. Khi ta muốn làm điều không phải với ai, thì chính mình bị thiệt hại trước rồi. Vì sao? Vì ác tâm là con rắn độc, nó nằm ngay trong tâm thức của mình làm cho mình phải khổ sở vì lòng sân hận, oán thù và giết hại những chủng tử thiện vốn sẵn có. Nó xúi giục mình làm những việc bất thiện, gieo nghiệp nhân xấu để tự mình phải gánh chịu quả báo tai hại về sau. Cho nên, hại người tức là tự hại mình. Tốt hơn hết là đừng làm những gì mà ta không thích người khác làm cho mình.

Xét rộng hơn, trong môi trường xã hội, sự tương quan giữa mình và người cũng rất dễ thấy, trong sở làm, nếu bạn ghét ông chủ của bạn và sau lưng ông, bạn làm việc tắc trách, tìm cách phá hại ông thì kết quả là sớm muộn gì họ cũng khám phá ra và bạn sẽ bị đuổi việc, có khi còn bị truy tố ra tòa. Hoặc là, nếu sự việc êm thắm hơn, sự phá hoại của bạn không bị phát giác nhưng đã làm ông chủ bị thua lỗ, ông phải đóng cửa xí nghiệp và bạn cũng lâm vào cảnh thất nghiệp thôi. Chủ nhân có vai tròquyền hạn của chủ nhân, nhân viên có bổn phận và quyền lợi của nhân viên. Nếu hai bên biết hợp tác nhau trên tinh thần tương thân tương trợ thì mọi việc sẽ tốt đẹp vô cùng. Kinh nghiệm này, người xưa cũng đã phải trải qua nên đã dạy rằng: “Ăn cây nào, rào cây ấy” là vì vậy.
Những lúc đến siêu thị để mua thức ăn, có bao giờ bạn quan sát cách lựa hàng của người đi mua không? Người đi mua, ai cũng muốn chọn những trái cây, rau cải thật tươi ngon, không bị bầm dập hư hại; nhưng tiếc thay, có một số người đã xốc xáo tìm lựa một cách rất “phũ phàng” đối với rau cải, trái cây là những thứ lẽ ra mình phải rất nhẹ nhàng, tưng tiu khi cầm đến. Họ làm hư hại như vậy chính là tự họ đã nâng cao giá hàng lên mà họ không hay vì chủ tiệm buôn nào cũng phải tính “tỉ lệ hư hao” của từng loại hàng để định giá bán. Mặt hàng nào bị hư hại nhiều thì giá bán phải cao hơn để tránh sự lỗ lã.

Sống trong xã hội, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến chính mình mà dửng dưng với kẻ chung quanh thì thái độ ích kỷ dửng dưng ấy sẽ gây tác hại cho mình không ít.
Người hàng xóm mà ta không có cảm tình vừa bị trộm. Tên trộm ấy, trong đêm qua, vô tình ta đã nhìn thấy nhưng ta cũng phớt lờ đi cho bõ ghét thay vì ta điện thoại cho cảnh sát hay. Kết quả là vài tuần sau, ta cũng bị trộm trong lúc ngủ say. Vì sao? Vì tên trộm thấy khu vực này làm ăn quá dễ dàng, lối xóm láng giềng không có tinh thần đoàn kết, tương thân.

Ở đâu không có sự mở rộng tương quan, ở đó có bế tắc vì tương quan là mạch điện của đời sống, của tình thương. Tương quan luôn luôn có hai chiều, trong đó chủ thể và đối tượng thể hiệnBất Nhị một cách rõ ràng. Bồ tát (chủ thể) là bậc hữu tình giác ngộ, phát khởi tâm Đại Bi, lăn lội vào chốn trần gian đầy khổ lụy để cứu giúp và hóa độ chúng sanh (đối tượng). Chúng sanh nhận chịu sự giúp đỡ, cứu độ nhưng đồng thời chúng sanh lại là ân nhân (đối tượng trở thành chủ thể), là ruộng phước giúp đỡ Bồ Tát (chủ thể trở thành đối tượng) có môi trường thích hợp để hoàn thành Bồ Tát đạo. Bởi vì nếu khôngchúng sanh mê muội đang lặn ngụp trong bể khổ trầm luân thì Bồ Tát không thể thực hiện lòng từ bi. Nhờ thực hiện lòng từ bi, tìm phương giúp người mà tâm từ ngày càng mở rộng. Phương Tiện Trí ngày càng nảy nở khiến cho Phước Trí tròn đầy, trở thành bậc Lưỡng Túc Tôn.

Giúp người tức là giúp mình. Thấy rõ điều đó, hành giả phá được hàng rào ngăn cách giữa mình và người. Phá vỡ sự cách biệt giữa mình và người thì tâm hồn trở nên rộng rãi biết bao và đời sống vui vẻ biết bao vì bây giờ không còn có ai đáng để dành cho “tình cảm đặc biệt” nên không gieo trồng tham ái, si mê; không có ai để oán ghét nên lòng thảnh thơi không cừu hận.

Tương quan là một định luật của đời sống, xã hội cũng như những định luật khoa học thiên nhiên. Nếu hiểu rõdiệu dụng được cái định luật này, chúng ta sẽ tạo ra muôn vàn lợi ích, còn như đi ngược lại với định luật, chúng ta chẳng những tự chuốc lấy khổ đau mà còn tác hại đến bao nhiêu người khác. Diệu dụng lý tương quan ở mức độ cao tức là thể hiện tinh thần bình đẳng và lòng thương yêu. Không còn có thái độ chấp ngã để tự thấy mình đáng quý, đáng trọng hơn hết; “cái tôi” bây giờ đã được hòa dung với tất cả chúng sanh nên Bồ Tát mới “bịnh vì chúng sanh bịnh” và dám xả thân cứu khổ muôn loài chỉ vì một lý do đơn giản: “thương người như thể thương thân”. Vì thương người như thể thương thân nên cứu độ mà không thấy có chúng sanh mình đang độ, làm trăm công ngàn việc mà không thấy mình có làm; không có người thi ân cũng không có kẻ thọ ân. Hành động cứu giúp của Bồ Tát tự nhiên như mặt trời thường chiếu sáng, như hoa nở điểm tô cho đời, như gió mát trăng thanh. Dù người đón nhận hay hững hờ, bản tính và hành động của Bồ Tát vẫn là như vậy.

Chỉ khi nào sống với tinh thần tương quan rộng rãi và sâu sắc như thế, chúng ta mới thực hiện được tam tự qui y:
- Tự qui y Phật vì đã trở về với tự tánh Giác Ngộ, không còn mê chấp, vô minh.
- Tự qui y Pháp vì đã thấu rõ chân lý vi diệu của pháp giới trùng trùng duyên khởi, trong đó mình và người vốn không hai, không khác.
- Tự qui y Tăng vì đã hòa hợp được với tất cả chúng sanh nên tất cả đều trở thành vô ngại.
Khi ấy thì tuy sống trong cảnh đời đầy phiền não mà tâm đã được giải thoát. Bước đi trong cõi Ta Bà uế trược mà như dạo chốn vườn hoa, thấy đất đai bằng phẳng không có núi cao chắn chở, không có hầm hố ngăn ngại. Với phong cách thong dong tự tại và đầy an lạc như thế, hành giả trở thành một đóa hoa vô ưu thơm ngát hương vị giải thoát đem đến cho người muôn vàn lợi ích an vui.
Như thế, khi thấu rõ chân lý của vũ trụ nhân sinhthể hiện chân lý ấy vào cuộc sống tức là đem đạo vào đời, biến cõi trần ai đầy khổ lụy này thành xứ sở An Lạc

Đạo không phải là cái gì huyền bí xa vời tách rời khỏi cuộc sống. Đạo phát xuất từ cuộc đời. Ngày xưa, sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ Đề, đức Phật tỏ ngộ chân lý chứ không phải ngài phát minh ra chân lý. Chân lý vốn tự nó là như vậy, xưa nay vẫn thế, không phải do ai bày vẽ hay sắp đặt ra nó. Những gì đức Phật thuyết giảng trong hơn 49 năm hoằng pháp độ sanh, có lúc cao có lúc thấp, khi thuyết hữu vi, khi nói vô vi, khi giảng về nhân quả, rồi khổ, không, vô thường, vô ngã, lúc thuyết Tứ Đế, nhân duyên, khi lập hội Bát Nhã, hội Hoa Nghiêm v.v… nhưng tất cả những điều ngài nói đều phát xuất từ một nguồn gốc duy nhấtNhư Thị (nói thật, đúng y như thật). Cũng vì lẽ đó mà ngài đã bảo rằng: “Trong bốn mươi chín năm thuyết pháp, ta chưa từng động đôi môi”. Những điều ngài nói ra nào có chi mới lạ, nào phải là triết thuyết của riêng ngài. Nó có đấy từ bao giờ, từ vô thủy đến vô chung cho nên nói mà như không nói vì “đạo khả đạo phi thường đạo” (đạo mà có thể nói ra thì không phải là đạo vậy).

Đạo ở nơi thân tâm, ở trong đời sống, ở khắp cả các pháp nhưng tiếc thay chúng ta cứ mãi hiệp trần bội giác (chạy theo trần cảnh, quên điều giác ngộ) nên sự suy nghĩ và hành động thường sái quấy đến nỗi phải lưu lạc trôi nổi mãi trong biển sinh tử luân hồi. Bởi thế cho nên nhân loại rất cần những bậc người giác ngộ có lòng Đại Bi làm bậc đạo sư dẫn dắt cho người biết đường đi nẻo về nơi trụ xứ Thường An Lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3946)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3119)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7060)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5654)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3968)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3097)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12175)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5140)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3875)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9169)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7450)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27135)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5931)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5643)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6157)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5699)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5501)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7842)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4782)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12177)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21877)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6526)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7476)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6751)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6306)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8584)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6109)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5714)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14279)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20295)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6935)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6859)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6414)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6508)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6034)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7438)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7414)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8558)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6493)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6885)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10509)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19911)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30238)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16236)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19660)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11071)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14378)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7789)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10495)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7948)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant