Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 02: Tâm linhVật chất

20 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 8815)
Chương 02: Tâm linh và Vật chất

TÂM AN TỊNH HÒA BÌNH

Nguyên tác: The Peaceful Stillness of the Silent Mind
Tác giả: Lama Thubten Yeshe, Sydney Australia 1975
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 26/12/2010

CHƯƠNG HAI:

TÂM LINHVẬT CHẤT


Người ta thường nói về tâm linhvật chất, nhưng những thuật ngữ này thật sự nghĩa là gì? Thực sự, đây không phải là một chủ đề đơn giản; nó bao quát. Chắc chắnvô số quan điểm đến những điều tâm linhvật chất thật sự nghĩa là gì.

Trên bề mặt, chúng ta có thể đồng ý, “Điều này là tâm linh; điều nọ là vật chất,” nhưng nếu quý nhìn một cách sâu sắc hơn, tôi nghĩ quý vị sẽ thấy rằng như những cá nhân, mỗi chúng ta có một quan điểm khác nhau.

Một số người nghĩ rằng tâm linhvật chấthoàn toàn đối lập – hai cực đoan không thể hòa hợp được – và không thể là tâm linhvật chất cùng một lúc. Những người khác nghĩ cho rằng những kẻ đi tìm con đường tâm linh làm như thế chỉ bởi vi họ không vui vẻ trong đời sống của họ, đã thất bại trong thế giới vật chất và không thể tìm ra một phương cách để vui sống, không thể đối diện sự sống trong xã hội thông thường và do vậy ảo tưởng rằng một nơi nào trên ấy, có một vị Thượng Đế mà họ có thể tin tưởng được.

Một nhận thức sai lầm thông thường khác là nếu quý vị là một người tìm kiếm tâm linh quý vị phải chối bỏ mọi thứ thoải mái vật chất; rằng quý vị không thể thụ hưởng cả hai thứ với nhau. Loại mâu thuẫn nông cạn này cũng rất thông thường trong mọi người trên Trái Đât này – “Nếu nó là điều này, nó không thể là điều kia; nếu nó là điều kia, nó không thể là điều này.” Một hành giả tâm linh nên giàu có chứ, người ta sẽ nói,” “Làm sao ông/bà giàu quá? Ông/bà sống đời tâm linh mà.” Sự phán xét triết lý này cho thấy một sự hiểu biết thiếu sót hoàn toàn về những gì thuộc về chật chất và tâm linh thật sự là.

Quan điểm của tôi là tất cả những sự diễn dịch như vậy là những quan niệm sai lầm; quá cực đoan; đấy là những định kiến.

Xa hơn nữa, có những người nói rằng, “Ông/bà là một hành giả tâm linh? Ông/bà phải là một người tín ngưỡng, tin tưởng. Tôi không tin vào bất cứ điều gì.” Tuy nhiên, một số câu hỏi giản dị sẽ cho thấy rằng họ là những người tin tưởng hơn hầu hết những người tôn giáo. Tin tưởng không đơn giảnthông minh. Cho đến khi chúng ta còn dính mắc, chấp trước đến những ý tưởng, những thứ vật chất hay những hiện hình tốt và xấu, trong quan điểm của tôi, quý vị là những người tin tưởng, tín đồ. Khi quý vị nói, “tôi không tin tường bất cứ điều gì,” điều ấy chỉ đơn giản là không đúng. Tin tưởng không chỉ sợ hãi những gì ở trên kia trong bầu trời là một vị Thượng Đế, kẻ kiểm soát và sẽ trừng phạt quý vị. Nếu quý vị thật sự kiểm soát lại trong tâm thức con người, quý vị sẽ không bao giờ tìm ra bất cứ người nào mà không tin tưởng bất cứ điều gì. Không thể như thế. Cho đến khi mà con người còn dính mắc đến bất cứ điều gì cũng như tư tưởng tốt và xấu, thì tôi cũng cho họ là những người tin tưởng, tín ngưỡng.

Những người tôn giáo thông tuệ thật sự không chấp giữ những tin tưởng cực đoan, chẳng hạn như ảo giác mà ở đấy người ta ở dưới sự khống chế của một loại năng lượng đẩy lên ở đấy. Do thế, đừng nghĩ rằng những ai tìm kiếm con đường tâm linh là những người tin tưởng ảo giác cực đoan. Những gì người ta lệ thuộc trên vấn đề người ta thấu hiểu thế nào về tính bản nhiên của con đường mà người ta theo đuổi.

Dĩ nhiên, tôi biết rằng những người nào đấy, một cách đặc biệt những người được nuôi dưỡng ở phương Tây, có thể có một thái độ duy vật đối với con đường tâm linh. Khoảnh khắc người ta nghe về Đạo Phật hay một tôn giáo nào đấy, người ta lập tức bị hấp dẫn với nó. Không có sự thấu hiểu về tôn giáo hay kiểm soát xem nó có phù hợp với bản chất tự nhiên của họ hay không, người ta chấp chặc nó liền lập tức: “Ô, điều này thật kỳ diệu.” Đó là cực đoan và cũng rất nguy hiểm. Theo quan điểm của tôi, đó không phải là một thái độ tâm linh. Chỉ bởi vì quý vị yêu thích một ý tưởng nào đấy không có nghĩa là quý vị thấu hiểu nó hay quý vị có thể thực hành hay trải nghiệm triết lý. Quý vị có thể dán nhãn bất cứ ý tưởng nào là tốt đẹp, nhưng nếu nó không ảnh hưởng trên đời sống hằng ngày của quý vị, làm thế nào quý vị có thể nói, “tôi yêu thích ý tưởng ấy; tôi sống đời tâm linh.” Điều ấy thật nực cười.

Tất cả những thái độ như vậy là rất nguy hiểm. Những hành giả tâm linh phải thực tế về đời sống mỗi ngày thay vì ảo tưởng – “Tôi là Giê-Su, hãy nhìn tôi”, “tôi là Phật, hãy nhìn tôi” – chấp giữ những quan điểm phóng đại và những nhận thức hoàn toàn sai lầm với thực tế của chính họ là không liên hệ gì với bất cứ tôn giáo nào.

Tôn giáo không phải chỉ là một ý tưởng khô khan, thông thái nào đấy chuyển biến chúng ta. Đúng hơn, nó phải là triết lý căn bản cho đời sống của quý vị; điều gì đấy mà qua kinh nghiệm, quý vị đã thấy sự liên hệ một cách tích cực với năng lượng của cấu trúc tâm lý của quý vị. Nếu quý vị nghe một ý tưởng dường như hữu lý, đầu tiên hãy xem quý vị có thể nếm nó qua kinh nghiệm hay không. Chỉ sau đó quý vị mới nên tiếp nhận nó như con đường tâm linh của quý vị.

Hãy nói như quý vị thâm nhập triết lý nhà Phật lần đầu tiên: “Ô, kỳ diệu. Điều này quá tốt.” Rồi thì, do bởi quý vị xem những ý tưởng mới này một cách duy vật, quý vị cố gắng để làm những sự thay đổi căn bản đến đời sống hằng ngày của quý vị. Quý vị không thể làm được; điều ấy là không thể. Chúng ta chỉ có thể thay đổi tâm thức chúng ta một cách từ từ. Để hiện thực Giáo Pháp quý vị phải bắt đầu từ nơi mà quý vị là và căn cứ bất cứ sự thực tập nào mà chúng ta thực hiện trên nền tảng của nó. Nhưng từ bỏ tính chất căn bản của quý vị và cố gắng để thay đổi chính mình theo một ý tưởng kỳ lạ nào đấy, giống như quý vị thay đổi áo quần – điều ấy thật là ảo tưởng và cũng là cực đoan. Người làm như thế không hiểu biết về tính bản nhiên của con đường tâm linh. Đó là nguy hiểm. Quý vị kiểm soát lại; chúng ta có khuynh hướng phán xét mọi thứ một cách rất nông cạn.

Như tôi đã nói, nếu chúng ta tự hỏi chính mình bản chất tự nhiên của tâm linh là gì và bản chất tự nhiên của vật chất là gì, tất cả chúng ta sẽ đưa ra những câu trả lời khác nhau. Sẽ không có kết luận nhất trí. Đây là bởi vì tất cả chúng ta suy nghĩ một cách khác nhau và tất cả chúng ta có những kinh nghiệm sống khác nhau. Ngay cả nếu quý vị vật gì đấy không biết và hỏi họ xác định vật ấy, họ cũng làm như vậy trên căn bản kinh nghiệm trước đây của họ và có thể đưa ra nhiều câu trả lời. Cùng lý do như vậy, tất cả chúng ta trả lời một cách khác biệt khi chúng ta được hỏi để định rõ tính chất của đời sống tôn giáovật chất.

Quan điểm của tôi là việc theo đuổi con đường tâm linh không tự động có nghĩa là quý vị phải phủ nhận những thứ vật chất và hướng đến một đời sống vật chất không nhất thiết là làm cho quý vị không đủ tư cách đối với lộ trình tâm linh. Thực tế, ngay cả nếu quý vị với lối sống vật chất, nếu quý vị thật sự kiểm soát sâu trong tính bản nhiên của tâm thức quý vị, quý sẽ tìm thấy có một bộ phận của nó đã là tôn giáo. Ngay cả nếu quý vị tuyên bố, “tôi không là một người tín ngưỡng,” tuy nhiên, trong tâm thức quý vị không gian của tôn giáo đã ở đấy. Có thể nó không trí thức hóa, có thể nó không là triết lý ý thức của quý vị, nhưng ở đấy là một dòng suối năng lượng tâm linh liên tục tuôn chảy trong ý thức của quý vị. Một cách thật sự, ngay cả những phương diện tri thức và triết lý của tôn giáo cũng ở đấy trong tâm lý của quý vị, nhưng chúng không đến từ sách vở hay báo chí; chúng luôn luôn ở đấy. Vì thế hãy cẩn thận. Những quan điểm cực đoan của quý vị có thể diễn dịch rằng khuynh hướng tâm linhvật chấthoàn toàn mâu thuẫn, nhưng chúng không như thế.

Một cách thật sự, theo quan điểm của tôi về bao dung tôn giáo, thế giới bây giờ là một nơi tốt đẹp hơn dù chỉ gần một trăm năm trước. Vào lúc ấy, con người bị giam trong những quan điểm cực đoan cao độ, đặc biệt ở phương Tây. Những hành giả lo sợ những người không tôn giáo; những người không tôn giáo lo ngại những người tín ngưỡng. Mọi người cảm thấy không an toàn. Điều này căn cứ trên nhận thức sai lầm. Chắc chắn hầu hết những điều này bây giờ đã lui về dĩ vãng, nhưng có thể có một số người vẫn cảm thấy thế này. Chắc chắn rằng, nhiều người cảm thấy rằng đời sống vật chấttinh thầnhoàn toàn xung khắc với nhau. Điều đó không đúng.

Do vậy, tiếp nhận con đường trung đạo tối đa mà chúng ta có thể. Tránh những cực đoan của tư tưởng, “tôi sống đời tâm linh” – bám víu một cách chặc chẽ với ý tưởng đó, ảo giác bởi tưởng tượng những gì quý vị nghĩ một đời sống tâm linh phải là – và rồi thì chối bỏ căn bản tự nhiên của đời sống hằng ngày của quý vị - “tôi thụ hưởng đời sống tâm linh sâu đậm và tôi ngay cả không muốn pha trà.” Ở đây, không có sự hài hòa giữa cái gọi là đời sống tâm linh của quý vị và nhu cầu hiện hữu hằng ngày của quý vị. Nếu quý vị thật sự theo đuổi một đời sống tâm linh, thì sẽ có sự hài hòa hơn và hợp tác hơn giữa hai thứ; thay vì một rào chắn, thì phải có sự quan tâm hơn và thông hiểu hơn về những nhu cầu của đời sống hằng ngày. Một rào cản giữa hai ý nghĩa, có điều gì đấy sai lầm với những gì quý vị đang gọi là con đường tâm linh; thay vì cởi mở đến thế giới chung quanh chúng ta, quý vị đã đóng nó lại. Do thế, trao đổi khó khăn. Nếu tôn giáo mà quý vị thực tậpcon đường đúng đắnban cho những câu trả lời toại nguyện đến tâm thức bất toại của quý vị, thì quý vị phải tốt hơn bao giờ hết trong việc đối diện với đời sống hằng ngày của quý vị và sống như một con người lịch sự tử tế. Sống với những ý tưởng khô khan, ảo ảnh là không thực tế; cách đó, quý vị ngay cả không thể có một buổi điểm tâm. Kiểm soát một cách cẩn thận để thấy những gì quý vị thật sự thấu hiểu về thực hành tôn giáo; quý vị có thể thấy nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh.

Mọi điều mà Đức Thế Tôn đã nó, toàn bộ triết lý và giáo nghĩa, là vì mục tiêu thẩm thấu vào căn bản của con người chúng ta, về việc nhận ra tính bản nhiên của tâm thức con người. Ngài không bao giờ nói rằng, chúng ta chỉ cần tin tưởng những gì Ngài dạy. Thay vi thế, Ngài khuyến khích chúng ta thử nghiệm để thấu hiểu.

Không có sự thấu hiểu, toàn bộ hành trình tâm linh của chúng ta là một tưởng tượng kỳ quặc, một giấc mơ, một ảo giác; ngay khi mà người nào đấy hỏi về sự tin tưởng của quý vị, toàn bộ đời sống tâm linh của quý vị sẽ sụp đổ như một ngôi nhà xếp bằng những lá bài. Những ý tưởng ảo giác của quý vị giống như giấy, không phải bê tông; một câu hỏi – “Đây là gì? - và toàn bộ sự kiện biến mất. Không có sự hiểu biết, quý vị không thể có những câu trả lời thỏa mãn về những gì quý vị đang làm.

Do vậy, tôi khuyến khích quý vị đặt tất cả vào với nhau. Hãy thụ hường đời sống vật chất tối đa mà quý vị có thể, nhưng cùng lúc, hãy thấu hiểu bản chất tự nhiên của sự hưởng thụ - tính tự nhiên của cả đối tượng mà chúng ta đang hưởng và tâm thức đang trãi nghiệm sự hưởng thụ và sự liên hệ của chúng là thế nào. Nếu quý vị thấu hiểu toàn bộ điều này một cách sâu sắc, đó là tôn giáo, đó là đời sống tâm linh. Nếu quý vị không có ý kiến gì, không biết gì về điều này, nếu quý vị chỉ thấy hình thức bề ngoài và chẳng bao giờ nhìn để thấy những gì xảy ra bên trong, tâm thức quý vị là hạn hẹp và vật chất, theo quan điểm của tôi. Không vì quý vị nhất thiết phải sở hữu vật chấtdo bởi thái độ của quý vị.

Nói rằng tôi dâng hiến đời tôi cho một đối tượng: “Bông hoa này quá đẹp. Cho đến khi nào nó sống, đời tôi có ý nghĩa để sống. Nếu bông hoa này chết đi, tôi cũng muốn chết theo.” Nếu tôi tin điều này, tôi thật là dại khờ, có phải thế không? Dĩ nhiên, bông hoa chỉ là một thí dụ, nhưng như vậy là một quan điểm cực đoan của tâm thức vật chất. Một sự tiếp cận thực tế hơn sẽ là, “Vâng bông hoa xinh đẹp, nhưng nó sẽ không tồn tại lâu dài. Hôm nay nó xinh tươi, ngày mai nó sẽ héo tàn, hay chết đi. Tuy nhiên, sự thỏa mãn của tôi không phải chỉ đến từ bông hoa ấy và tôi đã không sinh ra chỉ để hưởng thụ những bông hoa.”

Do vậy, bất cứ điều gì quý vị thấu hiểu bởi tôn giáo, Phật Giáo, hay đơn giản là những ý tưởng triết học, phải được hợp thành một thể thống nhất với những căn bản của đời sống quý vị. Rồi thì quý vị có thể thẩm tra: “Có phải sự không hài lòng đến từ tâm thức của chính tôi hay không?” Như thế là đủ. Quý vị không cần phải làm những thay đổi cực đoan căn bản đến đời sống quý vị, để đột nhiên cắt đứt quý vị khỏi thế giới, nhằm để học hỏi rằng sự không hài lòng đến từ chính tâm thức của quý vị. Quý vị có thể tiếp tục hướng đến một đời sống bình thường, nhưng cùng lúc hãy cố gắng quán sát bản chất tự nhiên của tâm không thỏa mãn. Sự tiếp cận này rất thực tế, rất thực tiễn, và trong cách này quý vị chắc chắn sẽ nhận tất cả những câu trả lời mà quý vị tìm kiếm.

Bằng khác đi, nếu quý vị chấp nhận một ý tưởng cực đoan nào đấy và cố gắng từ bỏ những thứ nào đấy một cách tri thức đơn thuần, tất cả chỉ có thể làm bực dọc đời sống của quý vị. Đối với thân thể con người để tồn tại quý vị tối thiểu phải có thể có ăn trưa, hay điểm tâm, hay điều gì đấy. Do thế, hãy thực tế. Không cần thiết phải làm những thay đổi vội vả bên ngoài. Quý vị phải thay đổi bên trong một cách đơn giản – hãy dừng ảo tưởng và hãy thấy thực tế.

Nếu quý vị thật sự kiểm lại, hai cực đoantôn giáovật chất – là ảo giác một cách đồng đẳng; cả hai là những tiến trình của tâm thức ô nhiễm làm nên những phán xét đánh giá cực đoan. Chẳng hề gì với người nói, “Ô, tôi không tin tưởng bất cứ điều gì…tất cả tôi tin là sáng nay tôi có điểm tâm và hôm nay tôi đã làm điều này điều nọ. Những gì tôi thấy và nghĩ là thật; tôi không ảo tưởng.” Nếu quý vị hỏi người này, “Ông nghĩ gì về màu đỏ?” quý vị sẽ tự động thấy người nọ đang ảo tưởng. Người ấy thấy hình dạng và màu sắc của thế giới cảm giác nhưng không có biết gì về tính bản nhiên chân thật của chúng; rằng chúng đơn giản làm những tiến trình của tâm thức người ấy. Hỏi người ấy, “Ông thích màu gì? Ông có thích màu đen không?” “Ô, không, tôi không thích màu đen.” “Màu trắng thì thế nào?” “Vâng, tôi thích màu trắng.” Thế, người ấy thích một thứ và không thích một thứ - hai thứ. Điều ấy cho thấy tâm thức của ông ta bị nhiễm ô. Bất cứ cách nào, nhiều thứ trong cuộc đời kinh nghiệm của chúng ta là không được diễn tả bằng ngôn ngữ, nhưng mà chúng ở đấy, trở ngại trong tâm thức chúng ta. Nó không liên hệ gì đến việc chúng ta không nói lên bằng ngôn ngữ hay không.

Thông thường chúng ta không chắc những gì chúng ta thật sự muốn. Chúng ta quá cực đoan; bệnh tâm thần. Một tư tưởng hay thay đổi sinh khởi trong tâm thức chúng tachúng ta nhảy vào tư tưởng ấy và hành động trên tư tưởng ấy. Một ý tưởng khác đến; chúng ta nhảy vào và hành động một cách nào khác. Tôi gọi chứng tâm thần phân liệt đó; là không kiểm soát. Những tư tưởng đến và đi. Thay vì nắm bắt chúng, kiểm soát chúng. Một số người có được những ý tưởng cố định: “Điều này chắc chắn là tốt; điều nọ, tôi ghét.” Hay, một số người nói rằng điều gì đấy là tốt và quý vị tự động mâu thuẫn, “Không, không, không, không, không.” Thay vì chỉ phủ nhận những gì người ta nói, cật vấn tại sao họ lại nói như thế. Hãy cố gắng để hiểu tại sao quý vị không đồng ý. Chúng ta càng chắc chắn chính mình với những tư tưởng cố định, chúng ta càng tạo thêm rắc rối cho chúng ta và những người khác. Một số người thay đổi điều gì đấy – chúng ta đờ đẫn. Thay vì đờ đẫn, hãy xem xét lại tại sao họ thay đổi điều đó. Khi chúng ta thấu hiểu lý do của họ, chúng ta sẽ không bị khó chịu. Những tư tưởng cố định – “Đời sống của tôi phải chính xác như thế này.” – chỉ đưa đến những rắc rối. Không thể thành lập một cách chắc chắn cung cách cho đời sống của chúng ta phải như thế nào.

Tâm thức của mỗi người, tính bản nhiên của mỗi người là thay đổi liên tục, thay đổi, thay đổi. Quý vị phải chấp nhận nó và đưa một sự uyển chuyển nào đấy cho những ý tưởng của chúng ta về cung cách mọi việc nên như thế nào. Những tư tưởng cố định làm đời sống khó khăn. Tại sao chúng ta cứng nhắc những ý tưởng: “Tôi muốn đời sống của chúng tôi chính xác như thế này”? Bởi vì “Tôi thích.” Đấy là lý do – bởi vì chúng ta thích vấn đề như thế ấy. Không ai trong chúng ta muốn chết, nhưng có phải chúng ta có thể sửa chữa nó vì thế chúng ta sẽ không chết? Không, điều ấy không thể. Tính bản nhiên căn bản của quý vị - tâm thức của quý vị, thân thể của quý vị, thế giới – đang thay đổi một cách tự động. Muốn mọi chuyện diễn tiến một cách chính xác theo một cách nào đấy là chỉ làm rắc rối cho chính quý vị.

Khi chúng ta củng cố một ý tưởng, chúng ta bám víutin tưởng nó. Tâm lý học của Đức Thế Tôn dạy chúng ta giải thoát chính chúng ta khỏi loại chấp thủ này – nhưng không phải lìa bỏ nó, phủ nhận nó, mà đúng hơn là tiếp nhận con đường trung đạo, giữa hai cực đoan. Nếu quý vị đặt tâm thức quý vị một cách thông minh vào trong khoảng giữa, ở đấy quý vị sẽ tìm thấy hạnh phúchoan hỉ. Quý vị không cần phải cố gắng quá nhiều; một cách tự động, quý vị sẽ khám phá ra một không khí hòa bình, tâm thức quý vị sẽ được cân bằng và quý vị sẽ an trú trong hòa bình và hoan hỉ.

Tôi nghĩ như thế đã đủ bây giờ. Có lẽ ngay cả quá nhiều. Thế nào đi nữa, bất kể chúng ta nói dài bao nhiêu, chúng ta sẽ không bao giờ thẩm thấu vấn đề này. Do thế, nếu quý vị có bất cứ câu hỏi nào, xin nêu lên. Tôi nghĩ điều ấy sẽ tốt hơn vào lúc này.

1.-HỎI: Trở thành một vị tu sĩ có lợi gì?

ĐÁP: Theo quan điểm của tôi, đời sống của một tu sĩ cung ững vấn đề uyển chuyển hơn và ít những ý tưởng cứng nhắc hơn. Nếu kết hôn, thí dụ, nếu quý vị lựa ra một trong vô lượng nguyên tử hiện hữu và dâng hiến đời sống cho người ấy, đối với tôi nó dường như hẹp hòi. Khi quý vị trở thành một tu sĩ, quý vị cống hiến đời sống của quý vị cho tất cả chúng sinh. Thay vi bị vướng bận với một nguyên tử, tâm thức quý vị bình đẳng hơn. Nhưng dĩ nhiên, tôi không nói rằng đây là con đường duy nhất. Nếu quý vị thông tuệ, quý vị có thể làm bất cứ điều gì.

2.-HỎI: Vậy là thầy không khuyên rằng mọi người nên vào tu viện?

ĐÁP: Điều này tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Thế giới chứa đựng quá nhiều đối tượng kích động. Nếu tâm thức một người là quá nhỏ và người ấy thấy sống trong thế giới khó khăn, có lẽ tốt hơn là vào trong một tu viện. Nhưng nếu một người có thể sống hòa hiêp với thế giới và thay vì chán nãn những điều kiện của hôn nhân, có thể kiểm soát tâm thức mình một cách toàn hảo và làm lợi ích cho người phối ngẫu, người ấy có thể đi theo tiến trình ấy. Quý vị không thể đưa ra một tuyên ngôn cứng nhắc; đấy là một vấn đề cá nhân.

3.-HỎI: Giác ngộ là gi?

ĐÁP: Diễn tả một cách đơn giàn, giác ngộmột thể trạng vượt khỏi tâm thức không kiềm chế, kích động, bất toại; một thể trạng tự do toàn hảo, an lạc bất diệthoàn toàn thấu hiểu tính bản nhiên của tâm thức.

4.-HỎI: Người ta nói về việc thấy ánh sáng trong tâm? Điều này có nghĩa là gì?

ĐÁP: Trong tổng quát, ánh sáng là trái ngược với bóng tối, nhưng có lẻ tôi nên giải thích nó từ quan điểm tâm lý học. Khi tâm thức quý vị quá hẹp hòi, đấy những tư tưởng, hình thức, màu sắc, và sự vật chấp trước như thế, nó có khuynh hướng tối tăm và lờ đờ trong bản chất. Khi những thứ này biến mất, ánh sáng sinh khởi. Đó là tất cả ở đấy. Nó giống như cảnh tượng của tâm thức. Do thế, đừng lo lắng. Thật sự, quý vị thấy ánh sáng mỗi ngày trong cuộc đời quý vị. Ngay cả khi nó đen tối hoàn toàn, quý vị đang thấy ánh sáng đen. Nhưng bất cứ ánh sáng gì mà quý vị thấy – trắng, đen, và bất cứ màu sắc nào – nó không là điều gì đấy đến từ bên ngoài của quý vị. Nó đến từ tâm thức chính chúng ta. Thật rất quan trọng để cho quý vị khảo sát điểm này – bất cứ ánh sáng nào quý vị thấy đến từ chính tâm thức quý vị. Khi ai đấy làm cho quý vị giận dữ và quý vị thấy đỏ, điều ấy đến từ chính tâm thức quý vị. Nó là tiến trình của tâm thức quý vị; nó không đến từ những nguồn gốc nào đấy bên ngoài. Điều này thật hấp dẫn. Đối tượng của mỗi nhận thức tinh thần khác nhau có một màu sắc tương ứng với nó; mỗi quan điểm của tâm thức luôn luôn phù hợp với màu sắc. Hãy kiểm tra lại chính mình; thẩm tra với điều này.

5.-HỎI: Tôi nghĩ tôi hiểu những gì thầy đang nói về những đối tượng có thể thấy, nhưng những gì về các nhận thức thông minh như ngôn ngữvăn phạm – những thứ được dạy tại trường học?

ĐÁP: Những thứ đó cũng đến từ chính tâm thức của quý vị. Ngôn ngữ sinh khởi từ âm thinh nội tại; và nếu không có âm thinh nội tại, sẽ không có ngữ pháp. Đầu tiên là những nguyên âm – a, e, i, o và u. Không có những âm thinhnày quý vị không thể làm nên những câu cú; nguyên âm được đặt với phụ âm và ngôn ngữ phát sinh. Ngữ pháp được tạo nên bởi tâm thức thiển cận giả huyển; tâm thức con người làm nên ngôn ngữ. Bất cứ ngôn ngữ nào thì cũng là kết quả của việc con người muốn biểu lộ những tư tưởng nào đấy ở trong tâm thức của họ và mục tiêu của nó là giao tiếp. Ngôn ngữ thật sự là biểu tượng của ý nghĩa. Người ta muốn giao thiệp với nhau, vì thể người ta tạo nên ngôn ngữ như một phương tiện để làm việc ấy. Nhưng nếu chúng ta bám víu quá nhiều vào ngôn ngữ, chúng ta sẽ kết thúc với hư vô. Ngôn ngữ được sản sinh bởi thái độ si mê của việc vướng mắc đến sự giao thiệp giả huyển thiển cận. Nếu chúng ta muốn vượt khỏi sự giao thiệp giả tạo thiển cận, chúng ta phải vượt khỏi những tư tưởng, ngôn ngữvăn phạm. Nếu quý vị nghĩ ngôn ngữphương tiện duy nhất của giao thiệp, quý vị sẽ không bao giờ siêu xuất quan điểm giả huyển thiển cận; quý vị sẽ không bao giờ thấu hiểu thực tại.

6.-HỎI: Mật ngôn là âm thinh. Mục tiêu của chúng là gì?

ĐÁP: Thật sự thì chân ngôn khác biệt với những âm thinh thông thường; những âm thinh ấy giúp đưa tâm thức quý vị vượt khỏi quan kiến giả huyển thiển cận. Tâm thức chúng ta bận tâm với những nhận thức trần tục và bị phân hóa bởi dòng nước lũ không ngớt của tư tưởng. Nếu hoàn tất một cách chính xác, trì tụng chân ngôn tự động hợp nhất tâm thức chngs ta và tạo nên một không khí tĩnh lặng, hòa bình trong chúng. Nó tùy thuộc trên việc chúng ta hành trì tốt như thế nào. Đôi khi quý vị không đạt đến mức độ hợp nhất tinh thần (nhất tâm); lúc khác quý vị hành động thành tựu. Tuy thế, một khi quý vị đã đạt đến một tâm thức thống hợp một cách toàn hảo của tính chất duy nhất (nhất tâm bất loạn), quý vị không cần phải quan tâm hay trì tụng chân ngôn nữa. Cũng thế, có những chân ngôn khác nhau cho những mục tiêu khác nhau. Tất cả chúng ta có những vấn đề khác nhau; có một chân ngôn cho mỗi trường hợp.

7.-HỎI: Tôi hiểu rằng thầy đang nói là chúng ta nên khát vọng sự giác ngộ, nhưng không phải Đức Thế Tôn nói rằng tất cả mọi khát vọng nên được từ bỏ hay sao?

ĐÁP: Ồ, có thể đạt đến giác ngộ mà không khát vọng đến nó. Vấn đề chính là không quá dính mắc quá nhiều. Nếu quý vị chấp trước ý tưởng giác ngộ, nó có thể trở thành tiêu cực thay vì tích cực. Ông đúng đấy. Đức Thế Tôn đã nói không bị vướng mắc ngay cả ý tưởng về niết bàn hay giác ngộ. Hãy cố gắng tự tại, nhưng đơn giản hành động một cách đúng đắný thức với từng thời khắc tỉnh thức của những hành động của thân thể, lời nói và tâm ý.

8.-HỎI: Thầy đã đề cập đến cảnh giới súc sinh. Một khi chúng tathú vật, có phải chúng ta bị vướng ở đấy mãi mãi không? Súc sinh có thể giác ngộ không?

ĐÁP: Không có khổ đau nào thường trú ở bất cứ nơi nào, kể cả thế giới súc sinh. Đời sống thú vật cũng là vô thường, thay đổi, thay đổi, thay đổi một cách liên tục. Đôi khi chúng thay đổi tốt hơn, đôi khi tệ hại hơn. Khi chúng thay đổi trong một phương hướng tích cực, tâm thức ấy có thể tiếp tục phát triển xa hơn. Trong dạng thức của súc sinh đạt đến giác ngộ, cuối cùng cần được sinh ra như một con người, nhưng để làm thế chúng không nhất thiết có một khát vọng giác ngộ. Nếu chúng sống trong một môi trường dễ thương, hòa bình tự do khỏi sân hận, kích động, công kích, tâm thức chúng có thể dần dần phát triển trong một cung cách mà nghiệp lực của chúng trở thành con người có thể chín muồi. Nhưng súc sinh tiếp tục tích lũy sân hậntìm thấy dính mắc chấp trước, tâm thức của chúng ngày càng trở nên si mê mờ mịt hơn và chúng có thể tiếp nhận sự tái sinh ngay cả những cảnh giới tệ hại hơn súc sinh (đó là ngạ quỷ hay địa ngục).

9.- HỎI: Đôi khi tôi đang thiền tậpcố gắng tập trung trên một đối tượng, những chủ đề khác xuất hiện đến tâm thức tôi và làm tôi xao lãng. Làm thế nào tôi có thể chấm dứt những thứ đó xảy ra?

ĐÁP: Điều đó tùy thuộc trên khả năng của quý vị. Nếu quý vị cố gắng để tập trung trên một thứ và điều gì khác xuất hiện và quý vị có thể làm đối tượng xao lãng biến mất mà không để ý đến nó, điều đó là tuyệt nhất, nhưng nhìn vào đối tượng đó và cố gắng phủ nhận, như vậy không có giải pháp. Sự xuất hiện của những đối tượng như vậy là tâm thức quý vị giở trò xảo trá hay đánh lừa quý vị: chúng là những biểu hiện từ ký ức của những kinh nghiệm rác rưởi của quý vị. Thế nên thay vì phủ nhận chúng, những gì quý vị có thể làm là khảo sát một cách sắc sảo bản chất của chúng. Khi quý vị tập trung nhất tâm trên bản chất của chúng, những đối tượng biến mất – bởi vì chúng đến từ tâm thức. Cách nào đi nữa, quan điểm của tâm thức luôn luôn thay đổi, vì thế những sự xao lãng không bao giờ tồn tại lâu.

Cảm ơn. Nếu quý vị không có câu hỏi nào nữa chúng ta có thể tạm dừng ở đây tối nay và tôi sẽ gặp quý vị vào ngày mai.

Prince Phillip Theatre, Melbourne University, 5 April 1975

Tuệ Uyển chuyển ngữ - 20/01/2011

http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=139&chid=211

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19759)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20848)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19153)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40361)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21165)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40951)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24014)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22970)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17755)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26793)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20629)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33501)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28718)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12633)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25080)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17408)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25584)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18914)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18896)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28877)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18150)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24393)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19387)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17818)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22872)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17957)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31987)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17299)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17331)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16007)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20697)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17942)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20023)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14773)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20801)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15689)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12868)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14441)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29246)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12693)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14436)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant