Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời tựa

21 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 8166)
Lời tựa
GIỚI HẠN CỦA SUY NGHĨ
Bàn luận
J. Krishnamurti và David Bohm
THE LIMITS of THOUGHT
Discussions
J. Krishnamurti and David Bohm
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 12– 2011

Lời tựa

 Một giới thiệu về công việc của Krishnamurti

 

 Sự quen biết đầu tiên với công việc của Krishnamurti là năm 1959 khi tôi đọc quyển sách của anh The First and Last Freedom Tự do Đầu tiên và Cuối cùng. Điều gì đặc biệt khơi dậy sự quan tâm của tôi là sự thấu triệt thăm thẳm của anh vào nghi vấn của người quan sát và vật được quan sát. Từ lâu lắm nghi vấn này gần gũi với trọng tâm của công việc của tôi như một người vật lý lý thuyết mà tập trung chính vào ý nghĩa của thuyết lượng tử. Trong lý thuyết này, lần đầu tiên trong sự phát triển của vật lý, quan điểm rằng người quan sát và vật được quan sát không thể bị tách rời đã được đề cập như điều cốt yếu cho sự hiểu rõ về những luật lệ cơ bản của vật chất nói chung. Bởi vì điều này, cũng như bởi vì quyển sách chứa đựng nhiều thấu triệt sâu thẳm khác, rất cấp bách tôi cảm thấy rằng tôi phải nói chuyện cùng Krishnamurti một cách trực tiếp và cá nhân càng mau càng tốt. Và khi lần đầu tiên tôi gặp anh tại một trong những viếng thăm London của anh, tôi bị ấn tượng bởi sự thanh thản vô cùng khi tiếp xúc cùng anh, mà được sáng tạo bởi năng lượng vô hạn khi anh lắng nghe và bởi sự tự do khỏi những rào chắn và những dè dặt tự phòng vệ khi anh trả lời điều gì tôi phải trình bày. Như một người làm việc trong khoa học tôi cảm thấy thật thoải mái bởi loại hưởng ứng nồng nhiệt này, bởi vì nó là bản thể của cùng chất lượng như tôi đã nhận được khi tôi tiếp xúc cùng những người khoa học khác mà có sự gặp gỡ rất hiệp thông của những cái trí. Và ở đây tôi đặc biệt nghĩ về Einstein, mà bộc lộ sự mãnh liệt tương tự và không có rào chắn trong nhiều bàn luận đã xảy ra giữa ông ấy và tôi. Sau lần này, tôi bắt đầu đều đặn gặp Krishnamurti và bàn luận cùng anh bất kỳ khi nào anh đến London.

 Kể từ lúc đó chúng tôi bắt đầu sự kết giao thân thiện hơn, bởi vì tôi trở nên quan tâm đến những trường học được thành lập qua sự sáng kiến của anh. Trong những bàn luận này, chúng tôi thâm nhập rất sâu thẳm vào nhiều nghi vấn đã khiến tôi phải ấp ủ nhiều trong công việc khoa học của tôi. Chúng tôi thâm nhập vào bản chất của không gianthời gian, và của vũ trụ, cả liên quan đến thiên nhiên phía bên ngoài lẫn liên quan đến cái trí. Nhưng sau đó chúng tôi thâm nhập vào sự hỗn loạn và vô trật tự chung mà lan tràn khắp ý thức của nhân loại. Chính ở đây mà tôi bắt gặp điều gì tôi cảm thấy là sự khám phá cơ bản của Krishnamurti. Điều gì anh đang nghiêm túc đề nghị là rằng tất cả vô trật tự này, mà là nguyên nhân gốc của sự phiền muộnđau khổ lan tràn như thế, và mà ngăn cản con người không đang cùng nhau làm việc một cách đúng đắn, có gốc rễ của nó trong sự kiện rằng chúng ta dốt nát về bản chất chung của những qui trình riêng của sự suy nghĩ của chúng ta. Hay, giải thích nó một cách khác, người ta có thể nói rằng chúng ta không thấy điều gì đang thực sự xảy ra khi chúng ta dính dáng trong sự hoạt động của suy nghĩ. Qua quan sát và chú ý kỹ lưỡng sự hoạt động của suy nghĩ này, Krishnamurti cảm thấy rằng anh nhận biết một cách hiệp thông: suy nghĩ là một qui trình vật chất đang diễn ra phía bên trong của con người, trong bộ não và hệ thần kinh như một tổng thể.

 Thông thường, chúng ta có khuynh hướng nhận biết chủ yếu về nội dung của suy nghĩ này hơn là về nó thực sự xảy ra như thế nào. Người ta có thể minh họa mấu chốt này bằng cách suy xét việc gì xảy ra khi người ta đang đọc một quyển sách. Thường thường, người ta hầu như chú ý toàn bộ đến nghĩa lý của điều gì đang được đọc. Tuy nhiên, người ta cũng có thể nhận biết được chính quyển sách, được cấu trúc của nó như được tạo thành từ những trang sách có thể lật qua và lật lại, được những từ ngữ được in và mực, được kết cấu của giấy, vân vân. Tương tự, có lẽ chúng ta nhận biết được cấu trúc và vận hành thực sự của qui trình suy nghĩ, chứ không chỉ là nội dung của nó.

 Làm thế nào một nhận biết như thế có thể xảy ra? Krishnamurti đề nghị rằng việc này cần đến điều gì anh gọi là thiền định. Hiện nay, từ ngữ meditation thiền định đã được chất đầy vô số những nghĩa lý khác nhau và thậm chí còn mâu thuẫn, đa phần chúng đều dính dáng đến những loại khá hời hợt của sự huyền bí. Krishnamurti có trong trí một quan điểm rõ ràngdứt khoát khi anh sử dụng từ ngữ này. Người ta có thể nhận được một chỉ dẫn giá trị về nghĩa lý này bằng cách nhận xét nguồn gốc của từ ngữ. (Những gốc rễ của những từ ngữ, cùng những nghĩa lý thông thường hiện nay được chấp thuận, thường sinh ra sự thấu triệt kinh ngạc vào những nghĩa lý sâu thẳm hơn của chúng). Từ ngữ meditation của tiếng Anh được đặt nền tảng trên gốc tiếng Latin ‘med’, ‘đo lường’. Nghĩa lý hiện nay của từ ngữ này là ‘trầm tư’, ‘ngẫm nghĩ’ (nghĩa là cân nặng hay đo lường), và ‘chú ý kỹ lưỡng’. Tương tự, từ ngữ tiếng Phạn cho thiền định, ‘dhyana’, liên quan gần gũi với ‘dhyati’, có nghĩa ‘phản ảnh’. Vì vậy, nếu kết hợp lại, thiền định sẽ là ‘ngẫm nghĩ, phản ảnh, trong khi chú ý kỹ lưỡng việc gì đang thực sự xảy ra khi người ta làm như thế’.

 Có lẽ đây là điều gì Krishnamurti có ý qua cụm từ ‘sự khởi đầu của thiền định’. Đó có nghĩa là, người ta trao sự chú ý kỹ lưỡng đến tất cả mọi việc đang xảy ra cùng hoạt động thực sự của sự suy nghĩ, mà là nguồn gốc cơ bản của sự vô trật tự chung. Người ta làm điều này một cách không chọn lựa, không phê bình, không chấp nhận và không phủ nhận việc gì đang xảy ra. Và tất cả việc này xảy ra cùng những phản ảnh về ý nghĩa của điều gì người ta đang học hành về hoạt động của sự suy nghĩ. (Nó có lẽ hao hao giống như đang đọc một quyển sách trong đó những trang sách đã bị xếp lộn xộn, và mãnh liệt nhận biết được sự vô trật tự này, hơn là chỉ ‘cố gắng hiểu ý nghĩa’ của nội dung bị rối loạn mà nảy sinh khi người ta chỉ chấp nhận những trang sách như chúng tình cờ xuất hiện).

 Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn, chọn lựa, quyết định, hay bất kỳ hành động nào khác của ‘người suy nghĩ’. Khi trật tự như thế hiện diện, sự ồn ào và nhiễu loạn mà là nền quá khứ thông thường của ý thức chúng ta bặt tăm, và cái trí trở nên yên lặng trong một tình trạng thông thường. (Sự suy nghĩ nảy sinh chỉ khi nào được cần đến cho mục đíchgiá trị đúng đắn nào đó, và sau đó chấm dứt, cho đến khi được cần đến lại).

 Trong sự yên lặng này, Krishnamurti nói rằng cái gì đó mới mẻ và sáng tạo xảy ra, cái gì đó mà không thể được chuyển tải trong những từ ngữ, mà có ý nghĩa lạ thường cho tổng thể của sự sống. Vì vậy, anh không cố gắng chuyển tải cái này bằng từ ngữ, nhưng trái lại, anh yêu cầu những người quan tâm rằng, họ phải thâm nhập nghi vấn của thiền định một cách trực tiếp cho chính họ, qua chú ý thực sự vào bản chất của sự suy nghĩ.

 Tuy nhiên, không cần nỗ lực thâm nhập vào ý nghĩa sâu thẳm hơn này của thiền định, người ta có thể thấy rằng thiền định, trong ý nghĩa của từ ngữ đó của Krishnamurti, có thể sáng tạo sự trật tự cho toàn hoạt động thuộc tinh thần của chúng ta, và đây có lẽ là một nhân tố cơ bản trong sáng tạo một kết thúc cho sự đau khổ, sự phiền muộn, sự hỗn loạn và sự hoang mang mà qua nhiều thiên niên kỷ đã là số mạng của nhân loại, và việc đó vẫn còn đang tiếp tục như thông thường, mà không có triển vọng rõ rệt của sự thay đổi cơ bản cho tương lai bi đát được đặt nền tảng trên những hoàn cảnh hiện nay.

 Công việc của Krishnamurti là sự thẩm thấu trọn vẹn của điều gì có lẽ được gọi là bản thể của sự tiếp cận khoa học, khi bản thể này được hiểu trong hình thức tốt lành, thuần khiết và tột đỉnh nhất. Vì thế, anh bắt đầu từ một sự kiện: sự kiện của bản chất của những qui trình suy nghĩ của chúng ta. Sự kiện này được thiết lập qua sự chú ý tổng thể, bao hàm đang lắng nghe trọn vẹn qui trình đó của ý thức, và đang quan sát liền liền nó. Trong việc này, người ta liên tục đang học hành, và từ học hành này hiện diện sự thấu triệt vào bản chất chung hay tổng thể của qui trình suy nghĩ. Sau đó sự thấu triệt này được thử nghiệm. Đầu tiên, người ta thấy liệu nó gắn bó cùng nhau trong một trật tự hợp lý. Và kế tiếp, người ta thấy liệu nó dẫn đến trật tự và cố kết, mang theo cái gì tràn trề từ nó trong sự sống như một tổng thể.

 Krishnamurti liên tục khẳng định rằng anh không là một uy quyền. Anh đã phát hiện những khám phá nào đó, và anh chỉ đang hiến dâng để khiến cho những khám phá này có thể tiếp cận được bởi những người có thể lắng nghe. Công việc của anh không chứa đựng một bộ giáo điều, anh cũng không cống hiến những phương pháp hay những kỹ thuật để đạt được một cái trí yên lặng. Anh không có ý định thiết lập bất kỳ hệ thống mới mẻ nào của niềm tin tôn giáo. Trái lại, nó tùy thuộc vào mỗi con người để thấy liệu anh ấy có thể tự khám phá cho chính anh ấy cái đó mà Krishnamurti đang gọi là sự chú ý, và từ đây tiếp tục thực hiện những khám phá mới mẻ cho riêng anh ấy.

 Vậy là, rõ ràng rằng một giới thiệu như thế này có thể giải thích hoàn hảo nhất về công việc của Krishnamurti đã được nhìn thấy như thế nào bởi một con người đặc biệt, một người khoa học, như tôi. Dĩ nhiên, muốn thấy trọn vẹn điều gì Krshnamurti có ý, rất cần thiết phải tiếp tục đọc điều gì anh thực sự nói, cùng chất lượng đó của sự chú ý đến tổng thể của những phản ứng của người ta, phía bên trong và phía bên ngoài, mà chúng tôi đang bàn luận ở đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10153)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11213)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13546)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13697)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22066)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21810)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27287)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17712)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11699)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12288)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25176)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23195)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28492)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22683)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25612)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22212)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13950)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13385)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22349)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26245)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18399)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18909)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34411)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27308)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28321)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21302)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14857)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19173)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10586)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18530)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15622)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13138)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13400)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 13980)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11750)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11598)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11317)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11830)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19886)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12355)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13917)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13240)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31874)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13409)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12719)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13297)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11860)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21805)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11061)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12852)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant