Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Áo Sĩ Phu

28 Tháng Tám 201100:00(Xem: 6056)
6. Áo Sĩ Phu

TÂM HƯƠNG TẢI ĐẠO
Tuyển tập truyện ngắn thắp lên tinh thần Đạo Giác Ngộ giữa chốn vô minh
Gió Đông xuất bản 2002
Linh Linh Ngọc

ÁO SĨ PHU

Đó là mùa hè năm Ất Mão 1915.

Mọi sinh hoạt trong Điện Kiến Trung vẫn như thường nhật. Sau khi dùng điểm tâm, Hoàng-đế Duy Tân dạo quanh đầm Hậu Hồ chốc lát, nhìn đàn chim bay, ngắm hoa sen nở trước khi về thư phòng bắt đầu hai chương trình học Hán văn và Việt văn với hai ông phụ đạo Mai Khắc Đôn và Huỳnh Côn. Tuy mới mười lăm tuổi nhưng Hoàng- đế luôn nghiêm túc trong việc văn ôn võ luyện. Chỉ những giờ học tiếng Pháp với ông giáo Eberhardt hoặc Arard là lính hầu mới có dịp thỉnh thoảng thấy đôi chút cử chỉ hoặc lời nói bất thường của Ngài mà thôi. Như buổi chiều nay chẳng hạn. Khi giáo sư Arard bước vào phòng học thì thấy vua Duy-Tân ngồi yên lặng trước án thư, hai tay chống cằm và những sách tiếng Pháp vứt la liệt trên nền nhà.

Không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, giáo sư nói:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, đã đến giờ học, xin Hoàng-thượng nhặt sách lên.

Vẫn ngồi yên, vua Duy-Tân nhìn giáo sư Arard và cao giọng:

-Ta không nhặt. Ta là Vua. Chính thầy phải nhặt.

Rất trầm tĩnh, giáo sư Arard nói:

-Muôn tâu, Hoàng-thượng thừa biết rằng Hoàng-thượng là người phải nhặt. Hoàng- thượng cũng còn biết rằng, ngay bây giờ, nếu tôi bước ra khỏi phòng này, tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Cơn giông bão trong lòng vị Hoàng-đế trẻ dịu dần lại. Giáo sư Arard là một ông thầy uyên bác, điềm đạm, tận tâm mà nhà vua rất qúi mến. Làm sao có thể trút sự tức giận các quan Thượng-thư của triều đình lên ông thầy khả kính này ?. 

Bằng cử chỉ phục thiện, nhà vua đứng dậy, lẳng lặng nhặt hết sách rải rác khắp phòng, đặt ngay ngắn trên bàn rồi đến trước giáo sư, nhà vua nói:

-Xin thầy tha lỗi. Nào, chúng ta bắt đầu buổi học được rồi chứ ?.

Giáo sư Arard mỉm cười và rất hài lòng. Tự thâm tâm, giáo sư đã nhìn thấy người học trò vương gỉa này có một tư cách lãnh tụ bén nhậy. Dù tuổi còn nhỏ, nhà vua đã biết tự chế và nhanh chóng chọn được những quyết định sáng suốt khi cần đến.

Nếu giáo sư biết được nguyên nhân sự tức giận của nhà vua chiều nay thì giáo sư sẽ còn nhìn thấy thêm một khía cạnh khác ở người học trò đặc biệt của ông. Khía cạnh này không biết sẽ làm ông buồn hay vui. Đó là sự bất mãn của nhà vua về thái độ nhu nhược của các quan Thượng-thư triều đình đối với người Pháp. Giữa điện Thái-Hoà, vua Duy-Tân đã quát lên:

-Ai cho phép các ông đào xới lăng tẩm ?.

Ông phụ đạo Huỳnh Côn vội qùy xuống:

-Muôn tâu Hoàng-thượng Khâm sứ Mahé truyền ông De La Susse đến gặp chúng thần, nói là có người tiết lộ rằng có kho vàng chôn dấu, muốn đào thử ...

Nhà vua ngắt lời, quát lớn hơn:

-Lăng tẩm thuộc về ai ?

-Muôn tâu ...thuộc triều đình.

-Vậy sao các ông tuân lời người Pháp ?

Các quan sợ hãi, đồng qùy xuống. Một vị cố giải thích:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, chúng thần đã từ chối, nói rằng việc này liên quan tới tất cả các Bộ, phải có sự đồng ý và thông qua của tất cả. Ngày hôm sau, ông De La Susse đã triệu tập buổi hội và soạn thảo biên bản ...

Sự tức giận của vua Duy-Tân trở nên cay đắng:

-Hừ, thì ra mọi người đều được biết, trừ ông vua !.Không một ai lo việc thi hành mệnh lệnh của vua nhưng ai cũng răm rắp tuân hành lệnh ngoại xâm. Ta chỉ là ông vua bù nhìn thôi ư ?

Các quan vội đi mời Hoàng-Thái-hậu tới. Đang cơn tức giận, nhà vua nói luôn:

-Mẹ cũng chỉ một Hoàng-Thái-hậu hư danh mà thôi.

Các quan đưa mắt cầu cứu Thượng-thư Nguyễn Hữu Bài là người mà nhà vua rất qúi mến. Thượng- thư nhìn vị thiếu quân, lòng vô cùng đau xót. Ông nói:

-Muôn tâu, Hoàng-thượng muốn chống đối người Pháp, muốn đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước ư ? Nhưng Hoàng-thượng lấy gì để đánh ?. Chúng ta không có tiền bạc, không có vũ khí, không có quân lính tinh nhuệ. Chúng ta phải chờ thời cơ.

Vua Duy-Tân nhìn mông lung qua khung cửa rồi bất thần nói:

-Đây là lúc phải xúi dân chúng nổi dậy. Sức mạnh ở trong dân chúng, của cải ở trong dân chúng, quân lính ở trong dân chúng. Nếu chúng ta biết sử dụng, đó chính là tài sản của chúng ta.

Trước những ánh mắt sợ hãi, ngơ ngác của các quan, vị vua trẻ hầm hầm bước ra khỏi phòng.

Sau đó, cơn thịnh nộ đã dồn xuống những quyển sách tiếng Pháp. Vậy mà, chỉ một lời nói điềm đạm của giáo sư Arard đã khiến nhà vua tự chế được cơn cuồng phong trong lòng.

Tất cả sự giận dữ, buồn bực của nhà vua không qua khỏi mắt một người trẻ tuổi. Đó chính là người tài xế Phạm-Hữu-Khánh. Anh ta là một đảng viên ưu tú của Việt-Nam- Quang-Phục-Hội đã được các nhà cách mạng Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên thu xếp vào làm tài xế riêng cho Hoàng-đế để dò xét ý vua về tư tưởng cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi đất nước. Với tuổi trẻkiến thức rộng rãi, Phạm-Hữu-Khánh thường được vua Duy-Tân đối xử thân mật như anh em bạn,nhưng Khánh chưa bao giờ dám lạm bàn tới chuyện chính trị. Anh ta vẫn chờ đợi một thời điểm thật đúng. Thời điểm đó chính là sau giờ học tiếng Pháp này.

Khi giáo sư Arard vừa ra khỏi phòng, Khánh bước vào ngay. Anh đến gần nhà vua, nói nhỏ:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, thần có một chuyện tối mật để khẩn trình.

Hoàng-đế Duy-Tân thoáng ngạc nhiên, nhưng nhanh trí, Ngài nhìn toán lính lệ rồi nói:

-Cho lui hết. Còn Phạm Hữu Khánh đi pha cho ta bình trà sen rồi mới được lui.

Khi chỉ còn hai vua tôi, Khánh đã dâng lên vua Duy-Tân lá huyết thư của nhà cách mạng lão thành Trần Cao Vân. Lá thư có những lời khẳng khái như: “Thiên khải thánh minh, hữu bài Pháp hưng binh chi chí. Địa sinh tuấn kiệt, hữu truất dân thảo tặc chi quyền“. Nghĩa là: Trời sinh Vua thông minh, sẵn có chí khí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương dân.

Đoạn thư thống trách người Pháp thì có những lời bi thiết như: “Phụ-hoàng Hoàng- đế hà tội kiến thiên ?. Dực tôn tôn lăng, hà cớ kiến quật?”. Nghĩa là: Vua cha có tội gì mà đầy ải ?. Lăng vua Tự-Đức, vì cớ gì mà sai đào xới ? ....

Vị vua trẻ bồi hồi rơi lệ.

Phạm Hữu Khánh vội vã qùy xuống, dâng trà. Nhưng nhà vua đã rời phòng. Chỉ vài phút sau, Ngài đã ngồi trên lưng bạch mã, hướng về cửa Thượng-tứ ....

Vào khoảng trung tuần tháng tư năm 1916, khi Hoàng-Qúi-Phi từ hậu cung cánh hữu của điện Kiến Trung, đi sang lầu cánh tả để vấn an Hoàng-đế thì Bà chợt thấy bên bờ đầm Hậu Hồ, một ông lão đội nón rơm rộng, ngồi câu. Gặp vua Duy- Tân, bà hỏi:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, sao lại có người lạ vào câu trong Hậu Hồ?

Nhà vua chợt xúc động, hỏi lại:

-Hoàng-Phi thấy gì ?

-Muôn tâu, thần thiếp thấy một lão gìa ngồi câu ...

Nhà vua cắt ngang:

-Không sao, không sao đâu. Họ nghèo, cho họ vào câu kiếm ăn mà, Qúi phi đừng bận tâm, cũng... đừng nói lại với ai nhé.

Tuy hơi ngạc nhiên về thái độ của Hoàng-đế, Hoàng-Quí-Phi cũng cúi đầu, khẽ nói:

-Xin vâng.

Khi Hoàng-Quí-Phi trở về hậu cung, ông lão câu không còn bên đầm Hậu-Hồ.

Ông đã được bí mật đưa vào nội cung, chờ gặp Hoàng-đế Duy-Tân !.

Nắng đã lên cao. Mọi sinh hoạt như đang đổ dồn về Chợ Cồn.

Từ con đường đất bên bờ sông Hàn tới dọc đường xe lửa dẫn tới nhà ga, từng đoàn người quang gánh, thúng mẹt, xe thồ, chất đầy hàng hóa, rau cỏ, hoa trái...Ai cũng vội vã mau tới địa điểm họp chợ. Chợ Cồn chỉ họp mỗi tháng hai lần nên người mua kẻ bán khắp các vùng lân cận Đà Nẵng đều nao nức trông chờ.

Từ miền quê nghèo nắng cháy, một ông lão râu dài, tóc bạc gánh một gánh thuốc Nam đủ loại. Cùng đi với lão là một thanh niên khoảng hơn ba mươi, xách hai tay nải đựng nhiều chai lọ gồm các loại thuốc nước chữa bệnh thông thường ngoài da. Đó là hai thầy trò bán thuốc dạo, có mặt ở hầu hết các phiên chợ dọc theo Ngũ Hành Sơn. Không biết thuốc của họ có hiệu nghiệm lắm không nhưng ai đã dừng lại thì thế nào cũng mua ít nhiều vì ông lão mời chào những loại thuốc rất thông dụng. Nhà ai mà chả có người bị ngứa, bị ghẻ, bị nhức đầu sổ mũi, bị đau bụng đau lưng ... Ông lão bán thuốc đau bụng, lại bảo cậu thanh niên biếu thêm chai thuốc sức ghẻ. Ai mua thuốc sổ, lão lại tặng thêm lọ dầu con cọp ....Cứ thế, người dừng lại mỗi lúc mỗi đông.

Nhưng có lẽ người ta dừng lại không phải chỉ vì được tặng thuốc mà còn vì bị thu hút bởi phong cách của lão ông. Ngoài mái tóc bạc phất phơ, chòm râu dài đạo mạo, lão còn có vầng trán cao, đôi mắt sáng mà khi nhìn ai, người đó cảm thấy như đã bị cái khí phách đạo sĩ của lão thu phục. Lão ăn mặc đơn giản lắm. Đầu đội chiếc khăn nhiễu thâm đã bạc mầu, chân đi dép da trâu và chiếc quần xám thật đi đôi với tấm aó vải ta, nhuộm mầu chàm. Chiếc aó tuy thô sơ nhưng rộng như loại aó choàng và được may hai lớp nên trông khá tươm tất. Dù trời lạnh hay nóng, nắng hay mưa, chiếc aó đó luôn luôn khoác bên ngoài chiếc aó cánh mầu xám tro cũ kỹ. Chàng thanh niên thì đúng là hình ảnh một cậu học trò nhà quê. Cậu mặc aó the thâm, quần cháo lòng, chân đi dép mủ. Hai thầy trò, kẻ mời, người bán, trông vui vẻ, bận rộn lắm ...

Giữa đám đông dân chúng bu quanh gánh thuốc, không biết có ai để ý thấy hiện tượng lạ này không. Đó là, có những người chỉ đứng xem, không hề mua hàng nhưng vẫn được người thanh niên đến, tặng cho một gói thuốc nhỏ sau khi ghé tai, thì thầm. Có lẽ là dặn cách dùng thuốc chăng ?.

Hai thầy trò, tuy bán đắt hàng nhưng ít khi nào ở lại đến khi tan chợ . Họ thường dọn hàng sớm và đi về hướng núi Bạch Mã. Phiên chợ này cũng thế, nhưng hôm nay, trước khi dẹp hàng, ông lão tốt bụng đã tặng dân làng hết số thuốc còn lại. Bà con áy náy, móc hầu bao muốn trả lão dăm hào, nhưng lão xua tay nói: Lương y như từ mẫu.

Ánh đuốc bập bùng làm ấm hẳn khu rừng hoang vu trên núi Sơn-Trà. Khu rừng được bao bọc bởi những bờ đá cao nên rất kín đáo. Ai mà muốn mạo hiểm vào đó làm chi khi những cây cổ thụ ngàn năm đã là hang ổ của bao rắn rết, thú hoang ...Vậy mà đêm nay, từ khắp phía, từng bóng đen lần mò trong đêm ...

Họ đang đi đến điểm hẹn.

Dưới gốc đại thụ, một khoảng đất vừa được khai quang bằng phẳng, ở đó đặt một chiếc bàn gỗ đơn sơ trên có lư hương, nhang đèn. Rải rác đứng ngồi trên các mỏm đá quanh đó là những thanh niên trẻ. Họ chính là những người đã được anh bán thuốc đến gần, tặng thuốc rồi thì thầm ... Thì ra, không phải họ được căn dặn cách dùng thuốc mà là được mời tới điểm hẹn đêm nay. Tất cả đang chờ một người xuất hiện .

Và người đó đã tới kia !.

Đó là lão ông bán thuốc dạo.

Nhưng đi cùng lão ông không phải là anh học trò nhà quê nữa vì đêm nay anh ta vận quần chẽn đen, áo da bò, đi ủng cao. Anh có dáng dấp của một tráng sĩ.

Chờ cho những tiếng xì xào lắng xuống, lão ông bước lên một hòn đá cao, nhìn một lượt, khắp mọi người. Trong bóng đêm, đôi mắt lão rực sáng như hai vì sao và giọng nói của lão sang sảng tưởng như có thể đốn ngã cây rừng, chém vỡ đá núi:

-Thưa toàn thể qúi anh em, tôi xin tự giới thiệu, tôi là Trần-Cao-Vân ...

Những tiếng reo, vừa kinh ngạc, vừa mừng vui, lao xao tứ phía như muôn lớp sóng xô bờ: Trời, cụ Trần đó ư? . Có phải cụ đã từng làm đạo sĩ ở chuà Cổ Lâm, huyện Đại-Sĩ?. Rồi cụ vào Bình-Định giả làm nghề địa lý để đi lại đó đây nghe ngóng tình hình. Ôi, năm mới hơn ba mươi tuổi, cụ đã bị bắtâm mưu cướp chính quyền. Ấy thế mà khi được thả ra, cụ có chùn bước đâu. Hình như sau đó cụ mở lớp dạy học để truyền bá tư tưởng cách mạng nên lại bị kết án tới ba năm khổ sai ...Ôi thôi, những huyền thoại về cụ Trần được đồn đãi khắp trong dân chúng, ai mà không biết !.Cụ vaò tù ra khám cả quãng đời thanh niên cũng vì quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm. Ai cũng ngưỡng mộ cụ mà mấy người được diện kiến...

Tiếng lao xao tưởng như không thể dứt. Lão tướng Trần Cao Vân phải giơ cao hai tay, xin mọi người im lặng. Hàng trăm cặp mắt ngưỡng phục đều nhìn về lão tướng. Lão cảm động, nói tiếp:

-Vâng, lão đây chính là Trần Cao Vân mà anh em đã từng nghe đến. Nếu anh em có lòng yêu thươngcuộc đời bôn ba của lão thì lão lại càng cảm thấy nhục nhã, ê chề vì đã phụ lòng yêu thương đó. Bởi, từ tuổi thanh xuân đến lúc bạc đầu lão vẫn chưa hoàn thành được sứ mạng. Nước vẫn mất, nhà vẫn tan, đồng bào vẫn điêu linh đói khổ. Nay tuổi gìa sức yếu, đành mượn nghề bán thuốc dạo để đi tìm những người còn nặng lòng với quê hương, dân tộc. Nước Pháp đang bị quân Đức uy hiếp, họ sẽ phải triệu tập lực lượng ở các nước bảo hộ về để chiến đấu cho nền độc lập của chính họ. Đây là cơ hội để chúng ta vùng lên. Sức mạnh ở trong tay tuổi trẻ. Sức mạnh chính là anh em. Chúng ta cần sự quyết tâm. Anh em có quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc hay không?. 

Mọi cánh tay đồng loạt giơ lên.

Trần lão tướng nhìn khắp mọi người, rồi quay sang thanh niên đứng bên, lão nói:

-Đây là tráng sĩ Thái-Phiên, người vẫn âm thầm lo kinh tài cho các cuộc khởi nghĩa, hy sinh gia đình êm ấm để xông pha hiểm nguy nay đây mai đó. Đêm nay, anh em nào cảm thấy đã sẵn sàng dấn thân vào công cuộc cách mạng thì sẽ lần lượt quỳ lạy trước ban thờ Tổ quốc và rồi tráng sĩ Thái Phiên sẽ là người trực tiếp huấn luyện anh em .

Mây trôi dần vào núi. Ánh trăng vằng vặc chiếu sáng góc rừng nơi có đoàn người nối tiếp nhau, nghiêm chỉnh quỳ xuống trước bàn thờ sơ sài nhưng ngùn ngụt khí thế.

Trần lão tướng đứng lặng, tiếp nhận đồng chí. Tới người chót, lão bật khóc vì qúa xúc động. Cũng giây phút ấy, lão vòng tay, kính cẩn qùy xuống. Mọi người ngơ ngác, chưa biết phải làm gì thì lão chậm rãi cởi nút chiếc aó khoác bằng vải ta, nhuộm mầu chàm mà mấy tháng nay không phút giây nào rời thân thể lão. Khi hai tay lão cầm hai cánh áo, giang rộng ra là lúc lão hô lớn: “Thánh thượng vạn tuế”.

Dưới ánh trăng vằng vặc, trong vạt áo vải thô là mật chiếu của Hoàng-đế Duy-Tân với dấu triện son đỏ bên góc phải.

Bàng hoàng lẫn xúc động, mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô: ”Thánh thượng vạn tuế” .

Tráng sĩ Thái Phiên quỳ trước lão tướng, giơ cao ngọn đuốc rồi kính cẩn đọc chiếu:

“Hỡi các con dân Việt Nam khắp ba kỳ Bắc Trung Nam,

Đã đến giờ phút mà những người yêu nước phải có sự chọn lựa để quyết định cho tương lai của đất nước, nếu không muốn đời đời chịu tủi nhục, làm thân trâu ngựa cho ngoại xâm.Sự chọn lựa này đòi hỏi những hy sinh lớn lao và lòng can đảm phi thường. Nhưng nếu chúng ta không tự dâng hiến thì không ai có thể làm cho chúng ta được. Nếu máu chúng ta có đổ cũng chẳng là uổng phí vì máu thấm đất mầu sẽ làm lúa trổ bông. Nếu xương chúng ta có tan, xương tráng sĩ cũng cùng núi, trơ gan tuế nguyệt. Mang cái chết đời này để tìm cái sống xứng đáng cho đời sau là điều Tổ Tiên chúng ta đã tiếp nối hy sinh suốt chiều dài lịch sử. Nay, nhân danh Hoàng- đế của dân tộc Việt Nam kiên cường bất khuất, ta sẽ rời cung điện, mặc aó vải, đi chân đất, ra khỏi hoàng thành, đứng cùng hàng ngũ cách mạng với toàn dân để tranh đấu, giành lại độc lập cho xứ sở. Trong khi chờ đến thời điểm thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa, ta gửi hai sứ gỉa Trần Cao Vân và Thái Phiên, mang mật chiếu này đến con dân khắp nơi làm bằng chứng cho quyết tâm đòi lại tự do.

Hồn thiêng Tiên liệt sẽ phò trợ chúng ta”
.
Tráng sĩ Thái Phiên dứt lời, mọi người nhất loạt dập đầu, lậy ba lậy.

Cây rừng như rung chuyển giữa muôn lòng thổn thức . Những ánh đuốc tắt dần đi. Bóng đêm bao phủ khu rừng. Đêm tối đen như mực, không ai còn trông thấy gì ngoài chiếc aó vải ta nhuộm mầu chàm khoác trên mình lão tướng. Họ trông thấy, không bằng mắt mà bằng trái tim của những người Việt Nam yêu nước.

Trong đêm tối,

Họ đã quyết đi tìm ánh sáng. 
 
Linh Linh Ngọc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28197)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6690)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15390)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8257)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8685)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16735)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26982)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15657)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22543)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19476)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18353)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16207)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12887)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10717)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10033)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10392)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11043)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15234)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10844)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11710)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11248)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10564)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10894)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11405)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11066)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17773)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15239)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15714)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11004)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12117)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11046)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21853)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9182)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10104)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant