Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ Mười Sáu: Chia Xá Lợi

09 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7723)
Thiên Thứ Mười Sáu: Chia Xá Lợi

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TỔ CỒ ĐÀM

Maha Thongkham Medhivongs

THIÊN THỨ MƯỜI SÁU

CHIA XÁ LỢI

-ooOoo-

Khi đức Thế Tôn nhập diệt xong có vị Phạm Thiên tên Sahampati nói câu kệ: SABBAVA NIKKHIPISSANTI v.v... Tất cả chúng sanh trong thế gian nầy đều phải bỏ sanh mạng nầy, mặc dầu đức Thiên Nhơn Sư là vị Chánh đẳng Chánh giáchồng danhThập Lực không, có nhân vật nào trong tam giới nầy có thể sánh bằng mà cũng chưa phải bỏ sanh mạng nầy lại.

Ðức Thiên vương Ðế Thích có nói:

ANICCÀVATTA SANKHÀRÀ v.v... Nghĩa: Các pháp hành thật không bền vững, nó có tánh cách sanh diệt là thường, chỉ có Niết bàn là nơi diệt khổ mà là nơi an vui tuyệt đối.

Ðức Anuruddha nói:

NÀHU ASSÀSAPASSÀSO v.v... Nghĩa: Hơi thở ra vào và tâm còn ngự trong thân của đấng cao cả, Ngài tìm được đặc ân tối thượng, Ngài hưởng sự an lạc của Ðại định. Tâm Ngài không bao giờ thối chuyểnhoàn toàn trong sạch, đã diệt trừ hết khổ, xa lìa phiền não. Những phiền não ấy không thể nào tàng ẩn trong tâm của đấng Giác Ngộ được. Giờ đây Ngài đã nhập diệt.

Ðại Ðức Ananda nói:

TADÀSI YAM BHISANAKHAM v.v... Nghĩa: Bao giờ đức Chánh đẳng Chánh giác nhập Niết bàn thì quả địa cầu nầy rung động và tất cả những hiện tượng phi thường phát sanh.

Khi ấy, chư Tỳ khưu còn phàm chưa dứt được phiền não khóc than rằng: Ô! Ðức Thế Tôn vội nhập diệt quá. Ánh sáng rọi sáng đường luân hồi đã tắt rồi.

Chư thiện nam tín nữ cũng than khóc vì thương nhớ đức Thế Tôn. Ðại Ðức Ananda thấy chư thiện tínchư Thiên khóc than như vậy nên Ngài mới thuyết pháp về sự suy gẫm thân nầy là Vô thường, Khổ nãoVô ngã theo đúng Phật ngôn dạy trong bài kinh ANICCATÀ PATISAMYUTTA.

Khi ấy, đức vua và các vị hoàng tộc Malla đến và đem dâng một ngàn cây gấm lụa thật đắc giá để che rạp nơi Phật nhập diệt, ngoài ra còn có đủ thứ châu báu quí giá đem đến trang điểm nơi ấy thật đẹp. Ðức vua và dân chúng trong xứ đều tựu lại làm lễ thật là long trọng cả sáu ngày đêm. Ðến ngày thứ bảy mới hội nhau lại tính đem Thánh thể của Ngài đến nơi hỏa đài làm lễ tẩn liệm. Tất cả mọi người đều bằng lòng đưa Thánh thể của Ngài ra cửa Nam. Khi ấy chọn được tám vị hoàng thân tráng kiện nhứt, và là người đẹp trai nhứt trong xứ để khiêng long sàng của đức Thế Tôn đang nằm nhập diệt. Nhưng mặc dầu tám vị ấy có một sức mạnh phi thường nhưng không sao lay chuyển được long sàng của Phật đang ngự. Ðức vua lấy làm lạ mới vào bạch hỏi Ðại Ðức Anuruddha .

Ðại Ðức dạy: Ý kiến của chư Ðại vương và quần chúng tương phản với ý của chư Thiên. Vì vậy nên chư Thiên không để Ðại vương di động được long sàng nơi Thánh thể đức Thế Tôn đang ngự.

- Bạch Ðại Ðức, vậy ý kiến của chư Thiên thế nào?

- Tâu Ðại vương, chư Thiên định đưa thánh thể của đức Thế Tôn ra hướng Bắc rồi trở vào thành theo cửa hướng Ðông, đến trung tâm thành vào hướng Ðông, đưa đến an ngự tại tháp Makutabandhana trước cửa thành nội rồi làm lễ hỏa táng nơi ấy.

Ðức vua liền phán rằng: Bạch Ðại Ðức nếu chư Thiêný kiến thế nào thì trẫm thật hành theo thế ấy. Chư Thiên lấy làm hài lòng rồi cùng nhau cúng dường cuộc lễ đưa Thánh thể của đức Thế Tôn đi thật là long trọng, có tiếng đàn hát thật hay, thật êm tai của chư Thiên và người hòa nhau, tiếng trống vang rền.

Khi đi ngang qua nhà của bà Mallikà là vợ của vị Tướng quốc xứ Thất La Phiệt là Bandula (Vị nầy bị đức vua Ba Tư Nặc giết oan; xin xem Thiên mười ba tích ông Vidùdabha). Bà nghe tin nhà vua và dân chúng đưa Thánh thể của đức Thế Tôn ngang nhà bà, bà nghĩ: Từ khi chồng ta thác oan đến nay đồ trang điểm tên là Mahàlapasàdhana (Theo Pháp Cú kinh có dạy rằng: món trang điểm nầy rất quí người thời ấy chỉ ba người dùng nổi thôi. Ba người ấy là: 1) Bà đại thí chủ Visàkhà , 2) Con của một vị Trưởng giả vợ của ông Devapàniya, 3) Bà Mallikà phu nhân của Tướng quốc xứ Thất La Phiệt là ông Bandula, mà bà cũng là một vị Công chúa xứ Malla)

Của nầy ta không còn có dịp để trang điểm nữa, vậy ta nên cúng dường cho Phật bảo. Bà liền dạy người nhà phải đánh bóng cho sáng.

Khi tám vị hoàng thân đưa Thánh thể đức Thế Tôn đi qua nơi ấy. Bà gọi: Các con ơi, hãy dừng lại để cho ta làm lễ cúng dường (Bà gọi như vậy vì những người nầy vẫn là người trẻ và thuộc hàng cháu bà).

Tám vị ấy liền dừng lại để bà đem vật cúng dường ấy đắp trên Thánh thể của đức Thế Tôn, nhờ những châu ngọc và vàng ấy làm tăng sự tốt đẹp, hào quang càng chiếu sáng; vì món vật ấy không khác nào vương miện là vật mà bà thường đội trong khi dự dạ hội lúc ông Tướng quốc còn tại thế. Khi để vật cúng dường lên bà phát nguyện: Bạch đức Thế Tôn do nhờ phước báu của sự cúng dường hôm nay, đệ tử nguyện khi mà còn luân hồi trong tam giới, đệ tử sanh lại kiếp nào cũng được trang điểm đồ quí báu như kiếp nầy, như những vật nầy.

Khi đưa Thánh thể của đức Thế Tôn đến hỏa đài là nơi tháp Makutabandhana an vị nơi đã an bài sẵn. Ðức vua và hoàng tộc cùng dân chúng đến hỏi Ðại Ðức Ananda rằng: Bạch Ðại Ðức vậy thể thức tẩn liệm Thánh thể của đức Thế Tôn phải làm sao?

- Phải dùng nghi thức của vua Chuyển Luân Thánh Vương, phải bao Thánh thể của Ngài bằng lụa năm trăm vòng, dùng dây tơ cột chặt để vào hòm vàng có đầy nước hoa quí, ngoài cái hòm ấy còn có một cái hòm vàng khác chụp lên trên. Xong rồi đưa linh cửu lên để trên hỏa đài mới làm lễ hỏa táng. Sau khi tắt lửa lượm lấy Xá lợi làm phù đồ (Tháp) nơi hoả táng giữa ngã tư đường để chúng sanh lễ bái cúng dường gieo duyên lành về ngày vị lai.

Ðức vua cùng hoàng tộc và dân chúng thực hành theo lời chỉ giáo của Ðại Ðức Ananda. Ðức vua làm hỏa đài toàn bằng cây trầm hương, bề cao hỏa đài một trăm hai mươi hắc tay, khi làm xong thỉnh linh cửu lên an vị trên ấy.

Khi ấy trong hoàng tộc cử ra bốn vị Trưởng lão để lên đài làm lễ hỏa táng. Nhưng các Ngài không thể làm sao cho lửa cháy được, đức vua lấy làm lạ vào hỏi Ðại Ðức Anuruddha. Ngài dạy: Chư Thiên muốn quí vị hãy đình chỉ lại đợi vị đại đệ tử là đức Ca Diếp về hãy làm lễ.

- Bạch Ðại Ðức, bao giờ Ðại Ðức Ca Diếp về đến?

- Ngài sẽ về đến ngày hôm nay.

Ðồng thời ấy, Ðại Ðức Ca Diếp dẫn năm trăm vị Tỳ khưu từ rừng xứ Pàvà về xứ Kusinàrà. Khi gần đến thành Kusinàrà đã trưa nắng gắt, Ngài nghĩ: Ðường còn chẳng xa lắm, ta nên cho chư Tăng nghỉ một lúc rồi sẽ đi cũng chẳng muộn. Thế nào chiều nay cũng đến thành Kusinàrà yết kiến đức Từ Phụ. Ngài liền cho chư Tăng nghỉ mát.

Khi ấy có người ngoại đạo ở xa đến, người nầy dùng bông Mạn thù che nắng như một cây lọng. Ðại Ðức Ca Diếp thấy hoa ấy mới nghĩ bông Mạn thù trong tay của người ngoại đạo kia không bao giờ có trong cõi thế gian nầy. Chỉ có khi đức đại Bồ Tát giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót, khi giáng sanh, lúc xuất gia, ngày Thành đạo, khi Chuyển pháp luân, lúc dùng thần thông thắng kẻ ngoại đạo và ngày Nhập diệt, khi ấy mới có mưa hoa lạ. Ta lấy làm lo ngại cho đức Thế Tôn vì Ngài đã già, chắc Ngài đã nhập diệt rồi chăng? Vậy ta nên hỏi người ngoại đạo nầy cho biết. Ngài không dám gọi người ngoại đạo lại hỏi sợ thất lễ vì hỏi chuyện của Phật. Nên Ðại Ðức lại đứng dậy mặc y phục chỉnh tề đi đến gần người ngoại đạo mà Ngài làm lễ xong (không phải làm lễ người ngoại đạo mà Ngài làm lễ ân đức Phật trước khi hỏi đến chuyện Phật) hỏi: Thưa ông, ông có được biết tin của đức Thế Tôn chúng tôi chăng?

Người ngoại đạo thấy Ðại Ðức rất lễ phép nên mới nói: Thưa ông, Ðại Ðức Sa môn Cồ Ðàm đã nhập diệt được bảy ngày rồi, và tôi lượm hoa Mạn thù nầy từ thành Kusinàrà để làm chứng chắc.

Khi chư Tỳ khưu còn là hạng phàm nhơn nghe tin ấy lấy làm buồn thương đau khổ khóc than rằng: Ôi! Ðức Thế Tôn ơi, Ngài vội nhập diệt. Ngài là ngọn đuốc soi đường cho chúng sanh trong tam giới đã tắt rồi, đời trở nên tối tăm mờ ám, còn chư Thánh Tăng không tỏ ra khổ sở buồn thương vì Ngài nhận thấy các pháp phải đi đến chỗ tiêu diệt như vậy.

Trong khi ấy có một vị Tỳ khưu xuất gia khi tuổi đã già tên là Subhadhà mới khuyên chư Ðại Ðức than khóc ấy rằng: Các thầy không nên buồn rầu khóc than làm chi, giờ đây chúng ta được thoát ly khỏi uy quyền của ông đại Sa môn Cồ Ðàm ấy rồi. Khi ông ta còn sống hằng trừng phạt rầy la chúng ta rằng: Ðiều nầy không nên làm, điều kia chẳng nên làm. Giờ đây ông đã nhập diệt, ta muốn làm chi thì làm không ai bắt buộc kềm chế.

Ðại Ðức Ca Diếp cũng có nghe câu ấy. Ngài nghĩ: đức Thế Tôn vừa nhập diệt có mấy ngày mà đã có bọn Tỳ khưu phá giới, không hổ thẹn tội lỗi.

Nhân dịp ấy, Ðại Ðức dạy chư Tăng pháp suy nghĩ chán nản thân nầy. Rồi Ngài dẫn chư Tăng đi đến nơi làm lễ hỏa táng. Ðại Ðức dẫn chư Tăng đi quanh hỏa đài ba lần, đảnh lễ xong bạch rằng: Bạch hóa đức Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đệ tử tên là Maha Ca Diếp được Ngài liệt vào hạng đại đệ tử cao quí về hành mười ba hạnh đầu đà. Khi đệ tử còn là người ngoại đạo, Ngài vì lòng từ bi thương hại đệ tử đi lạc đường nên không nệ hà cực nhọc ngự đi hằng ba dặm đường tế độ đệ tử, rồi Ngài cho đệ tử y của Ngài thường dùng là y mà Ngài lượm vải quấn lấy tử thi của cô tớ gái tên Punna khi Ngài ở Uruvela, y ấy tự tay Ngài giặt, may lấy, khi Ngài lượm lấy y đến khi hoàn thành xong y, quả địa cầu rung động chín lần. Y nầy rất cao quí vì một đời của một đức Phậtmột lần như vậy thôi. Y nầy chỉ riêng một mình đệ tử được Ngài ân tứ cho mà thôi, không có vị đệ tử nào có đặc ân được Ngài ân tứ mặc dầu vị ấy là đệ tử tay phải hay tay trái. Bạch đức Thế Tôn nếu thật đệ tử là người mà đức Thế Tôn chiếu cố đến, xin cho hai bàn chân của Ngài có hình bánh xe và hình các loài thú ló ra trên hai bàn tay của đệ tử đang đảnh lễ Ngài đây.

Như ta đã biết khi tẩn Thánh thể của đức Thế Tôn quấn năm trăm lớp tơ lụa và cột lại bằng dây tơ. Nhưng chuyện phi thường lại phát sanh giữa hàng đại chúng là: Dường như đức Thế Tôn còn yêu thương Ðại Ðức Ca Diếp nên tự nhiên hai bàn chân của Ngài từ trong năm trăm lớp hàng quấn chặt và hai lớp hòm vàng ló ra trên tay Ðại Ðức như mặt trăng ló ra từ trong đám mây đen sau khi vừa dứt câu phát nguyện của Ðại Ðức Maha Ca Diếp.

Khi ấy Ðại Ðức lại bạch tiếp: Bạch hóa đức Thế Tôn, từ ngày đệ tử được dự vào hàng Thánh nhơn, không bao giờ có sự lỗi lầm mặc dầu một lỗi thật nhỏ đối với đức Thế Tôn. Hơn nữa đệ tử không dám phạm vào một điều răn cấm nào thật nhỏ bằng cách vô ý. Có lúc nọ đức Thế Tôn dạy đệ tử rằng: Ca Diếp ơi, ngươi đã già rồi mà vẫn hành hạnh đầu đà lượm vải dơ làm y, những cái y ấy vải dày nặng nề lắm vậy ngươi hãy xả bỏ hạnh đầu đà ấy để thọ lãnh y của thí chủ là các vị trưởng giả hay người giàu sang vua chúa cúng dường cho ngươi cho nhẹ bớt đi phần nào. Ngươi hãy ở chung với Như Lai.. Ðức Thế Tôn ơi! Lòng từ bi của Ngài đối với đệ tử thật là sâu rộng ví như đại dươngtrái lại đệ tử không được ở bên Ngài để hầu hạ sớm trưa. Chỉ ở nơi rừng sâu thanh vắng, đây thật là sự dễ duôi của đệ tử. Ðệ tử xin Ngài từ bi tha thứ cho Ca Diếp, hôm nay nơi hỏa đài xin dập đầu xin Ngài tha tội.

Sau khi ấy Ngài và năm trăm vị Tỳ khưu đảnh lễ xong Ngài cũng không phát nguyện xin cho hai bàn chân thục vào quan tài, nhưng hai bàn chân tự động thục vào, và chỗ chân ló chân ra cũng liền lại như cũ.

Khi ấy tiếng than khóc của chư Thiênnhân loại càng vang động hơn khi đức Thế Tôn vừa nhập diệt. Và lửa dưới hỏa đài cũng vừa phát cháy, đây là do nơi oai lực của chư Thiên làm lễ hỏa táng. Sau khi lửa tắt lại có chuyện phi thường là bốn trăm chín mươi chín lớp hàng bao Thánh thể của Ngài cháy hết chỉ còn một lớp bọc Xá lợi, như người gói Xá lợi sẵn rồi vậy, đây là do nơi oai lực lời phát nguyện của đức Thế Tôn khi Ngài nhập diệt.

Có bảy đoạn Xá lợi không bể là: Unhisa: Xương trán, Danta : bốn cái răng nhọn, và Akkhaka: hai cái xương vai. Những đoạn nầy còn nguyên thật đẹp. Ngoài ra những đoạn xương khác đều cháy hết không phân biệt được. Nhưng những Xá lợi ấy có thể chia ra làm ba phần là:

1) Ðức Xá lợi lớn bằng hột đậu xanh cân nặng được năm cân.
2) Ðức Xá lợi đoạn vừa lớn bằng hột gạo cân được sáu cân.
3) Ðức Xá lợi đoạn nhỏ hết bằng hột mè cân nặng năm cân.

Tất cả Xá lợi ấy có màu sắc khác nhau là: Ðức Xá lợi đoạn lớn có màu như màu hoàng kim. Ðức Xá lợi hạng vừa có màu như ngọc pha ly. Ðức Xá lợi đoạn nhỏ hơn hết có màu như bông Bakula .

Sự thật, chư Phật lúc quá khứ vị nào tuổi thọ nhiều muôn năm Ngài không để Xá lợi lại cho nên Xá lợi ấy không nát vụn ra, khi hỏa táng xong đóng lại một cục to như vàng khối. Nhưng đức Từ phụ của chúng ta hiện tại đây Ngài nghĩ rằng: Tuổi thọ của Như Lai rất vắn đối với chư Phật quá khứ. Vì vậy nên Ngài phát nguyện rằng: Sau khi Như Lai nhập diệt xin chia Xá lợi của Như Lai chia ra làm ba đoạn khác nhau. Hàng đại chúng chia nhau ra mỗi nơi để làm tháp cúng dường hầu gieo được duyên lành với Phật pháp sau nầy, và cũng là một nhân làm cho chúng sanh trong sạch với Tam bảo mà được sanh về nơi nhàn cảnh.

Sau lễ hỏa táng bảy ngày; thì bỗng dưng có nước từ hư không chảy xuống hỏa đài để tắt lửa, nhà vua cũng đem nước hoa lại tưới hỏa đài cho mau tắt. Ðức vua làm một cái hòm vàng nhỏ đem lại đựng Xá lợi đưa về thành che rạp bằng hàng lụa quí để dân chúng đến cúng dường. Sau ấy mới đưa về hoàng cung để trên ngai vàng nơi đức vua lâm trào ngự trên ấy.

Ðức vua lo âu về người sẽ trộm Xá lợi của Ngài, nên Ngài hạ lệnh quan Tướng quốc phải chuẩn bị bảy đội hùng binh canh giữ hoàng thành thật nghiêm mật để Ngài làm lễ cúng dường bảy ngày đêm. Trong cuộc lễ ấy có đủ cuộc vui nào là múa hát đờn kèn, tóm lạitrò vui nào có trong thời kỳ ấy đều đem ra trình bày tuỳ thích.

Mặc dầu đức Thế Tôn đã nhập diệt có rất nhiều người biết, nhưng đức vua A Xà Thế xứ Ma Kiệt Ðà lại không hay biết gì hết, mà trái lại Ngài là một nhà vua sùng đạo nhứt trong thời kỳ ấy.

Các vị Ðại thần hay tin ấy nhưng không dám cho hay vì quí vị biết rằng: Khi đức vua hay chuyện ấy sẽ đem tai hại lại cho Ngài không nhỏ, vì Ngài rất thương mến kính trọng đức Thế Tôn hơn tất cả những gì mà Ngài đã có. Nhưng kết cuộc chẳng dám giấu tin ấy nên cho Ngài hay. Trước khi cho biết các Ngài lấy ba cái chum vàng để bốn chất nước có vị ngọt cho người khiêng vào để ngay nơi đức vua ngự rồi tâu: Tâu Ðại vương, hạ thần đã nằm một điềm mộng rất là bất tường, vậy xin Ðại vương thay đồ mới sạch vào ngâm mình trong chum vàng nầy, trong chum nầy có bốn thứ nước vị ngọt, khi ấy mới giải được điềm mộng bất tường kia.

Ðức vua không biết chuyện chi nhưng cũng thực hành theo lời yêu cầu của bá quan. Khi ấy có một vị quan già, cởi đồ triều phục xong xả tóc quì xuống day mặt về hướng thành Kusinàrà nơi đức Thế Tôn nhập diệt chấp tay đảnh lễ xong mới nói: Tâu Ðại vương lẽ cố nhiên chúng sanh trong tam giới không ai tránh khỏi tay tử thần. Hiện giờ đây đức Chánh đẳng Chánh giácphước điền của nhân loại, là ngọn đuốc soi đường của chúng sanh đã nhập diệt tại thành Kusinàrà .

Ðức vua nghe câu ấy xong Ngài liền bất tỉnh liền, các quan mới bồng Ngài đem để trong cái chum vàng thứ nhì. Ngài lần lần tỉnh dậy mới phán hỏi: Chư hiền khanh mới nói chi với trẫm. Vị quan ấy tâu như lần trước, đức vua lại bất tỉnh lần thứ nhì. Bá quan bồng Ngài để vào chum vàng thứ ba. Ngài lại tỉnh và cũng hỏi như trước. Vị quan già cũng tâu như trước, đức vua lại bất tỉnh lần thứ ba. Bá quan bồng Ngài ra thay đồ khô xong lấy nước chế vào đầu Ngài, Ngài lần lần tỉnh lại.

Khi tỉnh lại Ngài than khóc thật là thảm thiết, Ngài liền dẫn các quan đến chỗ Jìvakambanàvasa (nghĩa là vườn xoài của ông lương y tên Jìvaka ở) nơi nầy là nơi mà đức vua đến nghe đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên và nhờ đó mà Ngài dứt được sự u buồn uất ức trong lòng Ngài. Khi đến nơi ấy Ngài mới than rằng: Bạch đức Thế Tôn, khi xưa ở nơi nầy Ngài mở lòng từ bi tha thứ tội lỗi của đệ tửthuyết pháp độ đệ tử trở nên người chánh kiến, Ngài là đấng nhổ mũi tên độc cắm sâu trong tim của đệ tử đó là sự đau buồn hối hậntội lỗi của mình. Ngài là nơi nương nhờ của đệ tử, tại sau Ngài lại vội bỏ đệ tử không cho đệ tử hay biết chi hết. Khi xưa đệ tử chưa quy y Tam bảo có nghe rằng: Ðức Thế Tôn đi đâu đều cho chư Tăng theo hầu thật là uy nghiêm, Ngài chu du mọi nơi độ hàng tín đồ, hôm nay đệ tử lại nghe rằng: Ngài đã nhập diệt. Chuyện bất tường đến đột ngột với đệ tử như thế nầy thì làm sao đệ tử chịu nổi.

Ðức vua ngâm luôn một lúc sáu mươi câu kệ kể sự buồn thương của Ngài đối với đức Ðại Giác. Sau khi kể lể xong bớt nỗi khổ đau Ngài liền nghĩ đến Xá lợi: Dầu ta có than van khóc lóc cũng chẳng lợi ích chi vì sự thương nhớ khóc than không phải là việc cần trong lúc nầy, mà sự thỉnh Xá lợi của Ngài về cúng dường mới là quan trọng.

Khi về thành Ngài liền chọn người đi sứ đến Kusinàrà để xin Xá lợi. Ngài dạy sứ thần nói với vua Malla rằng: Ðức Thế Tôn là dòng vua, sau khi thành Phật là vị Pháp vương. Còn ta cũng là một vị Hoàng đế của một cường quốc vì vậy ta phải được một phần Xá lợi của đức Pháp vương đem về xứ ta để lập phù đồ cúng dường.

Sau khi đưa sứ thần đi xong Ngài lại nghĩ: Nếu ta được chia Xá lợi cho một cách êm thắm thì rất quí, còn nếu dòng vua Malla không bằng lòng chia cho thì tức nhiên phải dùng võ lực. Ngài liền truyền cho vị Tướng quốc lập tức chọn lấy cho Ngài bốn đạo binh tinh nhuệ nhứt và phải có đủ lương thảo cho quân binh dùng khi chiến trận nổ bùng. Bốn đạo hùng binh của Ngài là tượng binh, xa binh, mã binh và bộ binh. Chính Ngài cầm bốn đạo binh ấy thân chinh.

Ðồng thời ấy cũng có những nước trước gởi sứ thần sau lại đưa binh theo là:

1) Vua Licchavì xứ Vesàlì .
2) Dòng Thích Ca xứ Sakka .
3) Vua Thuliyaràja xứ Allakappa .
4) Vua Koliya xứ Ràma .
5) Vua Mahàbrahma (Ðại Bà la môn) xứ Vetthadipaka. (Xứ nầy dòng Bà la môn nắm chính quyền như vua).
6) Vua Mallaràja xứ Pàvà .

Tổng cộng cả thảy là bảy nước với vua xứ Ma Kiệt Ðà là đức A Xà Thế.

Trong bảy nước ấy chỉ có xứ Pàvà là ở gần hơn hết, chỉ cách ba dặm đường thôi, nên khi đức Thế Tôn đến Kusinàrà có đi qua ngang thành Pàvà. Nhưng lại đến sau hết, vì nhà vua và bá quan hội nhau bàn rằng: sáu xứ kia ở xa và cường quốc đã đưa binh tới chúng ta ở gần không cần lo làm gì, chỉ đưa đến một ít thôi cũng có phần trong ấy.

Khi bảy xứ đóng quân vây quanh thành Kusinàrà sức con kiến cũng khó qua được. Nhứt là bốn đạo binh của đức vua A Xà Thế mạnh hơn hết và Ngài là người có tên tuổi nhứt về chinh chiến, đức vua Ba Tư Nặc còn tại thế cũng không đánh lại Ngài, Ngài có tánh tốt là không ỷ cường quốc mà chinh phục một nước nào. Nên chi Ngài thường được các nước lân bang nể mặt. Sau khi an dinh hạ trại xong cho quân sĩ hô to lên rằng: Phải đem Xá lợi của đức Từ phụ ra chia cho chúng ta. Nếu không thì hãy đem binh ra chiến đấu với chúng ta.

Ðức vua Malla xứ Kusinàrà cũng chẳng chịu nhường liền đưa quân lên mặt thành để giữ thành, liền cho quân nhà hô lên rằng: Ðức Từ Phụ đã nhập diệt trong xứ của chúng ta, chúng ta không thể chia Xá lợi cho các ngươi. Các ngươi nên biết rằng: Chúng ta không có đưa sứ thần đi rước đức Thế Tôn về đây, tự ý Ngài ngự đến, rồi Ngài cho gọi chúng ta đến hầu và dạy rằng: Ngài nhập diệt trong xứ Kusinàrà. Hơn nữa ngọc quí tự nhiên có trong xứ của quí Ngài thì quí Ngài cũng chẳng hề chia cho chúng ta. Tất cả các thứ ngọc trong tam giới nầy không có thứ ngọc nào quí bằng ngọc Xá lợi và chính chúng ta được ngọc quí như vầy thì làm sao chia cho quí vị được. Không phải chỉ có quí vị ăn cơm bú sữa mẹ cha mới lớn. Chúng ta cũng như quí vị, thì chúng ta nào sợ quí vị đâu?

Một bên đòi và một bên không chịu trao, hai bên giàng binh ra, tình hình thật căng thẳng, chỉ còn chực nổ bùng lên thôi. Theo con mắt người thời ấy nếu trận giặc nổ bùng thì chiến thắng sẽ ngã về người thành Kusinàrà. Có câu hỏi: Vì sao? Ðáp: Vì lúc ấy có nhiều chư Thiên có oai lực như Thiên Vương Ðế Thích ngự nơi ấy để cúng dường Xá lợi. Chắc các Ngài sẽ về phe Kusinàrà để chiến với bảy xứ kia. Nên phe Kusinàrà chắc thắng.

Khi ấy trong xứ Kusinàrà có một vị Bà la môn là vị Trưởng lão mà ai ai cũng kính trọng nể nang vì ông là vị giáo sư lừng danh, ngoài ra còn có đệ tử ở các xứ đến thọ giáo với ông nên ngoài nước ông cũng vẫn có tên tuổi lớn. Ông tên là Dona , mà ông cũng là một vị Quốc sư của xứ Kusinàrà. Khi ông thấy trận giặc sắp nổ bùng chỉ vì Xá lợi, nên ông nghĩ bụng rằng: Ta nên ngăn các nước nầy lại không nên để có sự giết hại nhau chỉ vì Xá lợi Phật. Không nên để có giặc giả nơi Phật nhập diệt. Ta phải đứng ra phân xử việc nầy. Nghĩ xong ông liền lên mặt thành kêu hai bên nên ngưng để lại nghe lời ông giải bày, nhưng không ai chịu nghe. Ðến lần thứ ba có nhiều người nói: Tiếng ai hình như tiếng của thầy Bà la môn Dona. Liền truyền hãy yên lặng để nghe lời thầy Dona .

Khi yên lặng, Ông Dona mới nói rằng: Hỡi nầy quí vị, hãy lặng vài giây để nghe lời của tôi đây. Ðức Ðại Từ phụ là đấng Ðại Từ Bi, Ngài thường dạy không nên sát sanh mặc dầu là con kiến, và Ngài hằng dạy chúng ta pháp nhẫn nại. Vậy quí vị có nên vì Xá lợi của đấng Từ Bi trọn đời lo dạy chúng sanh bỏ khí cụ, oai quyền, thương yêu nhau mà thành ra một sát kiếp chăng? Hỡi nầy quí vị, xin quí vị nên nhẫn nại đè nén lòng sân hậnnhân nhượng nhau. Tôi sẽ điều đình chia Xá lợi ra làm tám phần cho tám vị Hoàng đế đều nhau, để quí vị thỉnh đem về lập phù đồ để dân chúng và tín đồ cúng dường.

Các nhà vua nghe vậy đều vâng lời ưng thuận theo lời ông dạy, và đồng nói: Vậy xin Quốc sư hãy đứng ra chia cho đồng làm tám phần để chúng tôi khỏi phải tranh giành nhau.

Ông Bà la môn Dona dạy hãy mở cửa thành thỉnh tám vị Quốc vương vào thành. Khi tám vị Quốc vương vào an tọa xong, ông dạy đem cái hòm đựng Xá lợi ra mở trước mặt mọi người đông đủ. Khi tháp đựng Xá lợi được mở ra, mọi người đều chiêm ngưỡng lễ bái rất thành kính như trước kim thân đức Thế Tôn còn tại thế. Hào quang sáu màu chiếu sáng làm cho tám vị Quốc vương dòng hoàng tộc và các vị khanh tướng có mặt tại nơi ấy lấy làm lạ và càng buồn khổ thêm. Các vị than rằng: Ðức Thế Tôn ơi, trước đây chúng tôi được chiêm ngưỡng kim thân Ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ hào quang sáu màu chiếu sáng. Nay chỉ còn thấy đức Xá lợi của Ngài. Ðức Xá lợi ấy còn là những hột vàng, thật ra Ngài không nên vội bỏ chúng tôinhập diệt.

Ông Bà la môn Dona thấy chư vị Quốc vương bận than khóc như vậy ông lẹ tay lượm lấy đức Xá lợi là răng trên nhét vào đầu tóc của mình. Rồi ông mới chuẩn bị chia ra làm tám phần đồng nhau. Ðức Xá lợi có cả thảy là mười sáu cân, chia ra tám nước mỗi nước được hai cân. Khi chia xong Thiên vương Ðế Thích thấy thiếu một cái răng nhọn hàm trên, Ngài lấy làm lạ nghĩ: Ai đánh cắp cái răng nầy. Ngài thấy rõ cái răng ấy trên đầu tóc của ông Dona bằng Thiên nhãn. Ông mới nghĩ: Ta nên nhận lấy cái răng nầy đem về lập tháp thờ trên cõi Ðạo Lợi để chư Thiên cùng cúng dường. Ngài liền nhận lấy đức Xá lợi ấy. Ông Bà la môn không hay biết chi hết đinh ninh rằng: Răng ấy vẫn còn. Sau khi chia xong ông Dona coi lại trên đầu tóc thì đức Xá lợi đã biến mất. Ông lấy làm tức giận nhưng không dám dỉ hơi, và cũng lấy làm lạ nhứt định người thời ấy không ai dám mó vào đầu ông. Ông chỉ ôm lấy sự uất ức thôi, không dám hỏi ai vì sợ các vị Quốc vương vấn nạn. Ông liền nghĩ đến cái cân vàng để đem về lập tháp thờ. Ông liền nói: Tâu chư Quốc vương, nay sự chia phân đã xong, xin quí vị cho già nầy thỉnh lấy cái cân vàng đức chia Xá lợi về lập tháp cúng dường. Tất cả chư Quốc vương có mặt đồng tán thành việc ấy vì nhận thấy ông có công với việc chia Xá lợi.

Ðức Ðế Thích được đức Xá lợi là răng nhọn liền đem về lập tháp thờ ở cõi trời Ðạo Lợi.

Khi ấy có một vị Quốc vương ở xứ Moriya gần Pipaphalivana hay tin đức Thế Tôn nhập diệt, cũng đưa sứ thần đến xin thỉnh Xá lợi về cúng dường. Nhưng khi đến cuộc chia Xá lợi đã xong xuôi rồi, đức vua xứ Moriya lấy làm thất vọng. Thấy vậy đức vua xứ Kusinàrà mới nói rằng: Ðức Xá lợi đã chia xong rồi, nay Ðại vương đến trễ. Vậy Ðại vương nên phụng thỉnh tro nầy về lập tháp cúng dường cũng quí vậy. Ðức vua Moriya lấy làm vui mừng thỉnh lấy tro ấy về lập tháp thờ.

Từ Kusinàrà đến Vương Xá thành đường xa một trăm hai mươi lăm do tuần (hai trăm cây số ngàn thời bấy giờ). Ðức vua A Xà Thế muốn làm lễ rước đức Xá lợi cho thật long trọng. Ngài ra lịnh cho dân chúng phải dọn đường cho bằng. Hai bên đường phải trồng cây trải hoa và treo cờ phướn cho mát trời dọn như hội chợ quân binh phải được cấp phát đầy đủ lương thực và tiện nghi, mỗi nơi nghỉ chân phải làm rạp cho thật đẹp để an tọa đức Xá lợi.

Ngài truyền làm một cái tháp nhỏ bằng vàng để an vị đức Xá lợi. Khi đưa đi Ngài để Xá lợi trên long xa có lọng vàng có phướn che thật là trọng thể. Trước ấy Ngài cho dân chúng hay phải tựu đến Vương Xá thành cho đông đủ để tiếp rước và làm lễ cúng dường cho long trọng. Ðức vua hằng truyền cho ngưng long xa lại nơi nào có hoa nở, quan quân và dân chúng bẻ hoa cúng dường cho đức Xá lợi. Ngài dự trù phải đi như vậy bảy năm mới đến Vương Xá thành.

Khi ấy có những người ngoại đạotà kiến hội nhau lại bàn rằng: Kể từ Ngài Ðại Sa môn Cồ Ðàm chết đến nay. Ðức vua A Xà Thế buộc chúng ta làm lễ nầy lễ nọ làm cho việc làm ăn đình trệ. Thật là làm khó chúng ta quá.

Trái lại các người chánh kiến và các vị Thánh nhơn mới tỏ ra hài lòng và không than van gì hết. Chư Thánh Tăng biết người đời phàn nàn việc ấy nên mới hội nhau lại bàn phải làm sao cho đức vua phải về mau đừng làm cho dân chúng than van oán trách. Các Ngài chỉ thấy có Thiên Vương Ðế Thích mới giúp cho các Ngài được, không phải các Ngài không có phương thế chi, nhưng việc làm nầy phải là việc của một vị Hộ pháp là đức Thiên Vương Ðế Thích.

Chư Ðại Ðức liền đến cõi Ðạo Lợi cho đức Ðế Thích biết những lời oán than của dân chúng, và sự thật làm vậy dân chúng không làm việc gia đình được cũng là một việc không nên làm khổ kẻ khác mặc dầu là làm lành nhưng người không thích. Phật giáo không có ép người hành theo, hay dùng uy quyền bắt buộc. Ðức Ðế Thích nghe vậy liền bạch với các Ngài rằng: Bạch chư Ðại Ðức, trong thế gian hiện nay không có người nào có đức tin với Phật bảo bằng đức vua A Xà Thế. Vì vậy nên, nếu trẫm đến trình bày chuyện nầy tức nhiên Ngài sẽ không bao giờ hưởng ứng. Trẫm chỉ có phương pháp là trẫm phái cho chư Thiên hóaoá ra binh ma tướng quỉ để đe dọa, và phát ra những tiếng rùng rợn, và làm cho quân binh và những kẻ đưa đón bịnh hoạn để chư Ðại Ðức có dịp vào trình bày cho Ngài biết rằng: Bọn Ma vương khuấy phá, vậy Ðại vương nên về đến hoàng thành càng mau càng hay.

Ðức Ðế Thích liền thực hành theo kế hoạch đã định, và chư Ðại Ðức vào cho đức vua A Xà Thế biết việc ấy. Nên Ngài đưa Xá lợi về đến Vương Xá thành chỉ mất bảy ngày thôi. Ngài xuất của kho ra làm lễ cúng dường thật là trọng thể.

Bảy vị Quốc vương kia cũng đồng làm lễ cúng dường rất long trọng và làm phù đồ thờ phượng thật là chu đáo, và kính cẩn.

Ông Bà la môn Dona tạo ra một cái tháp gần thành Kusinàrà để thờ cái cân đức Xá lợi khi chia cho tám vị Quốc vương.

Ðức vua Moriya thỉnh tro và than về lập tháp thờ ở xứ Pipàlivana .

Những vật dụng của đức Thế Tôn thường dùng thiện nam tín nữ thỉnh về thờ.

Tổng cộng có tám tháp thờ đức Xá lợi. Một tháp thờ cân vàng phân chia đức Xá lợi. Một tháp thờ tro và than. Cả thảy là mười tháp.

Ngoài ra còn có một tháp vĩ đại trên cõi trời Ðạo Lợi thờ đức Xá lợi là răng nhọn hàm trên bên tay phải. Một tháp thờ đức Xá lợi răng nhọn hàm dưới bên tay phải ở tại Tích Lan, hiện nay vẫn còn tháp ấy tại Tích Lan.

Một tháp thờ đức Xá lợi là răng nhọn hàm trên bên tay trái. Một tháp ở cõi Long vương thờ đức Xá lợi là răng nhọn tay trái hàm dưới.

Một tháp ở cõi trời Phạm Thiên thờ y phục của Ngài bận khi ra khỏi thành Ca Tỳ La Vệ xuất gia và xương vai bên trái của đức Thế Tôn, tháp nầy bề cao mười hai do tuần.

Có ba mươi sáu đức Xá lợi là răng cùng hai mươi móng tay và móng chơn có nhiều vị chư Thiên đem đi lập tháp thờ nhiều nơi.

Còn những vật mà đức Thế Tôn thường dùng khi còn tại tiền là:

1) Dây lưng thờ ở xứ Pàtatiputta .
2) Y tắm mưa thờ ở xứ Pancala .
3) Tọa cụ thờ ở xứ Kosalaràja .
4) Tăm xỉa răng thờ ở xứ Mithilà .
5) Tấm vải lọc nước thờ ở xứ Vedeharasa .
6) Dao cạo và ống đựng kim thờ ở xứ Indapattha .
7) Ðôi dép thờ ở làng Ussibrahma .
8) Ngọa cụ thờ ở xứ Makuta .
9) Tam y thờ ở xứ Bhaddharasa .
10) Bát thờ ở xứ Pàtaliputta hiện nay ở Lăng ka.
11) Camakhandhaka (Tấm da lót ngồi) ở xứ Kuraràja và mười hai sợi tóc của đức Thế Tôn ban cho hai người lái buôn khi vừa thành đạo hiện nay thờ ở Miến Ðiện tại thủ đô Rangoon .

-- HẾT --

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16873)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22972)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13053)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22189)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23585)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24121)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17146)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27073)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13846)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12681)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13871)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14708)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17201)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12712)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10374)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10712)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16882)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15782)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13343)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12559)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11369)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13031)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19315)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28613)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10054)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12796)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17826)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26239)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11708)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10854)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22760)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12047)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11413)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11529)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant