Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tĩnh Sơn Thiền Tự

28 Tháng Tám 201100:00(Xem: 5979)
2. Tĩnh Sơn Thiền Tự

TÂM HƯƠNG TẢI ĐẠO
Tuyển tập truyện ngắn thắp lên tinh thần Đạo Giác Ngộ giữa chốn vô minh
Gió Đông xuất bản 2002
Linh Linh Ngọc

TĨNH SƠN THIỀN TỰ

Hai thầy trò tới thị xã Pleiku thì nắng chiều đã nhạt. Vị sư gìa bảo chú tiểu:

-Chắc ta phải tìm chỗ trọ đêm nay, mai mới lên núi kịp.

Chú tiểu vòng tay thưa:

-Bạch thầy, chắc phải vậy.

Quanh co phố chợ, hai thầy trò mua được hai gói xôi, mấy củ khoai luộc và một lọ tương chao. Nơi nghỉ đêm là khu chợ lồng. Sau khi dẹp chợ, chủ xạp sẽ căng ghế bố cho những khách nghèo, lỡ đường, tạm nghỉ chân. Chính tại khách sạn tập thể này mọi người đều cảm thấy thoải mái, an toàn vì những người đã phải tới đây trọ là chẳng còn gì để lo bị cướp bóc. Những chàng đạo chích cũng biết rõ như thế.

Dùng xong bữa tối đạm bạc, chú tiểu mở tay nải, lấy ra một chiếc mền cũ trải lên ghế bố cho thầy. Còn chú, có chiếc aó dạ rộng thùng thình và tấm khăn lông cuộn lại làm gối là đã đủ tươm tất. Hai thầy trò ngồi xếp bằng, chắp tay, lầm rầm niệm Phật. Những khách trọ xung quanh đang ba hoa chuyện vãn, bỗng bị lôi cuốn bởi sự trang nghiêm của hai thầy trò. Họ im lặng. Và tiếng niệm Phật nghe được loáng thoáng: “ ...Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp tất cả. Đệ tửchúng sanh. Đều trọn thành Phật đạo ...”.

Đợi dứt tiếng tụng niệm, một người hỏi:

-Bạch thầy, thầy hành hương ở đâu mà tới nơi này ?

-Mô Phật, chúng tôi muốn tìm thăm sư cụ trên núi Chu Pao. Đường còn xa, sợ không tới kịp trước khi trời tối nên phải nghỉ tạm đây đêm nay.

Nghe thế, một người khác aí ngại:

-Nếu là Sư cụ Tuệ-Không thì Ngài đã viên tịch năm ngoái rồi, hình như chẳng còn ai trên chùa nữa.

-Mô Phật, thế là không kịp rồi. Chúng tôi nghe tin Ngài lâm bệnh, mà đường xá xa xôi, phương tiện eo hẹp qúa, nay mới lặn lội tới được thì đã muộn ...

Chú tiểu nâng vạt aó chậm nước mắt ...

Có người góp chuyện:

-Thời buổi này chùa miếu cũng hoang lạnh thôi. Phật tử có còn lòng mộ đạo cũng chả mấy ai có khả năng cúng dường. Qúi tăng ni vẫn dốc lòng thờ Phật phải là can đảm lắm !.

Vị sư gìa nói với chú tiểu, nhưng chắc là cũng muốn dăm người nghe thấy:

-Chúng ta đã tới được đây rồi, dù sư cụ không còn, mai ta cũng phải lên núi tìm mộ Người mà thắp nhang khấn lậy.

-Bạch thầy, đành phải thế.

Núi Chu-Pao nằm giữa Pleiku và Kontum.

Sáng hôm sau, khi đã ra khỏi thị xã, hai thầy trò bỗng thân mật hơn.

-Tin tức anh em cho, chắc đúng đó con. Sư cụ Tĩnh-Sơn thiền tự đã viên tịch, chuà bỏ hoang, đồng bào chạy ăn từng bữa, ai còn nghĩ đến chuyện trùng tu, hương khói nữa.

-Vâng, thưa cha, chúng ta sẽ theo đúng kế hoạch.

-Cha chỉ e cực nhọc qúa cho con.

-Cha ơi, chúng ta còn gì nữa đâu ngoài thù nhà nợ nước. Cha đã quyết, con một lòng theo. Cha con ta đã hẹn gặp mẹ và anh con bằng con đường phục hận này. Chúng ta may mắn còn có anh em trong tổ chức, một lòng một dạ với nhau. Những tin tức và mọi sắp xếp của anh em trong công tác này đỡ nhiều vất vả cho cha con ta lắm. Chúng ta nhất định phải hoàn thành tốt đẹp.

-Được, chúng ta đi cho mau. Khi gặp được anh chàng A Khan sẽ tùy cơ ứng biến.

Mặt trời chưa qua khỏi ngọn sao, hai thầy trò đã thấy bóng núi Chu Pao sừng sững. Từ đây, họ ít gặp người Kinh, ít phải chắp tay đáp lễ “mô Phật”. Con đường đất ghồ ghề càng lúc càng thu nhỏ lại thành đường đá lởm chởm. Đôi lúc, chú tiểu mất thăng bằng, suýt ngã chúi. Nhưng chú cười tươi ngay, dậm dậm đôi dép da trâu mà nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi ...”.

Những người Thượng vác gùi, từ những buôn Mường Bang, Mường Lát đi vào những cánh rừng hai bên. Họ đi đào bắp, kiếm nấm và củi khô. Họ nhìn hai thầy trò, cái nhìn hiền lành nhưng dửng dưng ...

Như đã biết rõ điểm tới, hai thầy trò cứ đi, không hỏi han ai cả.

Qua bãi Nứa, tới dốc Vọi, cả hai cùng dừng lại. Qủa như lời dặn, nhìn lên con dốc thẳm, họ đã thấy căn nhà sàn lợp lá gồi nằm cheo leo giữa những ngạc tre. Đó là nhà A Khan,người tộc trưởng khu tam giác cao nguyên mà hai thầy trò sẽ tới gặp. 
 
Một già, một trẻ nhìn nhau, cùng khẽ gật đầu rồi tiến vào lối dốc. Mới tới nửa con dốc, nghe chừng, hai người đã mệt lắm, thì chợt nghe tiếng nói sau lưng:

-Ông thầy đi tìm ai ?

Cả hai quay lại nhìn. Dưới ánh nắng rực rỡ, một người đàn ông miền núi, da nâu sậm, dáng khỏe mạnh, vạm vỡ, tay cầm chiếc rựa sáng loáng, chăm chú nhìn hai thầy trò. Thay vì trả lời, vị sư già mừng rỡ:

-Ông nói được tiếng Kinh, thật là may quá, may quá !

Chú tiểu đỡ lời:

-Chúng tôi muốn hỏi thăm ông tộc trưởng.

Người đàn ông chăm chăm nhìn hai thầy trò, ý dò xét. Biết thế, vị sư già vội nói:

-Chúng tôi từ dưới đồng bằng lên đây tìm thăm sư cụ trên núi Chu Pao, nhưng mới tới phố chợ đã nghe nói sư cụ viên tịch năm ngoái rồi. Chúng tôi muốn gặp ông tộc trưởng để hỏi xem có còn ai trên chùa không.

Người đàn ông nhìn vẻ nghèo nàn nhưng lương thiện của hai thầy trò, dáng chừng đã tin. Ông ta nói:

-Không còn ai cả đâu. Từ ngày ông thầy trên núi chết, không thấy có người Kinh đi ngang đây để lên chùa nữa. Chùa bỏ hoang rồi.

Vị sư già bỗng ngồi bệt xuống , dáng vẻ đầy buồn rầu, thất vọng. Chú tiểu ngồi xuống theo, cầm lấy tay thầy:

-Thầy trò ta chắc là cùng đường rồi. Ở thành phố thì bị đuổi khỏi chùa, lặn lội lên đây nương nhờ thì sư cụ không còn nữa ...

-Sao ông thầy lại bị đuổi khỏi chùa ?

-Nhà nước nói,cần chỗ ở cho cán bộ nên chia chùa thành nhiều hộ. Nhà chùa được chia một diện tích vừa đủ kê một giường, một tủ thì tụng niệm cúng bái làm sao được. Đó chỉ là cách nói để họ chiếm chùa mà thôi.

Trong khi vị sư nói, chú tiểu kín đáo quan sát người đàn ông miền núi mà chú biết chắc đó là A Khan. Điều thật bất ngờ mà chú đang cố kìm giữ là chính người đàn ông này, mười năm trước đây đã giúp mẹ con chú trên đường đi tìm xác anh của chú, đã chết trong trại tù Cộng Sản. Sự can đảm của người lính Thượng đã làm chú cảm phục. Anh đã dám lén lút dẫn mẹ con chú đến bìa rừng Gia Lai, nơi những nấm mồ được vùi nông không bia mộ. Anh ta nói, biết nơi chôn anh Tân vì anh ta chính là một, trong hai người đồng tù mà bọn quản giáo Cộng Sản đã chỉ định, mang xác anh Tân đi chôn. Ngày đó, tuy mới mười tuổi nhưng chú vẫn nhớ những nét khắc khổ trên gương mặt người lính Thượng. Đặc biệt là chiếc thẹo dài trên tay phải bên vết xâm hình đầu rồng còn rõ kia.

Chú tiểu cố dấu xúc động, nói ngay vào kế hoạch đã vạch:

-Chúng tôi chẳng còn đâu nương tựa nữa. Nếu chùa trên núi bỏ hoang, chúng tôi có thể lên đó tu hành hay không ?. Làm sao gặp được ông tộc trưởng để hỏi ?

-Ở thì được, nhưng làm sao sống ? Ông thầy ngày xưa còn có Phật tử nuôi. Nay, ai cũng đói cả.

Vị sư vội nói:

-Ban ngày chúng tôi cũng vào rừng kiếm củi, đổi lấy gạo muối, tối về mới tụng Kinh niệm Phật. Thế, chúng tôi có phải trình báo công an phường dưới phố hoặc là ...gặp ông tộc trưởng để xin phép không ?.
Người đàn ông nhìn hai thầy trò đăm đăm rồi nói chậm:

-Tôi là tộc trưởng đây. Ông thầy cứ lên đó mà tu. Công an nhà nước chỉ cần chiếm đất đai mầu mỡ ngoài kia chứ chẳng vào tận trong buôn mà làm gì.

Chú tiểu làm vẻ ngạc nhiên:

-Mô Phật, ông là tộc trưởng ư ?. Thế thì may qúa, cám ơn ông. Ông vừa nói, họ chiếm đất. Thế đồng bào miền núi trồng trọt ở đâu ?.

-Làm gì có đất nữa mà trồng trọt. Cà phê đang xanh, bắp đã gieo hạt, họ ào tới, nói, lệnh trung ương phải giải tỏa trong kế hoạch chỉnh trang. Thế là họ đuổi dân thiểu số vào tận chân núi. Hết đất, hết ruộng vườn, chỉ còn đi kiếm củi, làm sao đủ ăn !.

-Mô Phật, thế ..ông tộc trưởng ...tính sao ?.

Câu trả lời, ngoài sự chờ đợi của hai thầy trò:

-Phải đòi lại chứ sao !. Đất đai là sự sống, ai cướp đất là cướp đi sự sống của mình. Không đòi lại là mình đành chịu chết hả ?.

-Nhưng ...nhà nước ra lệnh thì công an thi hành, làm sao đòi được hả ông tộc trưởng?.

-Cũng phải tìm cách chứ. Mà ông thầy biết đường lên chùa không ? Đi theo chân núi này mươi phút sẽ thấy lối mòn, cứ đó mà leo lên. 
 
A Khan vừa nói, vừa dợm bước đi, như không muốn bàn thêm chuyện đất đai. Bóng anh nghiêng nghiêng theo triền dốc lấp lánh nắng vàng ...

Đường lên Tĩnh Sơn thiền tự quanh co, khúc khuỷu. Chú tiểu vừa bước theo vị sư, vừa nói trong nước mắt:

-Cha ơi, A Khan chính là người ơn mà mẹ đã kể với cha khi cha đi tù về. Không có sự giúp đỡ của A Khan, chắc chẳng bao giờ tìm được mộ anh Tân con.

Vị sư sửng sốt:

-Thật vậy sao con ?. Chính A Khan là người lính Thượng tốt bụng, can đảm mà mẹ và con vẫn nói đó ư ?. Vậy chắc là mẹ và anh con khôn thiêng đã run rủi cha con ta nhận lãnh công tác này để có dịp trả ơn đây.

Chú tiểu không nói gì nữa, vừa leo dốc, vừa thút thít khóc. Vị sư nắm lấy tay chú, thúc giục đi mau, như để khỏa lấp những đau đớn cũng chỉ trực trào ra thành lệ nóng ...

Chùa đây rồi. Điêu tàn, xiêu vẹo qúa, nhưng may mắn, vẫn còn mái che, còn vách dựng, còn tượng Phật bằng xi măng đặt trên bệ gạch thô. Chùa chỉ có hai gian, một gian thờ Phật, một gian ngăn đôi, phía trước là bếp núc, phía sau là chỗ ngủ. Đơn sơ quá !. Nhưng đối với hai cha con thì nơi này thật lý tưởng để lo nhiệm vụ.

Hai cha con ?.

Đúng vậy. Họ là hai cha con trong tổ chức kháng chiến phục quốc. Họ phải ngụy trang làm người tu hành tới đây để nắm vững tình hình cao nguyên rồi tùy cơ ứng biến mà tiếp tay sắc tộc thiểu số đòi lại đất đai mà bạo quyền Cộng Sản đã chiếm đoạt dần dần từ nhiều năm qua.

Nay, theo sự điều tra của tổ chức thì sự uất hận của đồng bào thiểu số đã lên đến cao điểm. Củi và nấm trong rừng cũng đã khan hiếm, không còn kiếm đủ để sống lây lất qua ngày nữa. Cùng tất biến. Khi con người không còn gì để mất chính là lúc họ không còn gì để sợ. Và, khi không còn gì để sợ là lúc họ sẽ vùng dậy, đòi lại những gì bị cướp đoạt.

Hai cha con được tổ chức chỉ định tới đây vì ngày trước, người cha - Thượng sỹ Nguyễn văn Nam - thuộc Trung đoàn 53 Bộ Binh, là đơn vị đã chiến đấu anh dũng, can trường thêm suốt một tuần lễ sau khi Ban Mê thuộc thất thủ. Vì từng ở nơi này nên ông Nam rất rành địa đạo khu tam giác cao nguyên. Nơi đây, đối với ông cũng thiêng liêng như nơi ra đời, vì chính nơi đất đỏ này, ông đã thực sự đóng góp máu xương để bảo vệ Tự Do. Làm sao ông có thể quên được cái ngày dài nhất của Trung đoàn 53 Bộ binh, ngày 17 tháng 3 năm 1975 tại mặt trận phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột 8 cây số về phía đông. Ở chiến trường khốc liệt đó, mỗi người lính đã phải tự biến mình thành một pháo đài và chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất trong lịch sử quân đội thế giới !. Họ đã chiến đấu ngày đêm, không tiếp viện, không tải thương, không đủ lương thực !. Vậy mà họ không đầu hàng

Họ đã chọn lựa rồi.

Và điều đó đã tới lúc 11 giờ 30 sáng ngày 17-3-75.

Sau trận mưa bom và pháo của Cộng Sản Việt Nam, thân xác những chiến sỹ anh dũng của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đã tan ra từng mảnh, hoà vào đất đỏ Cao nguyên, tan vào đất Mẹ Việt Nam !!!...

Thượng sỹ Nam sống sót sau trận mưa bom đó, như một sự huyền bí không thể hiểu nổi. Với thân thể đầy thương tích, ông tỉnh dậy khi cơn mưa chợt rào rạt đổ xuống rừng đêm. Ngay khi tỉnh dậy, ông đã hiểu rằng, ông sống sót là để chờ ngày hoàn tất trách nhiệm mà bao đồng đội của ông đã ngậm ngùi bỏ dở ..... 

Bao nhiêu hình ảnh cũ chập chờn trong ký ức khiến ông Nam không thể ngủ. Ông nằm chờ sáng, chờ bóng trăng rừng chếch trên sườn núi, chờ tiếng chim quyên gọi bạn tìm mồi, chờ nắng, chờ gío, chờ sự sống trên miền đất chết ...

Trời còn mờ sương, ông Nam đã ra khỏi chùa.

Ông đã tìm thấy những lá đạm trúc diệp mà ông biết rằng hái đọt và lá mang luộc, có thể ăn được. Loại này tựa như rau dệu ở đồng bằng.Lưng chừng núi, ông Nam còn tìm thấy những cây nhỏ, lá có 3 khía rất giống cỏ chân vịt mà dân quê nghèo, hái luộc, rắc muối lên, ăn như rau lang.

Thế này là Phật độ đây, hai cha con đã có ít chất tươi rồi...

-Ông thầy hái gì đó ?

Từ dưới chân núi, A Khan đeo gùi, vác rựa đi lên.

-Chào ông tộc trưởng. Tôi thức sớm, dạo quanh thì tìm thấy những loại rau này, có phải luộc lên, ăn được không ?.

A Khan lên tới. Anh lấy trong gùi một bọc to, vừa đưa cho ông Nam, vừa nói:

-Rau này lành, ăn được, nhưng khi đói lắm mới phải ăn vì chẳng ngon gì đâu. Còn đây, tôi biếu ông thầy mấy củ khoai và ít đọt măng. Nhân thể, tôi lên xem chùa có bị hư dột chỗ nào thì tôi sửa cho.

Vừa nói, A Khan vừa xăm xăm đi lên.

Hốt hoảng, ông Nam buột miệng, ngăn:

-Ấy, ấy ...đừng lên !.

A Khan quay lại, ngạc nhiên:

-Sao vậy ?.

-Là vì ...chúng tôi mới tới, không dám làm phiền ông tộc trưởng.

A Khan quay lưng, đi tiếp, cười lớn:

-Mới tới tôi mới phải giúp, ở lâu rồi thì ông thầy lo liệu lấy.

Không ngăn được, ông Nam nói lớn khi hai người lên tới cổng chùa, như thể muốn báo cho chú tiểu biết:
-Có ông tộc trưởng lên chơi.

Nhưng không kịp nữa !.

Bên hiên chùa, một thiếu nữ xinh tươi trong bộ áo lụa mềm mầu hoa cà, đang đứng hong tóc. Nàng như vừa tắm dưới suối lên, toàn thân toát ra vẻ tươi mát tinh khôi, những ngón tay mềm mại lùa trong mái tóc buông dài, long lanh ướt.

Cả ba người cùng sửng sốt, đứng lặng, nhìn nhau.

Ông Nam lên tiếng trước:

-Ông tộc trưởng ...

A Khan ngắt lời:

-Chuyện của ông thầy, tôi không cần biết, nhưng sao ông thầy phải nói dối ?. Lên núi ở với gái sao nói lên chùa tu ?

Lúc này, thiếu nữ là người bình tĩnh hơn cả. Sự bí mật lộ ra hơi sớm nhưng nàng như biết rằng không thể trì hoãn. Đưa mắt nhìn ông Nam và nhận được sự đồng thuận. Nàng chậm rãi tiến đến trước mặt A Khan. Hai tay khoanh trước ngực, nàng nhìn A Khan:

-Anh không nhận ra tôi ư ?

A Khan lùi một bước, nhíu mày, rồi lắc đầu.

Tinh quái, thiếu nữ tiến thêm một bước:

-Anh nhìn kỹ chút nữa xem, anh thực không nhận ra tôi ư ?

A Khan có vẻ không mấy thích trò đùa này. Anh dợm bước đi, miệng nói:

-Không, tôi không biết mấy người.

-Người làm ơn thường ít nhớ người chịu ơn nhưng người chịu ơn thì thường khó quên người đã làm ơn cho mình. Mười năm trước anh đã giúp hai mẹ con tôi tìm được mộ anh tôi là thiếu úy Nguyễn văn Tân.
Giọng người thiếu nữ trầm buồn nhưng có sức mạnh như cơn lốc khiến cả thân hình lực lưỡng của người đàn ông miền núi bị chao đảo, tưởng như sắp ngã. Anh ta quay phắt lại, mở lớn mắt, hết nhìn ông Nam, lại nhìn thiếu nữ.

Ông Nam biết, đã đến lúc phải nói rõ hơn:

-Tôi là Thượng sỹ Nguyễn Văn Nam, cha của thiếu úy Nguyễn văn Tân. Còn đây là Lan Anh, con gái tôi. Ngày tôi còn ở tù, nó và mẹ nó đi tìm xác Tân thì được tộc trưởng giúp đỡ, bây giờ mới nói được lời cám ơn ...

Ông Nam nghẹn lời. Lan Anh nấc nhẹ.

A Khan vừa kinh ngạc, vừa cảm động, ấp úng mãi:

-Tôi cùng đơn vị với thiếu úy, lại ở tù cùng trại, thương nhau như anh em. Ông thầy, à,...ông bác và cô em lên đây làm gì, sao phải gỉa dạng thầy tu, chú tiểu vậy ?.

-Chúng ta còn nhiều chuyện quan trọng phải bàn. Con vừa nấu được ấm nước vối, cha mời tộc trưởng vào chùa. Sẵn khoai ông tộc trưởng cho đây con đem luộc làm tiệc nhé !.

-Cô đừng gọi tôi là tộc trưởng nữa, tôi như ...anh Tân của cô thôi. Ông bác đây cũng như ...cha tôi vì ...tôi cũng chẳng còn ai cả ...

Bữa tiệc khoai lang nước vối, kết chặt ba người trong thâm tình đồng chí. Há chi phải chích máu, uống rượu ăn thề ở Vườn Đào !.

Mỗi tuần một lần, hai cha con ông Nam lại xuống phố chợ, chờ nhận tin tức anh em trong tổ chức, cũng như báo cáo những diễn biến về tình trạng của đồng bào thiểu số. Hôm nay ông xuống chợ để nhận vải và sơn mà ông đã xin tổ chức lo cho từ lần trước. Cuộc biểu tình sắp tới phải có một số biểu ngữ rõ ràng viết bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Trẻ em bán thuốc lá, đánh giầy, trong các thành phố đã nhận chỉ thị. Chúng thường la cà trước các quán ăn, các khách sạn, bám theo khách ngoại quốc, mời hàng. Đó là những sinh hoạt hàng ngày, chẳng có chi bất thường. Bằng thứ ngôn ngữ pha trộn nửa Việt, nửa Mỹ, những phóng viên ngoại quốc sục sạo săn tin đó đây đã qúa quen với chúng và hiểu được chúng dễ dàng. Họ cũng đầy kinh nghiệm để biết rằng “ngày N, giờ G, địa điểm XYZ” không phải sẽ xẩy ra ngay. Họ biết lượng định, nghe ngóng và chờ đợi.

Nhưng công an thành phố thì không có được kinh nghiệm đó !.

Khi nơi chợ búa có tiếng xì xào về cuộc biểu tình vĩ đại của sắc dân thiểu số sẽ cùng nổi dậy trên khắp miền cao nguyên thì bọn công an cũng mở mắt, vểnh tai. Nhưng chúng chẳng thấy gì ngoài những người Thượng gìa nua, thất thểu đeo gùi vào rừng kiếm củi, lầm lũi như những người câm điếc. Đám người ấy mà dám biểu tình thì quả là điều khôi hài lớn !.

A Khan rất khâm phục tổ chức kháng chiến đã sắp đặt kế hoạch rõ ràng từng bước như thế. Quả là họ đã đánh lừa được bọn công an. Chúng chẳng thấy gì để báo cáo lên cấp trên. Những người dân thiểu số mà chúng nhìn thấy hàng ngày là những người mà A Khan chỉ định, có nhiệm vụ phải để bọn công an nhìn thấy sự nhu nhược, sợ sệt, yếu đuối. Đám dân đói khổ, bần cùng đó cũng chính là những liên lạc viên, mượn cớ lang thang kiếm lương thực để đưa tin tức tới các buôn, làng.

Lâu nay, một số dân đeo gùi vào rừng không phải để kiếm củi, kiếm măng nữa. Họ chăm chỉ tìm những lá tre, lá chuối không rách, lau sạch sẽ rồi mang lên Tĩnh Sơn thiền tự. Ở đó, hai cha con ông Nam cùng một số anh em trong tổ chức kháng chiến, ngày đêm cặm cụi biến những lá tre lá chuối đó thành những biểu ngữ cầm tay. Thanh niên thì được A Khan chỉ định đi chặt trúc, cột vào lá làm cán. Mỗi đồng bào hiện diện phải có ít nhất một biểu ngữ cầm tay vì mỗi biểu ngữ là một lời tố cáo tội ác Cộng Sản, mỗi biểu ngữ là một lời đòi hỏi nhân quyền.

Sức mạnh của cuộc biểu tình là số đông người tham dựbiểu ngữ.

Hai điều đó họ đã có.

Hai điều đó, trước ống kính các phóng viên ngoại quốc sẽ biến thành những viên đạn tầm xa mà sức mạnh thì khôn lường.

Mọi diễn biến đều diễn ra đúng như kế hoạch. Những sinh hoạt linh động trên Tĩnh Sơn thiền tự được bảo mật an toàn nhờ toán canh phòng của A Khan dưới chân núi. Đêm nay, họ cùng duyệt lại từng chi tiết trước khi chính thức phát lệnh tổng khởi động.

Củi khô được gom lại rồi đốt lên cho ấm.

Dưới ánh lửa bập bùng, họ nhìn nhau mà như nhìn thấy khí thế cuộc biểu dương sức mạnh của người dân bị áp bức. Trùng trùng điệp điệp những thân trúc giơ cao, vang dội tiếng gào thét của lá. Muôn ống kính rọi vào. Trúc và lá biến thành muôn giòng phún thạch hừng hực đổ xuống từ miệng núi lửa bị đè kín bao năm.

Khi lòng dân đã đầy, không gì ngăn được.

Riêng A Khan, anh không chỉ nhìn thấy lửa cách mạng bừng bừng đó. Anh còn nghe thấy tiếng suối róc rách, tiếng bước nhẩy xạc xào trên lá của bầy hoẵng hoang. Và mơ màng thấy người thiếu nữ áo lụa mầu hoa cà, hóa thân thành cô sơn nữ diễm lệ, đeo gùi, thơ thẩn tìm những giỏ lan hiếm qúi trong cánh rừng xanh rộn rã chim muông ....
 
Linh Linh Ngọc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34361)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16872)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22971)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13053)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22187)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23585)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24112)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17146)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27071)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13844)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12681)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13871)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14708)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17200)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12711)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10365)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10704)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16881)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15774)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13343)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12557)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11361)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13031)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19313)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28610)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10053)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12795)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17826)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26237)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11708)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10853)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22749)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12039)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11411)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11527)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant