Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Áo Sĩ Phu

28 Tháng Tám 201100:00(Xem: 6053)
6. Áo Sĩ Phu

TÂM HƯƠNG TẢI ĐẠO
Tuyển tập truyện ngắn thắp lên tinh thần Đạo Giác Ngộ giữa chốn vô minh
Gió Đông xuất bản 2002
Linh Linh Ngọc

ÁO SĨ PHU

Đó là mùa hè năm Ất Mão 1915.

Mọi sinh hoạt trong Điện Kiến Trung vẫn như thường nhật. Sau khi dùng điểm tâm, Hoàng-đế Duy Tân dạo quanh đầm Hậu Hồ chốc lát, nhìn đàn chim bay, ngắm hoa sen nở trước khi về thư phòng bắt đầu hai chương trình học Hán văn và Việt văn với hai ông phụ đạo Mai Khắc Đôn và Huỳnh Côn. Tuy mới mười lăm tuổi nhưng Hoàng- đế luôn nghiêm túc trong việc văn ôn võ luyện. Chỉ những giờ học tiếng Pháp với ông giáo Eberhardt hoặc Arard là lính hầu mới có dịp thỉnh thoảng thấy đôi chút cử chỉ hoặc lời nói bất thường của Ngài mà thôi. Như buổi chiều nay chẳng hạn. Khi giáo sư Arard bước vào phòng học thì thấy vua Duy-Tân ngồi yên lặng trước án thư, hai tay chống cằm và những sách tiếng Pháp vứt la liệt trên nền nhà.

Không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, giáo sư nói:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, đã đến giờ học, xin Hoàng-thượng nhặt sách lên.

Vẫn ngồi yên, vua Duy-Tân nhìn giáo sư Arard và cao giọng:

-Ta không nhặt. Ta là Vua. Chính thầy phải nhặt.

Rất trầm tĩnh, giáo sư Arard nói:

-Muôn tâu, Hoàng-thượng thừa biết rằng Hoàng-thượng là người phải nhặt. Hoàng- thượng cũng còn biết rằng, ngay bây giờ, nếu tôi bước ra khỏi phòng này, tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Cơn giông bão trong lòng vị Hoàng-đế trẻ dịu dần lại. Giáo sư Arard là một ông thầy uyên bác, điềm đạm, tận tâm mà nhà vua rất qúi mến. Làm sao có thể trút sự tức giận các quan Thượng-thư của triều đình lên ông thầy khả kính này ?. 

Bằng cử chỉ phục thiện, nhà vua đứng dậy, lẳng lặng nhặt hết sách rải rác khắp phòng, đặt ngay ngắn trên bàn rồi đến trước giáo sư, nhà vua nói:

-Xin thầy tha lỗi. Nào, chúng ta bắt đầu buổi học được rồi chứ ?.

Giáo sư Arard mỉm cười và rất hài lòng. Tự thâm tâm, giáo sư đã nhìn thấy người học trò vương gỉa này có một tư cách lãnh tụ bén nhậy. Dù tuổi còn nhỏ, nhà vua đã biết tự chế và nhanh chóng chọn được những quyết định sáng suốt khi cần đến.

Nếu giáo sư biết được nguyên nhân sự tức giận của nhà vua chiều nay thì giáo sư sẽ còn nhìn thấy thêm một khía cạnh khác ở người học trò đặc biệt của ông. Khía cạnh này không biết sẽ làm ông buồn hay vui. Đó là sự bất mãn của nhà vua về thái độ nhu nhược của các quan Thượng-thư triều đình đối với người Pháp. Giữa điện Thái-Hoà, vua Duy-Tân đã quát lên:

-Ai cho phép các ông đào xới lăng tẩm ?.

Ông phụ đạo Huỳnh Côn vội qùy xuống:

-Muôn tâu Hoàng-thượng Khâm sứ Mahé truyền ông De La Susse đến gặp chúng thần, nói là có người tiết lộ rằng có kho vàng chôn dấu, muốn đào thử ...

Nhà vua ngắt lời, quát lớn hơn:

-Lăng tẩm thuộc về ai ?

-Muôn tâu ...thuộc triều đình.

-Vậy sao các ông tuân lời người Pháp ?

Các quan sợ hãi, đồng qùy xuống. Một vị cố giải thích:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, chúng thần đã từ chối, nói rằng việc này liên quan tới tất cả các Bộ, phải có sự đồng ý và thông qua của tất cả. Ngày hôm sau, ông De La Susse đã triệu tập buổi hội và soạn thảo biên bản ...

Sự tức giận của vua Duy-Tân trở nên cay đắng:

-Hừ, thì ra mọi người đều được biết, trừ ông vua !.Không một ai lo việc thi hành mệnh lệnh của vua nhưng ai cũng răm rắp tuân hành lệnh ngoại xâm. Ta chỉ là ông vua bù nhìn thôi ư ?

Các quan vội đi mời Hoàng-Thái-hậu tới. Đang cơn tức giận, nhà vua nói luôn:

-Mẹ cũng chỉ một Hoàng-Thái-hậu hư danh mà thôi.

Các quan đưa mắt cầu cứu Thượng-thư Nguyễn Hữu Bài là người mà nhà vua rất qúi mến. Thượng- thư nhìn vị thiếu quân, lòng vô cùng đau xót. Ông nói:

-Muôn tâu, Hoàng-thượng muốn chống đối người Pháp, muốn đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước ư ? Nhưng Hoàng-thượng lấy gì để đánh ?. Chúng ta không có tiền bạc, không có vũ khí, không có quân lính tinh nhuệ. Chúng ta phải chờ thời cơ.

Vua Duy-Tân nhìn mông lung qua khung cửa rồi bất thần nói:

-Đây là lúc phải xúi dân chúng nổi dậy. Sức mạnh ở trong dân chúng, của cải ở trong dân chúng, quân lính ở trong dân chúng. Nếu chúng ta biết sử dụng, đó chính là tài sản của chúng ta.

Trước những ánh mắt sợ hãi, ngơ ngác của các quan, vị vua trẻ hầm hầm bước ra khỏi phòng.

Sau đó, cơn thịnh nộ đã dồn xuống những quyển sách tiếng Pháp. Vậy mà, chỉ một lời nói điềm đạm của giáo sư Arard đã khiến nhà vua tự chế được cơn cuồng phong trong lòng.

Tất cả sự giận dữ, buồn bực của nhà vua không qua khỏi mắt một người trẻ tuổi. Đó chính là người tài xế Phạm-Hữu-Khánh. Anh ta là một đảng viên ưu tú của Việt-Nam- Quang-Phục-Hội đã được các nhà cách mạng Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên thu xếp vào làm tài xế riêng cho Hoàng-đế để dò xét ý vua về tư tưởng cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi đất nước. Với tuổi trẻkiến thức rộng rãi, Phạm-Hữu-Khánh thường được vua Duy-Tân đối xử thân mật như anh em bạn,nhưng Khánh chưa bao giờ dám lạm bàn tới chuyện chính trị. Anh ta vẫn chờ đợi một thời điểm thật đúng. Thời điểm đó chính là sau giờ học tiếng Pháp này.

Khi giáo sư Arard vừa ra khỏi phòng, Khánh bước vào ngay. Anh đến gần nhà vua, nói nhỏ:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, thần có một chuyện tối mật để khẩn trình.

Hoàng-đế Duy-Tân thoáng ngạc nhiên, nhưng nhanh trí, Ngài nhìn toán lính lệ rồi nói:

-Cho lui hết. Còn Phạm Hữu Khánh đi pha cho ta bình trà sen rồi mới được lui.

Khi chỉ còn hai vua tôi, Khánh đã dâng lên vua Duy-Tân lá huyết thư của nhà cách mạng lão thành Trần Cao Vân. Lá thư có những lời khẳng khái như: “Thiên khải thánh minh, hữu bài Pháp hưng binh chi chí. Địa sinh tuấn kiệt, hữu truất dân thảo tặc chi quyền“. Nghĩa là: Trời sinh Vua thông minh, sẵn có chí khí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương dân.

Đoạn thư thống trách người Pháp thì có những lời bi thiết như: “Phụ-hoàng Hoàng- đế hà tội kiến thiên ?. Dực tôn tôn lăng, hà cớ kiến quật?”. Nghĩa là: Vua cha có tội gì mà đầy ải ?. Lăng vua Tự-Đức, vì cớ gì mà sai đào xới ? ....

Vị vua trẻ bồi hồi rơi lệ.

Phạm Hữu Khánh vội vã qùy xuống, dâng trà. Nhưng nhà vua đã rời phòng. Chỉ vài phút sau, Ngài đã ngồi trên lưng bạch mã, hướng về cửa Thượng-tứ ....

Vào khoảng trung tuần tháng tư năm 1916, khi Hoàng-Qúi-Phi từ hậu cung cánh hữu của điện Kiến Trung, đi sang lầu cánh tả để vấn an Hoàng-đế thì Bà chợt thấy bên bờ đầm Hậu Hồ, một ông lão đội nón rơm rộng, ngồi câu. Gặp vua Duy- Tân, bà hỏi:

-Muôn tâu Hoàng-thượng, sao lại có người lạ vào câu trong Hậu Hồ?

Nhà vua chợt xúc động, hỏi lại:

-Hoàng-Phi thấy gì ?

-Muôn tâu, thần thiếp thấy một lão gìa ngồi câu ...

Nhà vua cắt ngang:

-Không sao, không sao đâu. Họ nghèo, cho họ vào câu kiếm ăn mà, Qúi phi đừng bận tâm, cũng... đừng nói lại với ai nhé.

Tuy hơi ngạc nhiên về thái độ của Hoàng-đế, Hoàng-Quí-Phi cũng cúi đầu, khẽ nói:

-Xin vâng.

Khi Hoàng-Quí-Phi trở về hậu cung, ông lão câu không còn bên đầm Hậu-Hồ.

Ông đã được bí mật đưa vào nội cung, chờ gặp Hoàng-đế Duy-Tân !.

Nắng đã lên cao. Mọi sinh hoạt như đang đổ dồn về Chợ Cồn.

Từ con đường đất bên bờ sông Hàn tới dọc đường xe lửa dẫn tới nhà ga, từng đoàn người quang gánh, thúng mẹt, xe thồ, chất đầy hàng hóa, rau cỏ, hoa trái...Ai cũng vội vã mau tới địa điểm họp chợ. Chợ Cồn chỉ họp mỗi tháng hai lần nên người mua kẻ bán khắp các vùng lân cận Đà Nẵng đều nao nức trông chờ.

Từ miền quê nghèo nắng cháy, một ông lão râu dài, tóc bạc gánh một gánh thuốc Nam đủ loại. Cùng đi với lão là một thanh niên khoảng hơn ba mươi, xách hai tay nải đựng nhiều chai lọ gồm các loại thuốc nước chữa bệnh thông thường ngoài da. Đó là hai thầy trò bán thuốc dạo, có mặt ở hầu hết các phiên chợ dọc theo Ngũ Hành Sơn. Không biết thuốc của họ có hiệu nghiệm lắm không nhưng ai đã dừng lại thì thế nào cũng mua ít nhiều vì ông lão mời chào những loại thuốc rất thông dụng. Nhà ai mà chả có người bị ngứa, bị ghẻ, bị nhức đầu sổ mũi, bị đau bụng đau lưng ... Ông lão bán thuốc đau bụng, lại bảo cậu thanh niên biếu thêm chai thuốc sức ghẻ. Ai mua thuốc sổ, lão lại tặng thêm lọ dầu con cọp ....Cứ thế, người dừng lại mỗi lúc mỗi đông.

Nhưng có lẽ người ta dừng lại không phải chỉ vì được tặng thuốc mà còn vì bị thu hút bởi phong cách của lão ông. Ngoài mái tóc bạc phất phơ, chòm râu dài đạo mạo, lão còn có vầng trán cao, đôi mắt sáng mà khi nhìn ai, người đó cảm thấy như đã bị cái khí phách đạo sĩ của lão thu phục. Lão ăn mặc đơn giản lắm. Đầu đội chiếc khăn nhiễu thâm đã bạc mầu, chân đi dép da trâu và chiếc quần xám thật đi đôi với tấm aó vải ta, nhuộm mầu chàm. Chiếc aó tuy thô sơ nhưng rộng như loại aó choàng và được may hai lớp nên trông khá tươm tất. Dù trời lạnh hay nóng, nắng hay mưa, chiếc aó đó luôn luôn khoác bên ngoài chiếc aó cánh mầu xám tro cũ kỹ. Chàng thanh niên thì đúng là hình ảnh một cậu học trò nhà quê. Cậu mặc aó the thâm, quần cháo lòng, chân đi dép mủ. Hai thầy trò, kẻ mời, người bán, trông vui vẻ, bận rộn lắm ...

Giữa đám đông dân chúng bu quanh gánh thuốc, không biết có ai để ý thấy hiện tượng lạ này không. Đó là, có những người chỉ đứng xem, không hề mua hàng nhưng vẫn được người thanh niên đến, tặng cho một gói thuốc nhỏ sau khi ghé tai, thì thầm. Có lẽ là dặn cách dùng thuốc chăng ?.

Hai thầy trò, tuy bán đắt hàng nhưng ít khi nào ở lại đến khi tan chợ . Họ thường dọn hàng sớm và đi về hướng núi Bạch Mã. Phiên chợ này cũng thế, nhưng hôm nay, trước khi dẹp hàng, ông lão tốt bụng đã tặng dân làng hết số thuốc còn lại. Bà con áy náy, móc hầu bao muốn trả lão dăm hào, nhưng lão xua tay nói: Lương y như từ mẫu.

Ánh đuốc bập bùng làm ấm hẳn khu rừng hoang vu trên núi Sơn-Trà. Khu rừng được bao bọc bởi những bờ đá cao nên rất kín đáo. Ai mà muốn mạo hiểm vào đó làm chi khi những cây cổ thụ ngàn năm đã là hang ổ của bao rắn rết, thú hoang ...Vậy mà đêm nay, từ khắp phía, từng bóng đen lần mò trong đêm ...

Họ đang đi đến điểm hẹn.

Dưới gốc đại thụ, một khoảng đất vừa được khai quang bằng phẳng, ở đó đặt một chiếc bàn gỗ đơn sơ trên có lư hương, nhang đèn. Rải rác đứng ngồi trên các mỏm đá quanh đó là những thanh niên trẻ. Họ chính là những người đã được anh bán thuốc đến gần, tặng thuốc rồi thì thầm ... Thì ra, không phải họ được căn dặn cách dùng thuốc mà là được mời tới điểm hẹn đêm nay. Tất cả đang chờ một người xuất hiện .

Và người đó đã tới kia !.

Đó là lão ông bán thuốc dạo.

Nhưng đi cùng lão ông không phải là anh học trò nhà quê nữa vì đêm nay anh ta vận quần chẽn đen, áo da bò, đi ủng cao. Anh có dáng dấp của một tráng sĩ.

Chờ cho những tiếng xì xào lắng xuống, lão ông bước lên một hòn đá cao, nhìn một lượt, khắp mọi người. Trong bóng đêm, đôi mắt lão rực sáng như hai vì sao và giọng nói của lão sang sảng tưởng như có thể đốn ngã cây rừng, chém vỡ đá núi:

-Thưa toàn thể qúi anh em, tôi xin tự giới thiệu, tôi là Trần-Cao-Vân ...

Những tiếng reo, vừa kinh ngạc, vừa mừng vui, lao xao tứ phía như muôn lớp sóng xô bờ: Trời, cụ Trần đó ư? . Có phải cụ đã từng làm đạo sĩ ở chuà Cổ Lâm, huyện Đại-Sĩ?. Rồi cụ vào Bình-Định giả làm nghề địa lý để đi lại đó đây nghe ngóng tình hình. Ôi, năm mới hơn ba mươi tuổi, cụ đã bị bắtâm mưu cướp chính quyền. Ấy thế mà khi được thả ra, cụ có chùn bước đâu. Hình như sau đó cụ mở lớp dạy học để truyền bá tư tưởng cách mạng nên lại bị kết án tới ba năm khổ sai ...Ôi thôi, những huyền thoại về cụ Trần được đồn đãi khắp trong dân chúng, ai mà không biết !.Cụ vaò tù ra khám cả quãng đời thanh niên cũng vì quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm. Ai cũng ngưỡng mộ cụ mà mấy người được diện kiến...

Tiếng lao xao tưởng như không thể dứt. Lão tướng Trần Cao Vân phải giơ cao hai tay, xin mọi người im lặng. Hàng trăm cặp mắt ngưỡng phục đều nhìn về lão tướng. Lão cảm động, nói tiếp:

-Vâng, lão đây chính là Trần Cao Vân mà anh em đã từng nghe đến. Nếu anh em có lòng yêu thươngcuộc đời bôn ba của lão thì lão lại càng cảm thấy nhục nhã, ê chề vì đã phụ lòng yêu thương đó. Bởi, từ tuổi thanh xuân đến lúc bạc đầu lão vẫn chưa hoàn thành được sứ mạng. Nước vẫn mất, nhà vẫn tan, đồng bào vẫn điêu linh đói khổ. Nay tuổi gìa sức yếu, đành mượn nghề bán thuốc dạo để đi tìm những người còn nặng lòng với quê hương, dân tộc. Nước Pháp đang bị quân Đức uy hiếp, họ sẽ phải triệu tập lực lượng ở các nước bảo hộ về để chiến đấu cho nền độc lập của chính họ. Đây là cơ hội để chúng ta vùng lên. Sức mạnh ở trong tay tuổi trẻ. Sức mạnh chính là anh em. Chúng ta cần sự quyết tâm. Anh em có quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc hay không?. 

Mọi cánh tay đồng loạt giơ lên.

Trần lão tướng nhìn khắp mọi người, rồi quay sang thanh niên đứng bên, lão nói:

-Đây là tráng sĩ Thái-Phiên, người vẫn âm thầm lo kinh tài cho các cuộc khởi nghĩa, hy sinh gia đình êm ấm để xông pha hiểm nguy nay đây mai đó. Đêm nay, anh em nào cảm thấy đã sẵn sàng dấn thân vào công cuộc cách mạng thì sẽ lần lượt quỳ lạy trước ban thờ Tổ quốc và rồi tráng sĩ Thái Phiên sẽ là người trực tiếp huấn luyện anh em .

Mây trôi dần vào núi. Ánh trăng vằng vặc chiếu sáng góc rừng nơi có đoàn người nối tiếp nhau, nghiêm chỉnh quỳ xuống trước bàn thờ sơ sài nhưng ngùn ngụt khí thế.

Trần lão tướng đứng lặng, tiếp nhận đồng chí. Tới người chót, lão bật khóc vì qúa xúc động. Cũng giây phút ấy, lão vòng tay, kính cẩn qùy xuống. Mọi người ngơ ngác, chưa biết phải làm gì thì lão chậm rãi cởi nút chiếc aó khoác bằng vải ta, nhuộm mầu chàm mà mấy tháng nay không phút giây nào rời thân thể lão. Khi hai tay lão cầm hai cánh áo, giang rộng ra là lúc lão hô lớn: “Thánh thượng vạn tuế”.

Dưới ánh trăng vằng vặc, trong vạt áo vải thô là mật chiếu của Hoàng-đế Duy-Tân với dấu triện son đỏ bên góc phải.

Bàng hoàng lẫn xúc động, mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô: ”Thánh thượng vạn tuế” .

Tráng sĩ Thái Phiên quỳ trước lão tướng, giơ cao ngọn đuốc rồi kính cẩn đọc chiếu:

“Hỡi các con dân Việt Nam khắp ba kỳ Bắc Trung Nam,

Đã đến giờ phút mà những người yêu nước phải có sự chọn lựa để quyết định cho tương lai của đất nước, nếu không muốn đời đời chịu tủi nhục, làm thân trâu ngựa cho ngoại xâm.Sự chọn lựa này đòi hỏi những hy sinh lớn lao và lòng can đảm phi thường. Nhưng nếu chúng ta không tự dâng hiến thì không ai có thể làm cho chúng ta được. Nếu máu chúng ta có đổ cũng chẳng là uổng phí vì máu thấm đất mầu sẽ làm lúa trổ bông. Nếu xương chúng ta có tan, xương tráng sĩ cũng cùng núi, trơ gan tuế nguyệt. Mang cái chết đời này để tìm cái sống xứng đáng cho đời sau là điều Tổ Tiên chúng ta đã tiếp nối hy sinh suốt chiều dài lịch sử. Nay, nhân danh Hoàng- đế của dân tộc Việt Nam kiên cường bất khuất, ta sẽ rời cung điện, mặc aó vải, đi chân đất, ra khỏi hoàng thành, đứng cùng hàng ngũ cách mạng với toàn dân để tranh đấu, giành lại độc lập cho xứ sở. Trong khi chờ đến thời điểm thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa, ta gửi hai sứ gỉa Trần Cao Vân và Thái Phiên, mang mật chiếu này đến con dân khắp nơi làm bằng chứng cho quyết tâm đòi lại tự do.

Hồn thiêng Tiên liệt sẽ phò trợ chúng ta”
.
Tráng sĩ Thái Phiên dứt lời, mọi người nhất loạt dập đầu, lậy ba lậy.

Cây rừng như rung chuyển giữa muôn lòng thổn thức . Những ánh đuốc tắt dần đi. Bóng đêm bao phủ khu rừng. Đêm tối đen như mực, không ai còn trông thấy gì ngoài chiếc aó vải ta nhuộm mầu chàm khoác trên mình lão tướng. Họ trông thấy, không bằng mắt mà bằng trái tim của những người Việt Nam yêu nước.

Trong đêm tối,

Họ đã quyết đi tìm ánh sáng. 
 
Linh Linh Ngọc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34300)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16848)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22958)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13043)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21924)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22161)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14857)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23556)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24073)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23605)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17122)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19336)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27025)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14404)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13829)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22668)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14718)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17346)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12655)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13854)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10398)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14664)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17192)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12528)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12688)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10349)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28700)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10685)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11121)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16863)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15761)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13331)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12544)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11350)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13017)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19301)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12239)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28564)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10037)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21498)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12773)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17803)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26198)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11686)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10835)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22721)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12027)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10596)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11374)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11511)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant