Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10

10 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6757)
Chương 10

NẺO VỀ CỦA Ý
Nhất Hạnh

PHẦN THỨ BA

STEVE ơi, cái nhà của mình ở đường 109 đã được trả lại cho người ta rồi phải không? Thương quá đi! Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu vui buồn trong đó. Và đối với tôi, tôi không bao giờ có thể quên được bất cứ một chi tiết nào trong nó. Steve không nói nhưng tôi biết là sau khi tôi đi rồi Steve đã phải bắt buộc trả lại cái nhà đó để đi mướn một gian phòng khác, bởi vì một mình Steve làm sao trả được tiền nhà, tiền điện, tiền nước, và bao nhiêu thứ lặt vặt nữa liên hệ tới một cái nhà.

Nơi mà tôi đang ngồi viết cho Steve đây là một ngôi nhà lợp bằng lá dừa nước, một thứ cây mọc đầy ở rạch, các bưng, các vũng sình lầy ở miền Nam nước Việt. Vách của nó được trộn bằng đất bùn trộn lẫn rơm khô. Kín lắm, và cũng đẹp nữa. Chắc chắn là Steve chưa bao giờ thấy những cái vách trát bùn như vậy. Trước hết người ta lấy tre chẻ ra, gọt hai đầu, lắp vào các cây cột gỗ quanh nhà rồi lấy lạt buộc lại thành những tấm lưới tre chắc chắn. Sau đó đất bùn được lấy dưới sông lên, trộn với rơm khô. Bữa ấy tôi có yêu cầu các bác nông dân pha thêm tí xi măng vào cho chắc. Người ta lấy rơm bùn quấn vào các nẹp của tấm lưới tre cho các mắt lưới được bịt kín lại và cuối cùng lấy đất bùn trét lên cho phẳng. Những cái vách khi khô rồi cũng trắng bệch ra, nom rất đẹp. Ở đây là đồng quê, gió lộng nhiều, nhất là vào buổi chiều, nên làm vách như thế này thì kín và ấm lắm. Bây giờ là buổi sớm mai. Tôi ngồi viết trước một chiếc cửa sổ ngó ra đồng. Nắng vừa lên phía bên trái là đồng lúa còn con gái. Trước mặt cách tôi chừng năm trăm thước là một cái rạch sình lầy xanh um lá dừa nước. Bên phải có xóm làng với những cái chuồng trâu cao ráo, sát ngay rạch dừa nước. Đất miền này nhiều phèn lắm, và nhằm mùa nắng vấn đề nước uống là một vấn đề gay go. Tuy gần sông, nhưng mà vào mùa nắng thì nước mặn. Ở đây chỉ cách Saigon chừng mười cây số nhưng đã yên tĩnh và dễ chịu hơn Saigon nhiều lắm rồi. Tôi về đây từ hồi hôm. Dạy học ra muộn cho nên tới đầu cầu giáp giới của làng thì đã thấy trăng tròn nằm trên đọt cây dừa trên sông rồi. Gió trên cầu mát rượi. Tôi đi thong thả vào làng. Ở Việt Nam, những làng như thế này là tương đối an có an ninh lắm. Tôi đã vừa được ngủ một đêm thanh tịnh ở vùng quê. Tuy thỉnh thoảng tiếng súng trong đêm vẫn nghe rõ mồn một.

Khu vực nhà tôi đang nói cho Steve nghe đây là một thí điểm làm “làng” của chúng tôi được khởi sự vài tuần lễ sau ngày tôi về tới quê nhà. Chúng tôi gọi nó là “làng tự nguyện đầu tiên”. Đó là mẫu làng mà chúng ta đã bàn bạc nhiều với nhau trong lúc rỗi rảnh đó, Steve. Bây giờ nó đã thành sự thực. Ba tiếng “làng tự nguyện” gợi cho chúng ta hình ảnh một khu làng mà trong đó dân chúng tự tổ chức lại nếp sống kinh tế, giáo dục và y tế của họ theo xn tiêu chuẩn phát triển cộng đồng. Họ chấm dứt thái độ tiêu cựctrông chờ, phải có những người bạn có óc tổ chức, có kiến thức căn bản về sinh hoạt xã hội nông thôn sống ngay trong xóm làng, làm chất men cho tinh thần tự nguyện phát khởi. Ở khu làng thí nghiệm này, chúng tôi đã được dân làng chấp nhận như anh em bà con của họ, cái nhà mà tôi đang ở đây là một cái nhà bốn gian, ba gian là trường học, một gian là trạm y tế. Tất cả đều do các nông dân trong làng tạo dựng, với sự có mặt của chúng tôi. Nói cho đúng, chỉ có hai người con trai là Tâm Quang và Tâm Thái là ở thường trực trong làng, còn tất cả chúng tôi chỉ về thỉnh thoảng để học hỏithực tập. Chúng tôi cũng vừa mới mở một địa điểm thực tập khác, không xa lắm. Đây là ấp Thảo Điền.

Chắc chắn nếu Steve có ở đây thì Steve sẽ thích lắm. Nhưng mà Steve chưa thể qua đây được đâu. Hãy học cho xong chương trình mà em đang theo đuổi đã. Tôi cũng đã suy nghĩ về vấn đề để cho Steve qua đây theo học tại trường đại học Saigon để tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam. Nhưng mà sau tôi nghĩ: Steve phải học xong chương trình ấy trước khi qua. Vấn đề không giản dị như chúng ta đã bàn với nhau ở Nữu Ước. Sự có mặt một người Mỹ như Steve trong nhóm chúng tôi hiện bây giờ chưa có lợi gì cho công việc. Và nhận thức của quần chúng về vấn đề cố nhiên là chưa chín chắn gì cả.

Steve, tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhất vào một buổi trưa nóng bức. Đáng lẽ tôi tới Saigon chậm hơn thế, vì theo lộ trình đã định sẵn, máy bay của chúng tôi phải ghé Vọng Các trước. Nhưng sương mù không cho phép máy bay ghé xuống Vọng Các và do đó tôi tới Saigon sớm hơn một tiếng đồng hồ. Khi bánh xe máy bay chạm đất, tôi thấy lòng rung động. Phương Bối chỉ cách đây chưa đầy hai trăm cây số! Bốn giờ đồng hồ xe hơi thì tôi có thể trở về. Trở về với miền rừng núi quen thuộc với chiếc nôi mây êm đềm đã từng che chở cho chúng tôi trong một thời gian bão táp, đã từng un đúcnuôi dưỡng chúng tôi trong bao năm tháng rộng dài.

Sau một thời gian gần ba năm trời sống trong một khung cảnh khác hẳn với xã hội Việt Nam, tôi đa trở về và đã được thức tỉnh lại một cách đầy đủ bằng những hình bóng thật quen thuộc, thật giản dị. Dọc theo con đường dài từ phi trường Tân Sơn Nhất về nhà, tôi chứng kiến lại một cách hiện thực tình trạng chậm tiến của xứ sở này. Những dãy nhà còn lụp xụp ngỗn ngang, đầy nhóc những người, những bác xa phu cong lưng đạp xích lô, mồ hôi nhễ nhại. Tôi còn nhớ rõ cái lưng áo rách toang của một bác xa phu. Bác này uể oải đạp một chiếc xích lô cũ kỹ không có khách. Chắc chắn là bác đã ngồi trên yên quá lâu nên hai mông của bác đã đau và mỏi. Bác đang ngồi trên một cái mông để cho mông bên kia được thong thả, và do đó bác chỉ đạp xe bằng một cái chân trái. Thỉnh thoảng bác mới thay sang bên kia và đạp xe bằng chân này cho đến khi nào có khách gọi bác mới phanh lại và ngồi ngay ngắn để đưa khách. Tôi thấy bọn trẻ con ở trần và chạy chơi chân đất trên hè phố. Tôi trông thấy những đống rác, những xe nước mía, những chiếc xe gắn máy vừa chạy vừa rú lên như những con vật dữ bị thương. Thành phố Saigon đây rồi, thành phố Saigon lấm tấm mang thêm một cách vụng về những nhà lầu những căn phố có đường nét và mầu sắc Mỹ. Dân nông thôn đã đổ xô lên Saigon quá nhiều. Chắc chắn là vùng quê ít chỗ có được an ninh. Những hình ảnh đó khiến tôi nao nao. Việt Nam đang ở trong một giai đoạn lịch sử quyết liệt. Không biết chúng tôi có thể làm được cái gì để đóng góp vào trong cái hướng đi mới của một dân tộc vừa thoát khỏi một chế độ độc tài hay không.

Steve, ngay tối hôm đó, tôi phải nghe nhiều chuyện buồn rồi. Ngồi ở chùa Trúc Lâm với mấy mươi người bạn trẻ tuổi, tôi đã lắng tai nghe những câu chuyện không lấy gì làm vui lắm ấy. Những người quân nhân đã không biết cách nắm lấy cơ hội và khí thế dâng lên của quần chúng để tạo một sức mạnh đi tới. Những người tăng sĩ Phật giáo, choáng ngợp bởi thái độ khâm phục và mến chuộng của quần chúng đối với đạo Phật đã trở nên tự thị tự mãn đáng ghét. Thật là một hiểm họa cho đạo Phật. Một cuộc pháp nạn thứ hai đang khởi đầu mà ít ai biết đến. Người trí thức, người thanh niên sau khi khám phá ra tiềm lực đạo Phật trong quần chúng, đã tìm tới với những vị tăng sĩ, và đã thất vọng… Một số đông đảo những người có tham vọng, những người theo cơ hội chủ nghĩa, đã đến tràn ngập tự viện và bao quanh những nhà lãnh đạo Phật giáo. Sự có mặt của họ xung quanh các thầy đã khiến người trí thức và những người có lòng đặt những câu hỏi. Rồi thì Phật giáo, chính Phật giáo trong cơ hội ngàn năm một thuở của nó, cũng không biết tìm cách để tự phát triển và đống góp phần mình vào cho sự tạo nên một nẻo thoát cho tình trạng đã từng bế tắc trong gần hai mươi năm qua.

Tôi đã ngồi nghe họ rất lâu, Steve. Rồi tôi an ủi họ. Chúng ta đừng thất vọng. Chúng ta sẽ đóng góp phần của chúng ta. Sức chúng ta bé nhỏ, nhưng lòng của chúng ta không bé nhỏ. Hãy tự biến mình thành một chút men để dậy lần lần khối bột to lớn. Chúng tôi đã thức trọn đêm đó, chia xẻ vưói nhau những lo âu, những hy vọng. Những ngày ở lại Paris tôi đã phải đầu tắt mặt tối với các bạn bên ấy. Tiếp đó là một chuyến đi mệt nhọc và một đêm thức trọn. Tôi mệt mỏi quá và đã ngủ suốt một buổi sáng kế tiếp. Đến mười một giờ trưa, tôi mới dậy để ăn “điểm tâm” do Toàn sửa soạn.

Steve ơi, chiều ngày hôm ấy tôi đi thăm những gốc cây, những bụi tre của chùa Trúc lâm và nghe Toàn kể chuyện Sen Hái Đầu Mùa và những hoạt động của các bạn trẻ trong thời tôi vắng mặt. Buổi tối ấy lại có một cuộc họp mặt thứ hai, và trong cuộc họp mặt này chúng tôi đã tìm ra được một vài nguyên tắc để làm việc. Sáng hôm sau, tôi một mình tìm về Phương Bối, mang theo một cái xắc nhỏ. Tôi tìm một chiếc xe Minh Trung ở bến xe đường Pétrus Ký và thoải mái thoát khỏi Saigon. Những cánh rừng, những vườn cao su, và những cánh rừng khác nữa. Rồi Định Quán. Rồi núi, rồi đèo, và cuối cùng rừng B’su Danglu hiện rõ trước mặt Đại Lão Sơn, Đại Lão Sơn quen thuộc đã tới gần. Tôi bảo xe ngừng ở cây số 190 và ung dung xách túi leo lên ngọn đồi bên trái. Qua đồn điền Đại Hà, tôi ghé vào. Không có ai ở nhà cả. Đồn điền có vẻ hoang vắng. Chắc gia đình bác Đại Hà đã để lại một vài người làm công để coi sóc nhà cửa và vườn tược. Những người này có lẽ là đang ở ngoài vườn. Tôi đưa tay lên miệng hú vài tiếng nhưng không có ai trả lời cả. Tôi xách túi tiếp tục leo qua chiếc đồi thứ hai. Lau lách choán cả đường đi. Con đường quen thuộc ngày xưa nay có vẻ hoang vắng lạ thường. Rừng có vẻ huyền bí hơn và nguy hiểm hơn. Vượt khỏi khu rừng xanh tôi bắt đầu trèo đến cái dốc cao nhất. Cầu Mai đã xuất hiện nơi giữa rừng. Vài thân cây bắt ngang qua cầu đã gãy đổ, tôi phải bước cẩn thận. Lạ quá, tôi nhận ngay ra con đường từ cầu Mai lên Thiền Duyệt Thất. Con đường vẫn đẹp, vẫn quyến rũ, vẫn đầy đủ phong độ như cách đây ba bốn năm trời. Có dấu tích của sự phát dọn. Ai đã lên đây trong những ngày như thế này nhỉ. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ. Nhưng kìa, tôi đã đi đến chỗ rẽ vào lối Thiền Duyệt Thất. Tôi nhìn lên Thiền Duyệt Thất. Và tôi sửng sốt. Một người đang đứng ở cạnh Thiền Duyệt Thất, tay cầm một cái xà gạc, nhìn xuống phía tôi. Steve biết đó là ai không? Trời ơi, chính là Nguyên Hưng, Nguyên Hưng bằng xương thịt! Vừa lúc đó thì Nguyên Hưng cũng kịp nhận ra tôi. Chúng tôi gọi tên nhau. Tôi chạy lên, và Nguyên Hưng cũng bỏ xà gạc, chạy xuống. Chúng tôi gặp nhau ở giữa sườn đồi, trên con đường dốc lên thất Thiền Duyệt.

Tôi hỏi Nguyên Hưng: sao Nguyên Hưng lại ở đây? thì ra cái lúc tôi mới về Saigon, Nguyên Hưng đang ở Đalat. Nghe tin tôi về, Nguyên Hưng không xuống Saigon mà lại tìm tới Phương Bối vì biết rằng thế nào tôi cũng phải tìm lên Phương Bối. Mà quả thật Nguyên Hưng đã nghĩ đúng. Dù ai nói Đông nói Tây, tôi vẫn bất chấp những sự nguy hiểm, và đã tìm về Phương Bối. Chúng tôi đã thực hiện một cuộc gặp lý thú - tuy là hẹn gặp nhưng kỳ thực thật đã là một sự bất ngờ đối với tôi. Nguyên Hưng đã nói gì với tôi, Steve có biết không? Nguyên Hưng bảo rằng từ hôm qua khi về tới Phương Bối, Nguyên Hưng dã tự tay phát dọn con đường từ cầu Mai lên Phương Bối, cả xung quanh ngôi nhà Phương Bối và Thiền Duyệt Thất nữa. Nguyên Hưng bảo nếu không làm như thế thì Phương Bối sẽ điêu tàn quá và sẽ gây xúc động cho lúc tôi trở về. Hảo ý của Nguyên Hưng, tôi trông thấy rõ. Chính trong giờ phút tôi tới Phương Bối, Nguyên Hưng còn đang phát dọn xung quanh Thiền Duyệt Thất.

Nhà Thượng đã bị cháy rụi trong một tai nạn gây nên do việc đốt rừng không cẩn thận của người Thượng. Leo lên đỉnh đồi Thượng, tôi nhìn đống than và những cái xác cột nám đen nằm ngổn ngang trước mặt với một niềm cảm thương, than kia là di tích của chiếc nhà Thượng xinh đẹp ngày xưa, nơi chúng ta trải qua bao giây phút êm đềm, ấm áp. Hòa Bình, chúng ta sẽ làm lại nhà Thượng, tôi nói với Nguyên Hưng như thế, sau một hồi trầm ngâm, bằng một giọng quả quyết. Nguyên Hưng có lẽ cũng được an ủi bằng câu nói đó, cho nên gật đầu vui vẻ. Chúng tôi xuống đồi, đi thăm mọi nơi. Thật ra Phương Bối rất có lòng. Ngày tôi về, khóm hồng phía trước còn nở cho ba chiếc hoa đỏ chói. Cây mimosa góc nhà đã lớn và rất xanh tốt. Mấy gốc thông tôi trồng ngày xưa cũng rất xanh và đã lên cao.

Chúng tôi đi dần về phía rừng Tham Thiền. Tấm bảng có những chữ “Đại Lão Sơn Phương Bối Am” ở phía trước vẫn còn nguyên vẹn. Nét chữ vẫn rõ ràng, xương kính. Nước sơn tốt quá, đã năm sáu năm rồi chưa tróc. Tôi cúi nhặt một trái thông, và thấy phảng phất hương của hoa chiều. Chúng tôi tìm được bụi hoa, bứt một ôm những cành hoa có bông trắng xóa và đem lên cúng Phật. Bàn Phật của chúng tôi tang thương quá: lâu ngày không có ai dọn dẹp, bụi đất và lá khô phủ đầy.

Chúng tôi bẻ một ít cành cây quét dọn cho sạch sẽ và dâng bó hoa tươi dưới chân Phật mà nét thủy mạc đã phai mờ. Phương Bối am đã để trống lâu ngay, và tất cả các cửa đều mở để cho những kẻ tò mò ghé qua đây khỏi phải mất công phá cửa, bẻ khóa. Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu trên gác tham thiền trong tư thế cầu nguyện. Rồi chúng tôi trở ra, khép nhẹ cánh cửa. Thời toàn thịnh của Phương Bối đã qua rồi. Còn đâu với những đêm giao thừa với những đống lữa vĩ đại trên đỉnh đồi Thượng. Còn đâu những buổi bình văn sang sảng ở nhà Thượng, những cuộc đàm thoại đầy hứng thú về những vấn đề tâm linh xã hội. Chúng tôi trở nên yên lặng hơn sau giờ phút tĩnh tâm cúng Phật.

Trên hồ nước, trên vách tường, tôi đọc những câu biểu ngữ viết bằng than đen. Những câu biểu ngữ chống đối nhau của hai bên. Nguyên Hưng cho biết rằng một hôm nọ họ bắn nhau dữ dội tại cầu Mai. Những xác chết gần cầu Mai. Rồi những cuộc hành quân kế tiếp. Chính sau biến cố đó, bác Đại Hà đã di cư về tỉnh lỵ. Chỉ còn lại, trong ấp chiến lược bên kia trũng một số gia đình nghèo phải bám lấy mảnh đất đã khai thác.

Nhà Phương Bối xơ xác và hoang lạnh. Các tủ sách của chúng tôi đã được chở về Đại Hà từ lâu, những bàn ghế và vật dụng khác đều cũng được chuyển về Đại Hà. Có nhiều nhóm đã vào đốt củi thức đêm trong các phòng. Thôi nhé, Steve, thôi đừng ấp ủ cái mộng về Phương Bối sống với chúng tôi nữa nhé. Đúng là thời thịnh vượng của Phương Bối đã qua rồi. Phương Bối giờ đây thương tích đầy mình, bây giờ đầy tủi thân và cô độc. Những buổi sáng sương mù, những buổi chiều trong vắt, Phương Bối một mình hoang vắng như một cái tổ chim xác xơ, những con chim đã bay đi cả rồi. Những con chim tuy có ước mong trở lại nhưng mưa gió không cho chúng trở lại.

Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau trên hồ nước cho đến chiều. Phương Bối thật êm ả, dù trong lòng chúng tôi hơi lo. Nguyên Hưng rủ tôi trở lại Đại Hà trước khi chiều xuống. Chúng tôi chia nhau mấy cái bánh bột nếp mà tôi mang theo trong túi xách vừa đi xuống đồi vừa ăn. Chúng tôi tìm về Bảo Lộc bằng xe “lam” và ngủ đêm ở đó để sáng sớm trở về Saigon.

Steve ơi, mấy tháng sau đó vì nhớ Phương Bối quá cho nên chúng tôi lại tìm lên núi Đại Lão. Lần này chúng tôi lên đông có tới mười người. Chúng tôi đều bị một toán linh vây bắt. Sau mấy giờ đồng hồ, chúng tôi được thả, và từ đó, chúng tôi không lên thăm Phương Bối được nữa. Ngồi đây viết cho Steve tôi biết rằng Phương Bối đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Những như biết bao nhiêu làng mạc bao nhiêu núi sông đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Cuộc chiến càng ngày càng trở nên ác liệt và không ai không mông ước cho nó chấm dứt càng sớm càng hay. Chiến tranh gây thương tích khăp nơi trên đất nước và cũng gây thương tích trong mỗi chúng tôi. Hình ảnh Phương Bối trong lòng chúng tôi cũng là hình ảnh của một vết thương. Đúng làmột vết thương.

Tôi sẽ ở lại đây cho đến hết ngày, Steve. Hôm nay chủ nhật, trường học đóng cửa. Ngôi trường của chúng tôi tên là Chim Sơn Ca. Và trạm y tế gọi là trạm Tình Thương. Lát nữa tôi sẽ vào trong xóm để tìm hiểu thêm về đất cát ở đây. Buổi chiều thế nào cũng có một số bạn trẻ về làm việc mà nghiên cứu. Chúng tôi để khá nhiều công phu vào việc nghiên cứuthực hiện cải tiến sinh hoạt của những khu làng thí nghiệm này. Chúng tôi phải tìm ra cho được những phương thức hữu hiệu để thực hiện công cuộc cải tiến sinh hoạt nông thôn. Tương lai đất nước chúng tôi tùy thuộc vào rất nhiều ở những nỗ lực hiện tại để cải tiến xã hội nông thôn. Chủ quyền độc lập của xứ sở chúng tôi như Steve đã biết chỉ có thể đảm bảo khi nào chúng tôi có thể đứng vững trên hai chân của chúng tôi. Như vậy có nghĩa là chúng tôi phải tiến tới một nền kinh tế độc lập vững chãi. Nếu Steve ở đây, Steve sẽ nhận thấy rằng xứ sở của chúng tôi không nghèo. Xứ sở chúng tôi có nhiều tài nguyên chưa khai thác được. Đi thăm miền đồng bằng rồi lên thăm miền cao nguyên. Steve sẽ thấy điều đó là đúng. Chúng tôi phải cải tiến nông nghiệp, nhất định phải đặt nhiều rất nhiều cố gắng ở công cuộc cải tiến nông nghiệp vì nền kỹ nghệ mới phát triển của chúng tôi đang cần đến sự phát triển nông nghiệp. Nông dân cần cung cấp nguyên liệu cho các ngành kỹ nghệ và cũng cần tiêu thụ những sản phẩm của các ngành kỹ nghệ ấy một cách rộng rãi. Có như thế các ngành kỹ nghệ mới được nuôi dưỡng và phát triển trong những bước đầu còn non yếu của mình và quốc gia mới khỏi phải tốn một số ngoại tệ nhập cảng những hóa phẩm để thêm vốn đầu tư vào các ngành kỹ nghệ đang cần được phát triển. Như thế, nông nghiệp cần được hướng dẫn để tự cải tiến về phương diện kỹ thuật lẫn thị trường. Mà sự cải tiến nông nghiệp lại có liên hệ mật thiết đến những vấn đề y tế, giáo dục và tổ chức. Cho nên một cuộc cải tiến toàn diện cần được thực hiện trên ý thức cộng tác của toàn dân. Steve cũng biết rằng trong hàng chục năm qua, người dân đã nghe quá nhiều những hứahẹn cải tiến xã hội nhưng nếp sống cơ cực vẫn hoàn cơ cực. Thêm vào đó, chiến tranh làm cho ruộng vườn hư nát, làm cho cơ nghiệp sụp đổ, làm cho an ninh bị đe dọa. Viện trợ của Hoa Kỳ đủ sức giữ cho nền kinh tế ấy không sụp đổ, nhưng viện trợ ấy càng làm cho Việt Nam phải bám víu vào Hoa Kỳ hơn lên. Chiến tranh đã phá hủy nhiều thứ và không để cho Việt Nam gượng lại để đứng vững trên hai chân kinh tế của mình.

Steve hẳn còn nhớ những lúc chúng ta bàn luận về vấn đề cảm thông giữa người Á Đông và Tây Phương. Chính tôi lắm khi cũng cảm thấy khó khăn khi dùng những phương tiện diễn đạt tư tưởng và tình cảm với Steve. Người Pháp đã ở với người Việt vần một trăm năm. Đã có trường Ecole Francaise d’Extrême-Orient đã hiểu tông chỉ, tính tình người Việt thế mà vẫn không hiểu người Việt mấy tí; thế thì người Hoa Kỳ trong một thời gian ngắn làm sao hơn được. Cứ tin vào thông kê, cứ tin vào dự án, cứ tin vào phương pháp toán học quá. Những thứ đó áp dụng ở cái xứ này không thành công, hoặc chưa thành công đâu, Steve ơi. Tôi về làng, làm việc ở làng lâu rồi tôi biết. Phương pháp làm việc ở đây chắc chắn phải là những phương pháp khác hẳn với những điều người ta học được ở một đại học đường ở Tây Phương. Cho nên giấy tờ, thống kê, dự án đã có thể, trong rất nhiều trường hợp, là những mảnh giấy giúp người ta hợp thức hóa cách tiêu tiền bất hợp pháp. Các ông bộ trưởng, các ông giám đốc cho đến những nhân viên thừa hành của một cái chính quyền chỉ lo kiếm tiền, đều đã làm như thế, và đã khinh thường đến nỗi có một vài đỗ vỡ và bại lộ.

Tôi xấu hổ về một số những người đồng bào tôi khi tôi kể cho Steve nghe điều đó. Nhưng mà tôi phải kể, bởi vì tôi phải giải nghĩa cho Steve nghe tại sao phải bắt đầu trở lại các công việc mà ông Diệm đã hô hào và đã bắt đầu nhiều năm trước. Người dân quê đã bị đánh lừa nhiều lần khiến họ không còn tin tưởng ở một lời hứa hẹn đường mật nào nữa. Họ đã bị lợi dụng. Và họ đã sợ hãi phần đông những người cán bộ mà họ tiếp nhận từ trung ương: Những người này thực chỉ vì một số lương bổng mà trở thành “chiến sĩ - xã hội”. Họ ăn mặc chững chạc, về nông thôn hoặc các “ấp chiến lược” và ở lại đó mấy giờ rồi rút lui. Trong khi ở lại, họ chẳng làm được việc gì đáng kể. Họ chỉ tuyên truyền qua loa chính quyền, và được đào tạo cấp bách, non nớt, không hiểu được tâm lý quần chúng, không có tâm niệm phụng sự, họ nói và làm những điều phật ý nông dân. Họ hống hách khó chịu. Họ đi nghênh ngang dùng súng để bắn chim để dọa nạt và cũng để dân chúng sợ giật nẩy mình. Thế rồi họ rút lui, để lại ấn tượng không tốt trong lòng thôn dã. Họ rút lui bởi vì họ đâu dám ở đêm ở những vùng nông thôn. Mấy ông cán bộ phía trong thì khôn ngoan hơn nhiều. Họ ăn mặc đồ đen giống hệt nông dân. Họ “tam cùng” với nông dân khi họ về một nhà địa phương nào đó. Họ có thể ẳm con, quét tước, rửa bát hay ra đồng gặt lúa với nông dân. Tối đến họ ngủ lại, và chuyện trò. Những cán bộ nhân vị làm sao ăn đứt được họ, hả Steve? Đó là một trong nguyên do cho ta thấy rằng tại sao chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng bị thua lực lượng mặt trận giải phóng. Những “cán bộ” “nhân vị” làm sao ăn đứt được họ, hả Steve.

Chắc Steve đã nghe nói đến nhiều lần về những ấp chiến lược. Những ông cố vấn từ Hoa Kỳ sang xem bộ tin tưởng ở chúng lắm. Nhưng mà những ấp chiến lược chỉ đẹp đẽ và hữu hiệu trong lý thuyết. Trên thực tế, chúng hư nát hết. Lý do là người ta đã xây dựng chúng bằng tiền bạc và bằng bạo lực. Người Mỹ đã tin tưởng quá ở mãnh lực đồng tiền và chính phủ của ông Diệm, đã tin tưởng quá ở sức mạnh bạo lực. Thành trì của những ấp chiến lược, không được xây dựng bằng sự tự nguyện và bằng cộng tác, đã tan rã như những cánh bèo. Steve nên biết rằng ấp chiến lược lập ra, trên lý thuyết, là để tập trung dân chúng lại thành từng vùng có kiểm soát có phòng thủ để ngăn ngừa sự xâm nhậptác động của những người bên kia. Những vùng nào khả nghi thì bị giải tỏa trước. Có những vùng được giải tỏa một cách đột ngột để dân chúng không thể đem ra theo bất cứ một thứ tài liệu nào. Một buổi sáng nào đó, người ta biết gọi tất cả dân chúng, già trẻ trai gái, ra hết ngoài khu vực “ấp chiến lược” trong đó họ sẽ có đất cất nhà mới, vật cất nhà mới, để trồng trọt và luôn cả tiền bạc để sinh sống cho đến lúc có thể tự túc được. Rồi người ta phóng hỏa đốt trọn khu ấy. Đốt như thế để mà tiêu hủy tất cả những thứ nguy hiểm mà ta nghĩ là có thể có rất nhiều trong khu xóm. Dân đau xót và phẫn uất. Steve phải biết: nhà nào cũng có những kỹ niệm tuy đơn sơ nhưng rất thân thiết. Như cái bát hương, cái bài vị, mồ mã của người thân, hoặc những tờ di chúc hãy kỷ niệm vui buồn khác. Tiền bạc đâu có thể thay thế cho những thứ ấy? Họ thất thểu ra đi tới khu đất mới và ở đó, họ được hướng dẫn bởi những người cán bộ của chính quyền để “làm lại cuộc đời”. Họ nhận đôi chút tiền bạc và sống nhục nhã dưới sự hống hách của bạo lực.

Mà nào họ đã được yên thân trong “ấp chiến lược”. Những người bên kia, mà bên này gọi là Việt Cộng, đâu có vì thế mà bị gạt ra ngoài. Họ có mang cái huy hiệu hay cái đồng phục nào đâu để chúng ta nhận ra họ. Thế là họ cũng vào ấp, sống lẫn lộn. Và một buổi sáng nào đó, người ta có thể thấy, trong phòng họp của ấp một trái mìn, một trái mìn bằng gỗ thôi, một trái mìn giả, có mang dấu hiệu Việt Cộng. Thế là cái hàng rào kẽm gia xung quanh ấp trở thành vô nghĩa. Trái mìn kia nói thay cho một lời dọa nạt: Có chúng tôi đây, các anh liệu hồn. Giả sử trái mìn thật thì các anh nghĩ sao?

Vậy là tinh thần phòng thủ của ấp đã lung lay. Một trận giặc mà không có trận tuyến như thế, làm sao có thể đánh bằng súng đạn không mà được?

Ấp chiến lược, như Steve thấy, nhắm tới một mục tiêu quân sự và chính trị chứ không nhắm tới mục tiêu xã hội. Chính vì thế mà những tuyên truyền về cách mạng xã hội đều không được ai nghe theo. Chúng tôi thấy rõ điều đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật và vô tổ chức.

Chúng tôi hiện có hai làng thí điểm tại miền Nam, hai làng tại miền Trung - một tại Khánh Hòa, một tại Thừa Thiên. Chúng tôi, trong thời gian đầu cũng bị người dân nhìn với những cặp mắt lạnh lùng. Thái độ họ là thái độ khép kín, nghi ngờ. Dù anh tuyên truyền gì cũng vô ích. Họ lạnh và cứng như một tảng thép nguội. Đó là hậu quả của những công trình “cách mệnh xã hội” đi trước. Chúng tôi hết sức kiên nhẫn, khiêm cung và cẩn trọng. Sau một thời gian, thái độ đó thay đổi. Đến lúc mà họ nở một nụ cười vồn vã, mình thấy ấm áp cả tâm hồn. Họ trở thành cởi mở, sốt sắng. Họ hưởng ứng và tham dự vào các dự án một cách chân thành. Được họ chấp nhận, mình thấy như con đường đi tới thành công được rút ngắn lại một phần trăm. Mà Steve ạ, chính lúc cộng tác với họ để thực hiện các dự án cải tiến sinh hoạt, ta mới thấy được khả năng và tiềm lực của xã hội nông thôn trong công cuộc tạo dựng một đời sống tiến bộ.

Xã hội chúng tôi đã bị phân hóa quá, bởi vì chiến tranh đã tàn phá đức tin, tàn phá hy vọng, tàn phá mọi công trình kiến thiết lâu dài. Ngày nay quần chúng nghi ngờ mọi thiện chí, mọi hứa hẹn. Chúng tôi nhận thấy ngoài chất liệu tôn giáo, không còn có chất liệu nào có thể tạo dựng được đoàn kết tính và xã hội tính. Cho nên phải xử dụng cho được tiềm lực tôn giáo để thực hiện những sự chuyên đổi lớn. Đạo Phật có thể đóng góp nhiều vào việc này. Nhưng mà chưa thể nương tựa vào những người có trách nhiệm lãnh đạo các giáo hội đâu. Họ có bảo thủ tư kiến nhiều quá và khó chuyển hóa quá. Dự án tôi đề nghị với Viện Hóa Đạo về kế hoạch xã hội hóa đạo Phật đã không được chú ý. Hiện giờ nó vẫn còn nằm trong hồ sơ của Viện Hóa Đạo. Chúng tôi phải bắt đầu từ chỗ tự lực để tranh thủ một sự chấp nhận sau nầy của quần chúng và của giáo hội nữa. Của quần chúng trước, đó là điều dĩ nhiên. Ở Âu Châu và ở Hiệp Chủng Quốc, hiện tượng đó không lạ gì. Chúng tôi đã làm xong một dự án về một tổ chức đào tạo những “Làng tự nguyện”. Những người này sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, có đủ kiến thức về xã hội về tôn giáo và nhất là về phương pháp thực hiện các dự án chống nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt và vô tổ chức. Họ sẽ hành động không vì lương bổng, quyền hành mà vì tình thương ý thứctrách nhiệmý thức tự nguyện. Họ sẽ là những người thanh niên cũng như Steve, cũng như Nguyên Hưng vậy, có đức tin, có chí nguyện biết khinh thường nếp sống trưởng giảcầu an, biết tìm hạnh phúc trong phụng sự. Chỉ với chất liệu tâm lý do chí nguyện đó, họ mới có thể thành công. Mà những người trai trẻ như thế, Steve, không hiếm ở đất nước này đâu. Tôi dám chắc với Steve là có hàng vạn hay hàng chục vạn. Tôi đã gần gũi họ trong những ngày gần đây, và đã thấy trong mắt họ sáng lên trong niềm tin mới. Chỉ trong mấy tháng nữa chúng tôi khai giảng trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và ngôi trường này sẽ là một trường chuyên nghiệp thông thuộc một viện đại học trẻ trung vừa mới thành lập. Ban giảng huấn của trường gồm toàn những người trẻ tuổi, tất cả đều nao nức về công việc sắp thực hiện. Chúng tôi không có tiền bạc, nhưng chúng tôi đã có kế hoạch và rất nhiều thiện chí, Steve có nghe không?
 
 

Hết chương 10

VIII 

Hôm thứ bảy, nghĩa là sau đó hai hôm, tôi đi chùa lễ Phật cầu nguyện cho mẹ bởi vì hôm đó nhằm ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày giỗ của mẹ. Tình cờ hôm đó tại chùa cũng có đại lễ kỷ niệm bảy mươi năm ngày Phật giáo du nhập Hợp Chủng Quốc. Lễ này tổ chức liên tiếp trong ba ngày và có nhiều đại biểu từ các tiểu bang đến dự. Ngôi chùa không to lớn gì, thành thử giảng đường nơi hành lễ cũng chỉ lớn bằng giảng đường chùa Ấn Quang. Vậy mà họ gọi là đó là Mỹ Quốc Phật Học Viện (American Buddhist Academy). Cái tên thì lớn, kỳ thực chùa chỉ có một số lớp dạy giáo lýthực hành cho các cư sĩ, còn ngoài ra thì dạy pha trà, cắm hoa và đàm thoại Nhật ngữ. Chùa thuộc hệ phái Tịnh Độ Chân Tông và do hai vị trông nom: Hozen Seki vị trú trì. Và giáo sư Phillips giảng sư. Vị này trước là giáo sư ở đại học đường Delaware.

Để tôi nói sơ lược về Phật giáo bên này cho Nguyên Hưng nghe. Ở Hiệp Chủng Quốc có vào khoảng tám mươi ngàn người theo đạo Phật, trong đó phần lớn là người Nhật và người Trung Hoa hoặc đã trở thành công dân Mỹ, hoặc chưa. Trung tâm Phật giáo đặt tại 1710 đường Octario, Cựu Kim Sơn. Các “tăng sĩ” đều là tân tăng của phái Tịnh Độ Chân Tông, khoảng bảy mươi vị, hầu hết là người Nhật rải rác trong các tiểu bang, một số có mặt trong các đại học Mỹ để dạy về ngôn ngữvăn chương Nhật Bản. Có năm mươi bốn ngôi chùa lớn nhỏ rải rác khắp toàn lãnh thổ. Ngôi chùa ở Nữu Ước so với các ngôi chùa ở Cựu Kim Sơn thì nhỏ bé hơn nhiều. Trong số những người về dự lễ, tôi gặp hai tu sĩ Nam Tông khoác áo vàng, đại đức Anuruddha và đại đức Vinita một người từ tiểu bang Connecticut, còn một người từ Massachusetts. Lễ dâng hương cử hành lúc ba giờ chiều. Vị đại sứ Tích Lan, ông Susantha de Fonseka, cũng có mặt để đọc diễn văn chúc mừng.

Tôi đi bộ một mình đến chùa và đi thật thong thả. Chùa chỉ cách nơi tôi ở có năm ô (bloc) ở vào số 331 đường Riverside Drive. Khi tôi đến thì gần đến giờ thuyết pháp. Khán giả chỉ chừng hai trăm người gồm nhiều quốc tịch trong đó đa số người Nhật. Bài giảng không gây nổi cảm hứng làm tôi thất vọng. Ở đất này mà giảng như thế thì không làm sao gieo được hạt giống đạo Phật trong quần chúng. Nguyên Hưng cũng biết, giáo lý Tịnh Độ Chân Tông cũng như tổ chức của Tịnh Độ Chân Tông không khác giáo lý Thệ Phản là mấy, cả hai đều chú trọng đến tha lực. Vậy thì món ăn đó không thể nào được gọi là mới lạ đối với người Anh và người Mỹ. Thêm nữa để diễn giải giáo lý Cơ đốc của họ, đã có biết bao viện thần học, bao nhiêu nhà truyền giáo xuất sắc; trong khi đó tổ chức Tịnh Độ Chân Tông ở đây thiếu cơ sở giáo dụcđào tạo bắt chước một cách thiếu thông minh nên không thể không chứng tỏ sự kém cỏi non nớt của mình. Thực ra dân Mỹ là một dân có tinh thần tự lập tự cường; trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội, con người được đào luyện để có tinh thần tự lập ấy và để khỏi phải nương tựa và sống bám vào những kẻ khác. Như thế chắc chắn một giáo lý như giáo lý tự lực của Thiền Tông sẽ rất thích hợp với họ. Giáo lý Thiền Tông hoàn toàn căn cứ vào tự lực để xây đắp, phát triển và giác ngộ bản thân trong lúc giáo lý Cơ ĐốcTịnh Độ tự nhận khả năng thiếu kém của con ngườinhấn mạnh đến năng lực cứu độ của một thế lực bên ngoài. Cho nên Nguyên Hưng sẽ không lấy làm lạ khi thấy sự truyền bá của đạo Phật Tịnh Độ ở đây chưa gặt hái được những kết quả nào đáng kể. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy tư tưởng Thiền được hâm mộ một cách nồng nhiệt ở đây. Giáo sư Suzuki đã gây được những tiếng vang lớn lao về thiền học ở đất nước này. Sống trong một xã hội quá hoạt động, quá náo nhiệt, và khi đã mệt mỏi vì những tính toán những suy luận hình thức, cố nhiên người ta khao khát một cái trầm tĩnh, tươi mát và tự tại như tinh thần Thiền học. Có sống ở đây Nguyên Hưng mới thực chứng được điều đó.

Để bù lại sự thiếu kém về nội dung giá trị tư tưởng, các nhà truyền giáo Tịnh Độ ở đây phải dùng đến những hình thái sinh hoạt văn hóa Nhật. Người Mỹ ưa món ăn Nhật, nghe đàn Koto, chứng kiến các cuộc pha trà, cắm hoa, vân vân. Thế cho nên sau thời thuyết pháp, có một buổi trình diễn đàn Koto. Mà buổi trình diễn đàn Koto độc chiếc ấy đã kéo lại thăng bằng cho buổi giảng. Ngồi hai bên tôi là những người Mỹ. Họ tỏ vẻ lơ đãng trong thời thuyết pháp như họ lại đã tỏ ra rất thích thú khi nghe đàn Koto.

Tôi cũng thích những bài đã được trình diễn hôm ấy lắm, Nguyên Hưng. Nhạc sĩ Kimioto Eto. Chàng còn trẻ, vào khoảng ba mươi tuổi, khuôn mặt hiền hậudễ thương. Trong chiếc Kimono màu đen, chàng bước chậm chạp lên diễn đài, theo tay dìu đỡ của một chàng thanh niên khác. Tôi nghĩ có lẽ vì mắt chàng không trông được rõ. Sau lời giới thiệu của đại đức Saki, chàng chậm rãi ngồi xuống, mỉm cười lặng lẽ, và không nói năng chi. Sao mà tôi yêu cái dáng điệu ấy quá. Chẳng bao giờ chàng nhìn xuống khán giả. Chàng chỉ để tầm mắt trên khoảng rộng của chiếc đàn phủ khăn trắng. Và nụ cười của chàng, nụ cười thật lạ kỳ, thật là lặng lẽ, thật là hàm xúc. Tôi không ngờ ở đất này mà có được một nụ cười như vậy.

Chàng nói là chàng sẽ đàn để cúng dường ngày kỷ niệm 70 năm Phật giáo du nhập Mỹ quốc, để dâng lòng thành lên đức Từ Bi. Con số bảy, chàng nói, nó rất quan trọng đối với chàng. Cha chàng mất đây bảy năm, và mẹ chàng cũng từ trần bảy tháng trước. Nay là lễ bảy mươi năm kỷ niệm Phật giáo du nhập. Và đôi mắt nhỏ lệ. Khuôn mặt trầm lặng, tràn đầy xúc cảm; một niềm cảm xúc lẫn lộn trong tín ngưỡng, thương nhớ và bâng khuâng. Chàng đàn, những bản tự do tay chàng sáng tác. Bản đầu tiên là bản tiếng hát hy vọng. Điệu nhạc tuy trầm buồn thao thức nhưng chứa đầy sức sống nhẫn nại, chứa đầy ý chí cố gắng đi tới. Bản thứ hai là bản Gió mùa thu ngát hương thương nhớ, và bản thứ ba. Tiếng nói tin tưởng của chàng đối với đạo Từ Bi. Mỗi bài được cách khoảng với bài khác bằng một thời gian lặng yên trong nụ cười trầm tĩnh. Xong bản thứ ba, chàng nói cho mọi người biết là hai mắt chàng mù và chàng không thấy gì hết. Mọi người xúc động; tôi cũng xúc động cả tâm hồn, bởi vì trước đây không ai nghĩ rằng chàng lại là một người mù.

Nước mắt tôi muốn trào ra; tôi đứng dậy ra về trước mọi người, bỏ nữa chừng cuộc trình diễn. Tôi thấy như vậy là quá đủ. Trên con đường Bờ Sông tôi đi thong thả từng bước một, lòng thấy bâng khuâng. Nụ cười của Kimioto vẫn còn nguyên vẹn, huyền diệu, trầm lặng. Nếu không biết khổ đau, không bao giờ người ta có thể có được một nụ cười như thế. Và tôi hiểu tại sao nụ cười đã làm cho tôi xúc động ngay từ khi tôi mới trông thấy chàng.

Đường Riverside Drive vắng vẻ. Đột nhiên tôi nhớ tới lời những người bạn dặn dò không nên đi một mình trong đêm khuya trên các con đường vắng đô thành. Nữu Ước có rất nhiều bọn bất lương như bất cứ thành phố nào trên thế giới. Nghĩ như thế, tôi định rẽ sang đường 108 để trở vào Broadway. Vừa rẽ sang đường 108 tôi bỗng thấy mặt trăng, tròn như khuôn mặt hoa sen đức Phật, hiện ra giữa mảnh trời do hai nhà hàng nhà cửa cao vút bên đường chừa lại. Thật là mầu nhiệm. Mặt trăng ở về phía trước mặt tôi, và cũng đi về phía tôi đi.

Mặt trăng Rằm tháng Chín. Chắc là mẹ tôi cũng đi theo tôi đến chùa khi trăng mới mọc.

Cái mặt trăng ấy đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe thuyết pháp, đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe trình diễn đàn Koto. Và mặt trăng ấy bây giờ cũng lại đi theo tôi về tận nhà. Sáu năm về trước, mẹ tôi mất vào ngày trăng tròn tháng chín… Trăng khuya bao giờ hiền hòa êm dịu và mầu nhiệm như tình mẹ. Trong suốt bốn năm trời tôi có cảm giác rất rõ rệt là tôi mất mẹ. Nhưng mà có một đêm tôi nằm mơ thấy mẹ, và từ lúc đó, cảm giác kia không còn nữa. Tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả, và những đau khổ xót xa trước kia chỉ là những ảo giác trong một giấc mộng. Tôi còn nhớ đó là một đêm tháng tư ở cao nguyên. Tôi nằm mơ thấy mẹ tôi, dung nhan không có gì biến đổi. Tôi nói chuyện với mẹ tôi rất tự nhiên, không có một mảy may cảm giác rằng tôi trong bốn năm, chịu đựng ý tưởng mất mẹ. Chắc Nguyên Hưng muốn hỏi tôi rằng trong bốn năm ấy tôi có lần nào nằm mơ không. Có, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi vài lần, nhưng mà những lần thấy như thế không có tác dụng gì rõ rệt sau khi tôi tỉnh thức cả.

Lần này, khi tỉnh thức, tôi cảm thấy tâm hồn bình yên một cách kỳ lạ và tôi thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một cái gì do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của mẹ tôi không tùy thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có, không phải vì diệt mà mẹ tôi không có. Cái có với cái không là sáng tạo phẩm của nhận thức chủ quan và do có không hẳn là có và không không hẳn là không. Có là để đối với không, và không là để đối lại với có. Thực ra, đã có thì không thể nào là không, và từ không thì không thể nào sinh ra có. Tôi không muốn lý luận với Nguyên Hưng, tôi chỉ muốn nói với Nguyên Hưng, thế thôi. Bữa đó, tôi thức dậy vào lúc một giờ rưỡi khuya và thấy phép mầu hiển hiện. Niềm đau xót không còn nữa và tôi chứng thực rằng ý tưởng mất mẹ trong suốt bốn năm vừa qua chỉ là những ý tưởng. Thấy được mẹ trong giấc mơ ấy rồi tức là thấy mẹ tôi mãi mãi. Điều này tôi càng thấy rõ hơn khi tôi đi mở cửa đi ra vườn. Vườn đầy ánh trăng khuya dịu dàng và nhiệm mầu. Đó là sự có mặt của mẹ, nhớ thương, đó không là một sự tự an ủi mình. Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ ở đâu và lúc nào tôi muốn.

Nguyên Hưng, hồi tháng tám trong lúc còn ở Medford, tôi có viết để làm quà cho những người trẻ tuổi quen biết ở nhà một đoản văn tôi là Bông Hồng Cài Áo. Ngồi ở trong nhà gỗ Pomona, tôi đã viết ra những dòng chữ giản dị kia trong lúc chim hót vang rừng. Khi tôi gửi nó đi rồi - tôi gởi cho Nhiên - tôi mới biết rằng những cảm nghĩ trong ấy phát sinh từ một cái nhìn khá mới lạ, cũng là cái nhìn mà tôi đã diễn tả trong lá thư viết cho thầy Thanh Từ. Ngày xưa nói về văn học Việt Nam, tôi cứ giảng đi giảng lại mãi câu thơ:

“mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.

của Mãn Giác Thiền Sư đời Lý, rất khâm phục ý tưởng của tác giả nhưng mà chưa bao giờ đón nhận được cái tâm tư của tác giả một cách đích thực. Thì ra trong lúc nhận thức cởi mở, trong lúc cái vỏ cứng nứt rạn, ta có thể trông thấy những điều thật là mầu nhiệm. Cũng như ta có thể thấy được sự hiện hữu của cành mai trong một đêm tăm tối và lạnh lẽo của mùa Đông.

Chúng ta sinh vào thời đại trong đó sự xung đột giữa các giá trị cũ và mới đang sắp đi đến chỗ kết thúc. Tuy vậy nó chưa kết thúc được, và dấu vết của sự xung đột còn hằn lên rõ ràng trong tâm hồn chúng ta. Những câu hỏi mới của triết học đã làm cho chúng ta bơ vơ thêm, lạc lõng thêm, thao thức thêm. Trong trạng thái rối bời của tâm trí, ý niệm về sự vô lý của hiện hữu xấu xa, con người xấu xa; con người muốn tốt cũng không thể nào tốt được, hiện hữu muốn đẹp cũng không thể nào đẹp được. Trong tình trạng đó lắm khi chúng ta còn có ảo tưởng rằng chúng tatự do, chúng ta còn là chúng ta. Nhưng hẳn Nguyên Hưng cũng đã từng biết rằng kinh nghiệm bản thân rằng chúng ta nhiều khi chỉ viết chính tả, mà kẻ đọc cho chúng ta viết vốn không phải là ta mà lại là những dấu vết được ghi trên chúng ta, hoặc nói một cách khác hơn là mệnh lệnh của nghiệp lực cộng đồng. Chúng ta đã không được là chúng ta thì, nếu chúng tatự do đi nữa, tự do đó cũng không phải là tự do của chúng ta. Có lúc chúng ta không còn “ham” tự do nữa, có lúc chúng ta sợ hãi tự do: đó là tại vì chúng ta không thực là chúng ta. Chúng ta bị bao phủ rất là nhiều lớp rong rêu và vôi gạch. Chúng ta cần đập vỡ tất cả để được giải thoát. Nhưng chúng ta sợ sự đập vỡ đó, bởi vì chúng ta cứ tưởng những lớp vôi gạch rong rêu đó mà vỡ thì chúng ta cũng vỡ luôn, mà những lớp vôi gạch rong rêu đó, than ôi, có phải là chúng ta đâu.

Ngày tôi khám phá ra cái điều mà tôi nói đó, tôi bổng thấy tôi nhìn tất cả mọi vật với một cặp mắt khác lạ. Trước hết, tôi nhìn vào tôi, và tôi thấy thân thể tôi quả là một cái gì mầu nhiệm. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi như thế. Tôi thấy không có lý do gì mà ta lại có thể nhìn thân thể ta, một trong năm phần của hợp thể ngũ uẩn, với một cặp mắt coi thường. Chúng ta có khuynh hướng coi thường những gì nằm trong tầm tay của chúng ta. Chúng ta đánh giá chúng một cách quá hạlắm khiu mê chúng ta nguyền rủa sự tồn tại của chúng. Như đôi mắt của tôi đây chẳng hạn. Vì tôi có đôi mắt, và vì tôi cho đó là một sự thực hiển nhiên - mà hiển nhiên sao được, làm gì mà hiển nhiên được một cách dễ dàng thế - cho nên tôi không chú trọng tới chúng, không cần hỏi han chúng, không nhận được thông điệp của chúng và do đó tôi mất chúng. Có cũng như không. Chỉ khi nào người ta bị mù đột ngột, người ta mới cảm nhận được sự hiện hữu trước kia của đôi mắt; nhưng cảm nhận như thế thì muộn quá rồi. Một người mù được sáng mới biết thế nào là sự hiện diện quý giá của một đôi mắt; người đó có thể sống sung sướng ngay trên trái đất, sung sướng hơn cả trên thiên đường. Thế giới đầy màu sắc này, cùng với đôi mắt kia là những gì thật mầu nhiệm, là những gì có thể hiến dâng cho chúng ta những sung sướng ngây ngất. Từ lúc đó chẳng khi nào nhìn mây trắng trời xanh mà tôi lại không nhìn với nụ cười. Thế giới đột nhiên giầu có hẳn lên và tươi sáng hẳn lên. Người mù mới sáng có thể tìm thấy thiên đường, nhưng hắn sẽ làm quen với thiên đường trong một thời gian ngắn, rồi vẫn coi thường thiên đường, cho thiên đường là cái gì hiển nhiên. Và vì vậy, hắn sẽ mất thiên đường trong vài ba tuần lễ, nhiều lắm trong vòng ba tháng. Trong khi đó một con mắt tâm linh của Nguyên Hưng sẽ không bao giờ làm mất thế giới pháp thân.

Hồi nhỏ chúng ta được dạy rằng những đau khổ lớn của con người là sinh, lão, bệnh, tử, là ước mong mà không được thành tựu, là hợp nhau mà không được chung nhau, là khắc nhau mà vẫn vẫn phải gần nhau. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, những đau khổ đích thực của con người không nằm trong sinh, lão, bệnh, tử, không nằm trong trường hợp ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc. Nó nằm ở trong cái cách chúng ta nhìn thực tại. Quả là như vậy đó, Nguyên Hưng. Sinh lão bệnh tử, sự chia cách, sự kết hợp vẫn có những mầu nhiệm của chúng, vẫn là những đặc tính quý giá của hiện hữu. Điều quan trọng nhất là làm như thế nào ngồi yên lành trên những đợt sóng hiện tượng đó với một nụ cười của bản thể không sinh không diệt.

Tôi nhớ trong kinh Bảo Tích có một đoạn như sau đây. Phật nói: Có một người nhặt cục đất ném vào con chó. Con chó đau quá, tức giận chạy theo cục đất để cắn trả thù. Con chó không biết rằng kẻ thù không phải là cục đất mà là người ném cục dất. Cũng như vậy, những kẻ khờ dại nghĩ rằng mầu sắc, âm thanh, hương vị v.v… là nguyên do khổ đau và kết luận rằng muốn hết khổ đau thì phải tiêu diệt hoặc lánh xa sắc, thanh, hương, vị, xúc… Kỳ thực đau khổ không nằm trong sắc, thanh, hương,vị xúc. Đau khổ nằm nơi cách nhìn và sử dụng của chúng ta đối sắc, thanh hương vị xúc. Vấn đề là như thế. Chúng ta khổ đau không phải vì thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫnvô lý mà vì chúng ta đã nhìn thực tại qua những lớp màn nhận thức đen tối mang nặng tư kiến tư dục của chúng ta để thấy thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫnvô lý. Có lần đi xa quê nhà hằng năm phải nói tiếng ngoại quốc cả ngày tôi bổng thấy nhớ những giọng nói quen thuộc quá chừng. Lắm khi tôi ao ước được nghe những giọng nói quen thuộc ấy đến nỗi tôi nghĩ rằng vài ba phút thôi cũng đủ làm cho tôi sung sướng suốt ngày. Mà kỳ lạ thực, Nguyên Hưng, tự nhiên - sao lại tự nhiên - một buổi sáng chuông điện thoại reo và tôi được nghe tiếng của Phượng từ bên nhà gọi sang. Câu chuyện tuy ngắn ngủi và chỉ gồm có một số câu hỏi về công việc nhưng tôi cũng thấy quý giá và do đó cũng sung sướng đến mấy ngày. Từ đó mỗi khi nói chuyện với một người thân là tôi để hết tâm ý vào câu chuyện và ngthe thấy cả tiết điệu của giọng nói. Tôi phân biệt được giọng nói và cả những lo âu những cảm động những thao thức vân vân… chứa đựng trong giọng nói. Đó thật cũng là một điều mầu nhiệm. Dễ gì mà nghe được như thế, hiểu được như thế và cảm nhận được như thế. Tuy vậy trong chúng ta ai cũng có điều kiện để nghe, để hiểu để cảm nhận. Tôi không bao giờ còn thái độ khinh suất và lơ là với bất cứ một hiện tượng nào xẩy ra đến trước giác quan của tôi. Một cái lá rơi vào phòng hay một tiếng kêu của em bé chơi đùa dưới bãi cỏ non cũng là một sứ giả của hữu thể. Tôi nhìn ngắm, lắng nghe tiếp nhận thông điệp của hữu thể đó do chúng mang đến. Sự xa cách người thân yêu, sự thất vọng sự chạm trán với những gì ta không ưa thích cũng trở nên mầu nhiệm và tràn đầy tính cách xây dựng. Nhờ những thứ đó mà tôi mới được là tôi. Nguyên Hưng mới được là Nguyên Hưng và nụ cười kia mới có thể là một nụ cười. Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, thấy những yếu đuối những dại dột của con người cũng có những khía cạnh mầu nhiệm của chúng. Có những bông hoa khi nở rồi thì không bao giờ còn héo tàn nữa. Nhìn dưới ánh sáng ấy thì sinh diệt nào có khác chi niết bàn. Vì vậy có một đêm trong giờ tư duy tôi bỗng muốn la lên rằng: sự nghiệp của các đức Phật đã được hoàn tất tự những bao giờ, và sở dĩ nó đã hoàn tất cũng vì nó chưa bao giờ thực sự khởi đầu cả.

Nguyên Hưng, nhìn lại lịch sử nhân loại và nhìn lại quá khứ của chúng ta, Nguyên Hưng sẽ phải công nhận rằng quả tình Nguyên Hưng không thể phân biệt được cái gì là thực sự may và cái gì thực sự rủi, cái gì thực sự tốt và cái gì thực sự xấu. Chắc Nguyên Hưng còn nhớ câu chuyện người trại chủ mất ngựa. Mất ngựa có hẳn đó là rủi ro không, điều đó chỉ có một cái nhìn bao quát thời giankhông gian mới trả lời được. Bất cứ sự thành công nào cũng kéo theo sự bất lợi của nó và bất cứ sự thất bại nào cũng đóng góp được vào cái ánh sáng trí tuệ hoặc cái thành công của tương lai. Ta có thể nói rằng cái kia vừa may lại vừa rủi, vừa tốt lại vừa xấu, và như thế có khác chi nói rằng không thực sự có may, rủi, tốt, xấu mà chỉ có nhận thức ngắn và hẹp của con người tạo nên tốt xấu. Tất cả đều là những phân biệt biến kế của nhận thức. Nguyên Hưng, người ta nói rằng không thể nào thành lập được một nền luân lý nếu không thiết lập được tiêu chuẩn thiện ác. Nhưng mà mây bay hoa nở, gió thoảng, nước trôi có cần đến luân lý đâu, có cần đến tiêu chuẩn thiện ác đâu. Thế mà nhiều kẻ lại khen ngợi họ là những bậc thánh, những nhà đại luân lý, nhiều kẻ lại nhìn vào họ, xét nghiệm hành động ngôn ngữtư tưởng họ để cố thiết lập ra một nền đạo đức luân lý có cơ sở tiêu chuẩn thiện ác đàng hoàng, và gán cái nền luân lý tìm ra ấy cho họ. Họ chỉ mỉm cười. Nếu nói rằng chính họ, họ không biết thế nào là thiện là ác, thì chắc là không ai không nghĩ rằng họ nói đùa. Chỉ có người điên mới nói thực một câu như vậy. Cho nên người điên nào cũng khó tìm ra một tri kỷ để trao tâm ấn của mình. Một nhà thi hào là gì? Đó là một người không biết gì hết về kỹ thuật vần điệu. Chỉ khi nào anh không phải là thi hào, anh mới biết thế nào là vần điệu mà thôi.

Thế thì, Nguyên Hưng, thứ cam lộ mỗi ngày mà họ uống có thể được bọn phàm nhân xem là độc dược. Mà nói cho ra lẽ, thì độc dược bao giờ cũng là độc dược đối với ai. Đối với người đã nhìn thấy sự vật, thì nhận thức đồng thời là hành động; đâu có thể nói rằng ta phải thiết lập triết lý hành động trên cơ bản triết lý nhận thức, khi chúng ta còn là tù nhân của ý niệm ngôn từ thì chúng ta mới vướng vào sự phân biệt nhận thức và hành động mới có cái hăng hái trẻ con để bàn luận về triết học hành động. Đối với kẻ đã nhìn thấy thì không có sự nhận thức chân lý cũng như khôngphương châm hành động. Không có sự chứng đắc và không có đối tượng của chứng đắc. Tâm Kinh đã chẳng nói thế là gì. Và bởi vì đã là sự sống chân thực, đã là gió thoảng, là mây bay, là nước trôi, là hoa nở, kẻ kia cần gì phương châm hành động. Khi người ta bay thì người ta không cần biết đến những luật lệ những dấu hiệu đi đường của xe cộ, dù là xe lớn hay xe nhỏ. Ngôn ngữ kẻ kia sẽ là ngôn ngữ của mây, của gió, của hoa, của nước. Anh đừng đến đặt cho họ những câu hỏi vớ vẫn về triết học. Họ sẽ trả lời anh bằng một câu thơ, hoặc giả họ sẽ hỏi anh xem anh ăn cơm chưa, đã rửa bát chưa. Nếu anh bị bó chặt trong câu hỏi họ sẽ chỉ ra núi rừng:

“Bất tín, chỉ khán bát cửu nguyệt.

Phân phân hoàng diệp mãn sơn xuyên!”

Phải rồi. Không tin, hãy ngắm mùa thu đến; tơi bời lá rụng ngập sơn xuyên. Còn nếu anh cứng đầu thì họ có thể lấy gậy đánh anh cho anh chừa đi cái thói quen đem kính khái niệm đi soi chân lý. Nguyên Hưng ơi, ở Phương Bối chúng ta mà có được một thi sĩ như thế thì núi rừng đã đẹp lại càng thêm đẹp, phải không.

Trong kinh Phật, từ ngữ trang nghiêm được dùng theo nghĩa làm cho đẹp và Bồ-tát trang nghiêm Phật độ có nghĩa là sự hiện hữu của các vị Bồ-tát làm cho đất Phật đẹp đẽ hẳn lên. Tôi nhớ có lần vua Huệ Tông nhà Lý nghe danh Hiện Quang thiền sư, cho người lên núi mời ngài về cung. Người từ chối, trả lời rằng nội các vị Thiền sư tài đức hiện đang phục vụ ở thủ đô cũng đã là trang nghiêm đến điện các rồi. Sự có mặt của người đạt đạo quả có thể làm đẹp cuộc đời bằng chính đạo đức vô hành của họ. Mà đạo đức vô hành thì làm gì có tiêu chuẩn, có phương châm hả Nguyên Hưng.

Bây giờ là mấy giờ, Nguyên Hưng biết không? Còn mười lăm phút nữa là nửa đêm. Lễ Giáng Sinh sắp đến rồi. Nghĩ cũng thật là một điều mầu nhiệm. Tôi thức trong cái giờ linh thiêng này, ngồi đây viết cho Nguyên Hưng. Những ý tưởng của tôi trào lên và tôi cảm thấy dễ chịu khi trút chúng bớt xuống đầu ngòi bút. Tôi vừa nói cho em nghe về nguồn linh cảm đã khiến cho tôi biết nhìn, biết nghe thế giới hiện tượng một cách cẩn thận. Có những giây phút chỉ xảy đến một lần hoặc vài lần trong đời, xảy đến như sự xuất hiện của một vị sứ giả của chân như, một thông điệp của thực tại, và nếu ta vô tâm, ta sẽ để cho chúng đi qua và không bao giờ trở lại. Bí quyết của Thiền tông chắc hẳn là ở chỗ khám phá được đường đi nẻo về của những giây phút như thế và sửa soạn, cống hiến cơ hội cho chúng trở lại. Và cuối cùng, làm cho ánh sáng rạng rỡ của nó tỏa chiếu rạng rỡ trong một chuyến trở về, không từ đâu tới mà cũng sẽ không đi về đâu. Để tôi đọc cho Nguyên Hưng nghe bài thơ sau đây của Quách Thoại nóivề sự hiện diện của bông hoa thược dược:

“đứng yên ngoài hàng dậu

em mỉm nụ nhiệm mầu

lặng nhìn em kinh ngạc:

vừa thoáng nghe em hát

lời ca em thiên thâu

ta sụp lạy, cúi đầu…”

Nguyên Hưng có nghe gì không? Tôi thấy rất rõ là giây phút đã xuất hiện bức màn đã hé, dù trong giây lát, và thi sĩ đã thấy. Bông hoa thược dược đứng ngoài hàng dậu kia, có lẽ vì “hiển nhiên” quá, nên không ai thực sự trông thấy. Khi tâm linh ta nghe được tiếng hát bất diệt của nó và nhìn thấy nụ cười nhiệm mầu của nó thì nó không còn là một bông hoa thược dược tầm thường nữa. Nó là sứ giả, nó là thông điệp, nó là pháp thân. Tôi nhớ có lần Trụ Vũ ca ngợi:

“cánh hoa là tứ đại

mà tỏa hương tinh thần

mắt em là tứ đại

mà rạng ngời yêu thương”

Tôi tưởng Trụ Vũ không ca ngợi mà thốt ra những lời biểu lộ một sự ngạc nhiên. Giây phút cũng đã tới, ánh sáng lòe lên rồi lại tắt. Nhưng trong một đời người mà có được một lần thấy, nào có phải là ít ỏi gì đâu. Đã thấy được một lần thì có thể thấy mãi. Vấn đề là ở chỗ ta có tha thiết không, có thành khẩn không, có cẩn trọng không, thế thôi. Trong thế hệ những người trể tuổi đang bị giam giữ vào ngục tù của chán nản, của sự vô lý và sự tự khinh, ta thấy không biết bao nhiều người nhận thức thực tại như một cái gì nhầy nhụa và thân thể tâm hồn mình như một vũng bùn tanh hôi. Thảm thương biết bao. Sự giải thoát, như thế, chỉ có thể đi tìm nơi hủy diệt. Tứ diệu đế nên áp dụng trong mục đích tìm ratiêu diệt nguyên nhân của nhận thức đen tối ấy thì là một điều quý hóa. Còn nếu, vì muối giải thích biện hộ cho sự thực thứ nhất bằng cách phải bôi lem bức tranh thực tại, gán cho thực tại tính cách khổ tự nó không có gì đó là bắt đầu một cuộc vu khống to lớn. Thực tại không khổ không lạc, chỉ có qua nhận thức ta nó mới là khổ hay lạc mà thôi. Nói như thế, Nguyên Hưng ơi không phải là nói rằng những trận động đất, những con vi trùng, những trận chiến tranh, những hiện tượng sinh lão bệnh tử… là không có thực. Chúng có thực chứ, cũng như muôn ngàn hiện tượng khác. Nhưng tự thân của chúng không phải là sự đau khổ. Và con người có thể giảm thiểu sự hiện hữu của chúng đến một giới hạn nào đó. Còn tiêu diệt chúng hoàn toàn, đó là điều không thể thực hiện. Cũng như muốn có trắng mà không có đen, có dài mà không có ngắn, có sinh mà không có tử, có một mà không có nhiều. Tính cách biến kế của nhận thức tạo tác ra thế giới khổ đau, những như người thợ vẽ vẽ ra hình ma quỹ và khiếp sợ chính những bức hình của mình. Những bức hình ấy, Nguyên Hưng ơi, nào phải là ảo ảnh: nó là những bức hình có thực.

Nguyên Hưng, đêm mùng hai tháng mười tiếp sau đó là một đêm tôi cần ghi nhớ. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một trời đầy sao sáng, không trăng; nhưng ngôi sao nào cũng sáng cũng đẹp cũng lấp lánh, cũng to như đôi mắt của trẻ con, trên một nền trời không gợn mây. Cố nhiên khung trời đó chỉ là khung trời nội tâm. Vì hôm ấy ở thành phố tôi ở mưa gió về đầy trời. Các cửa phòng đều đóng kín. Suốt một đêm tôi không ngủ, vì có muốn đi ngủ thì “cũng không thể nào ngủ được”. Đầu hôm tôi thức để đọc Bonhoeffer, và giai đoạn chót của đời chàng đã giúp tôi làm bừng tỉnh dậy cái bầu trời đầy sao sáng sẵn có trong tâm linh mỗi người. Tôi bỗng thấy sung sướng lạ kỳ và có cảm nghĩ rõ rệt rằng tôi có thể chịu đựng nổi. Viết đến đây tôi còn thấy tâm hồn rạt rào những cảm xúc mới lạ, và có lẽ Nguyên Hưng cũng đang chia xẻ những cảm xúc ấy với tôi. Bonhoeffer chỉ là một giọt nước cuối cùng làm tách nước tràn đầy, một nhân duyên cuối cùng, một làn gió nhẹ thổi tới cho trái cây chín muồi rụng xuống. Được sống trọn một đêm như thế thì ta không nên than trách chi hết nữa về cuộc đời. Những đêm như thế đẹp lắm Nguyên Hưng; lòng ta ngập tràn thương yêu. Can đảmnghị lực dâng tràn, ta thấy óc và tim ta là những đóa hoa; những cảm xúc, những rung động, những đau khổ của chúng ta đều hiện hữu một cách rất mầu nhiệm, tuy ta biết rằng hình hài ta vẫn là hình hài của chính ta. Nguyên Hưng chớ cho rằng đó là một trạng thái tôn giáo, đạo đức hay thánh thiện của tâm hồn, khơi động do một nguồn cảm thông hay một ân huệ thiêng liêng nào. Trạng thái tâm linh ấy hoàn toàn nhân bản. Tôi biết, ngay trong giờ phút đó, không có thần thánh, không có giác ngộ ngoài tim tôi, phổi tôi, những hạch tiết tuyến, những tế bào của cơ thể tôi. Sự sống đã mầu nhiệm mà khổ đau cũng mầu nhiệm. Cuộc đời sẽ xấu xí sẽ đen tối và sẽ không thể có, nếu không có khổ đau. Trong cuộc đời không có thường có ngã nhưng cũng không có vô thường vô ngã. Không có sự chết nếu quả thực ta thấy được sự sống. Chỉ nên nói sự sống, và đừng bao giờ dại đột nói Sự sống miên viễn; mệnh đề sự sống miên viễn cũng như ý niệm trường sinh bất tử tự nó là một sự mâu thuẫn, một sự dốt nát, một sự tham lam. Tham lam chỉ là dốt nát; và tham lam dốt nát đánh mất chính sự sống.

Suốt một tháng, tôi tiếp tục tư duyquán tưởng hình dung các vị Bồ-tát trong Kinh Pháp HoaBát Nhã. Chân dung các vị ấy đẹp lắm, hèn gì các vị ấy không “trang nghiêm” được cho đất Phật. Mà cần gì là đất Phật. Cứ nói đến trái đất của chúng ta đây, sự có mặt của các vị Bồ-tát như thế cũng đủ làm cho đất chúng ta trở thành đất Phật? Cây nêu mà dân Việt dựng lên để ăn tết cũng phản chiếu ước muốn của dân ta rằng đất này là đất Phật, có phải không Nguyên Hưng.

Có khi tôi thấy các vị Bồ-tát trong hình dáng nghèo nàn và lem luốc nhưng khỏe mạnh của họ. Như Trì Địa như Thường Bất Khinh. Một người thì chuyên môn đi nối lại những cây cầu gãy và đắp lại những con đường hư làm gián đoạn giao thông và liên lạc. (Thế giới chúng ta hôm nay có biết bao niều cây cầu đã gãy đổ và bao nhiêu nẻo giao thông bị cắt đứt, hả Nguyên Hưng? Và thế giới chúng ta hôm nay đã có được bao nhiêu Trì Địa, đem tâm lực và thân lực mình để nối lại những nhịp cầu thông cảmhiểu biết giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác?) Người thứ hai thì đi đâu cũng nói vào tai mọi người rằng: ông có đủ khả năng tiến tới, vậy hãy tin ở sức mình, đừng nên có mặc cảm bất lực, đừng nên thụ động. “Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ thành Phật”. Bức thông điệp của bình đẳng, của tinh thần tự tín tự lực ấy nếu không do những con người kiên nhẫn như Thường Bất Khinh mang đi thì biết do ai? Nguyên Hưng cứ nghĩ đến những người dân quê ở xứ ta và những người dân quê ở các nước chậm tiến khác. Ai nói cho họ biết rằng họ tin nơi sức lực của chính họ để tạo một tương lai cho chính họ, một tương lai mà họ có quyền nắm lấy như bất cứ ai? Thế giới của chúng ta đang cần có thêm nhiều vị Bồ-tát như thế, luôn luôn trên các nẻo đường về, gieo rắc niềm tin, sự tự lực tự cường cho nhân loại. Còn Bồ-tát Quan Thế Âm nữa, mà sau này được gọi là Quán Tự Tại. Chân dung của người là chân dung của sự cảm thông và của sự tìm tới với khổ đau không ngần ngại không e sợ bất cứ một trở ngại nào. Nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời và tìm tới bằng mọi cách. Tìm tới trong bất cứ một hình dáng nào thích hợp. Nguyên Hưng, một vị tăng sĩ, một nhà chính trị, một nhà tư bản, một nhà cư sĩ, một người đàn bà, một em bé, một thiên thần, một con ác quỷ… hình dáng nào thích hợp thì dùng hình dáng ấy. “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phu nữ thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dọa xoa, càn thát bà, atula, khẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”. Nguyên Hưng có nghe không? Thế giới chúng ta ngày nay phải được cứu nguy bằng mọi mặt bằng mọi hình thức mọi hình thức mọi phương tiện theo tinh thần đại bi tự tại của Quan Thế Âm, phải được xây dựng bằng thái độ dấn thân của tinh thần Thường Bất Khinh, Trì Địa. Lại còn hình dung của Địa Tạng nữa; hình dung của một con người muốn có mặt nơi chốn nhiều đau khổ nhất của cuộc đời. Chừng nào địa ngục còn chưa trống không thì chừng ấy tôi còn phải ở lại địa ngục. Dấn thân mà với tinh thần như thế thì mới thực là dấn thân, có phải không Nguyên Hưng. Tôi tưởng ở đâu có những con người như thế là ở đấy đất phải nở hoa, dù cho ở địa ngục. Dù cho ở bất cứ địa ngục nào.

Nguyên Hưng, tiếp tục đi tìm hình dung các vị Bồ-tát, lắm lúc tôi thấy họ trong những chiếc áo thật đẹp, ngọc minh châu sáng ngời trên đầu, trên tay và trên cổ. Nguyên Hưng hãy nghĩ đến Vô Tận Ý xem. Các vị tăng sĩ thì không bao giờ được miêu tả bằng những hình dáng như vậy. Chắc chắnhình dáng đó tượng trưng cho sự trang nghiêm tịnh độ. Sự có mặt của họ làm dẹp cho cuộc đời. Áo của các vị Bồ-tát đẹp như những chiếc áo trẻ em ngày Tết. Tôi nghĩ đến một ngày hội đầu xuân. Không ai nhìn thấy khổ đau của con người rõ bằng các vị. Nhưng cũng không ai giữ được nụ cười tươi không bao giờ héo như các vị. Tôi nghe họ nói: chúng tôi không có mặt để khóc than; chúng tôi có mặt để làm đẹp cho cuộc đời. Cám ơn, cám ơn các vị. Cám ơn các bạn. chúng tôi sẽ mặc những chiếc áo đẹp nhất mà chúng tôi có thể cùng với các bạn tô điểm cho cuộc đời. Các vị sẽ sung sướng lần đầu được những người sùng bái các vị gọi các vị là bạn. Các bạn sẽ không còn bị xa cách và bị hiểu lầm do những người quá sùng kính các bạn nữa. Chúng tôi thấy sự có mặt của các bạn rồi. Chúng tôi đến đây, và chúng tôi không có một mảy may tự hào, một mảy may kiêu ngạo, phạm thượng. Chúng tôi chỉ đến với tình thương, với sự hiểu biết. Chúng tôi đã thoát khỏi chiếc vỏ cứng đã từng giam hãm chúng tôi. Này con chim hoàng oanh, cổ họng ngươi tuy bé nhỏ nhưng ngươi hãy hát lên sáng nay, để ca ngợi tính cách mầu nhiệm của thực hữu. Chuỗi ngọcVô Tận Ý vừa trao tặng cho Quan Thế Âm thì long lanh, sáng ngời, trong suốt; tràng nhạc của người cũng sẽ long lanh, sáng ngời trong suốt như thế. Để cho nắng mai tuôn chảy trên các sườn đồi như những dòng thủy tinh và để cho tất cả các bông hoa lớn nhỏ trên cánh đồng cỏ xanh đều cùng nở một lượt đón chào sự tỉnh thức mầu nhiệm.

Nguyên Hưng, tôi đã nói đến cái đêm mầu nhiệm trong đó óc tim tôi nở như những đóa hoa, và tôi tìm thấy các vị Bồ-tát không như những thần linh xa cách con người mà là những người bạn quý mà ta có thể gặp ngay trong cuộc sống này. Tình cờ mà những điều tôi thấy phù hợp với những điều trong bài “nguyện sinh” mà chúng ta thường đọc hàng ngày: Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Tim ta và óc ta một khi đã nở thành những đóa hoa thì những đóa hoa này sẽ không bao giờ héo cũng như những đóa sen nở ở Tịnh Độ. Sen nở thì thấy được ánh sáng và tìm được bạn đường.

Nguyên Hưng, hôm qua viết cho Nguyên Hưng, đến đúng nửa đêm Giáng sinh thì tôi ngừng lại. Tôi mặc áo thật ấm, mở cửa ra ngoài và đi đến Campus Center. Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Đến Campus Center tôi gặp anh Ralph Nelson đang ngồi bó gối xem TV một mình trong gian phòng rộng thênh thang. Tôi đến ngồi cạnh Ralph và theo dõi chương trình đặc biệt đêm Giáng sinh. Tôi nghĩ có lẽ Ralph buồn lắm, và cô đơn lắm trông một đêm như đêm nay. Ralph quê ở tận miền Nam, xa quá không về nhà được trong dịp lễ Giáng sinh này. Ralph đã lái xe hơi từ hôm qua, về miền tây Pennsylvania, để thăm một người bạn. Và trên đường về Princeton hôm nay, Ralph bị kẹt tuyết và suýt phải ngủ giữa đường. Ngủ giữa đường thì nguy hiểm lắm, dù là ngủ trong xe, dù là quay kín các cửa xe lên. Bởi vì trời rét lắm không thể chịu nổi. May mắn Ralph vượt khỏi chướng ngạitrở về Campus lúc mười một giờ. Tôi hỏi: “Anh cảm thấy buồn không, trong đêm Giáng sinh này, khi mọi người đều en famille? “Tôi sống lẽ loi cũng quen rồi, Ralph đáp, thành ra không buồn lắm”. Tuy vậy khi ngó anh ta, tôi biết anh ta đang buồn. May mắn lúc đó, máy truyền hình bắt đầu trình bày một phim trào lộng nên tôi thấy trên miệng Ralph một nụ cười. Một giờ rưỡi khuya chúng tôi đi Campus center. Thì ra tuyết vẫn tiếp tục rơi. Tuyết lên cao tới gần đầu gối. Tôi phải lội về Brown Hall từ giả Ralph, rồi vào phòng lau chân thay bít tất, hơ chân vào lò sưởi.

Năm ngoái tôi đi chơi suốt một ngày Giáng sinh bằng xe hơi ở vùng quê và đã chứng kiến được không khí thân mật của các gia đinh vào ngày lễ ấy. Thật không khác gì ngày tết bên ta. Trẻ con và người lớn ai cũng có quà, và có rất nhiều quà. Tôi bị một em nhỏ hỏi: “Ông theo đạo Phật hả? Vậy ở xứ ông, người theo đạo Phật như ông có ăn lễ Giáng sinh không?” Tôi trả lời: “Có chứ, bên xứ tôi người Phật tử ăn lễ giáng sinh vào ngày rằm tháng tư và họ gọi ngày Giáng sinh là ngày Phật đản.” Tôi nghĩ đến những chú bé con như thế ở trại Cherroskees và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.
 
 

Hết chương 8
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26007)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21440)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23219)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14655)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12877)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19668)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13746)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22697)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11924)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12364)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 23872)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13660)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25478)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19179)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23135)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21334)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18268)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 13928)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15393)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17762)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21886)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17459)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30779)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 27897)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14824)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17078)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22561)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28048)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 13922)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 16968)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22239)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14095)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21413)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20719)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28364)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 14993)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26503)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19163)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31415)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30435)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 20896)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26000)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23473)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25504)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25204)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19614)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18361)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17687)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 18954)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant