Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Suy nghĩnhận biết

21 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 8530)
04. Suy nghĩ và nhận biết
GIỚI HẠN CỦA SUY NGHĨ
Bàn luận
J. Krishnamurti và David Bohm
THE LIMITS of THOUGHT
Discussions
J. Krishnamurti and David Bohm
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 12– 2011

4 – Suy nghĩnhận biết

K

RISHNAMURTI: Tại sao nhân loại đã trao sự quan trọng lạ lùng như thế cho sự suy nghĩ?

DAVID BOHM: Anh đã vạch rõ rằng sự suy nghĩ trao tặng sự an toàn trong nhiều ý nghĩa, không chỉ trong ý nghĩa của an toàn thuộc tâm lý, nhưng còn cả an toàn thuộc vật chất.

KRISHNAMURTI: Vâng, trong bản chất sự suy nghĩ là không an toàn.

DAVID BOHM: Sự suy nghĩ không thể an toàn, nó chỉ là một phản ảnh.

KRISHNAMURTI: Vâng, vì vậy nó không thể an toàn trong chính nó và tìm kiếm an toàn phía bên ngoài.

DAVID BOHM: Nhưng tại sao nó tìm kiếm an toàn?

KRISHNAMURTI: Bởi vì sự suy nghĩ liên tục đang thay đổi, liên tục đang chuyển động.

DAVIF BOHM: Nhưng điều đó không giải thích tại sao nó không thỏa mãn để chỉ là như thế.

KRISHNAMURTI: Bởi vì nó thấy bản chất không vĩnh cửu của nó.

DAVID BOHM: Tại sao nó muốn vĩnh cửu?

KRISHNAMURTI: Bởi vì vĩnh cửuan toàn của nó.

DAVID BOHM: Nếu sự suy nghĩ mãn nguyện để nói, ‘Tôi không an toàn, tôi không vĩnh cửu’, vậy thì nó sẽ giống như thiên nhiên, nó sẽ chỉ nói, ‘Hôm nay tôi như thế này và ngày mai tôi khác hẳn.’

KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên. Nhưng tôi không mãn nguyện bởi việc đó. Liệu có phải bởi vì sự quyến luyến?

DAVID BOHM: Nhưng sự quyến luyến gì? Tại sao sự suy nghĩ nên tự quyến luyến đến bất kỳ điều gì? Tại sao nó không nên nói, ‘Tôi chỉ là sự suy nghĩ, tôi chỉ là một phản ảnh’?

KRISHNAMURTI: Nhưng bạn đang trao tặng sự thông minh đáng kể cho sự suy nghĩ. Nếu nó nói, ‘Tôi chỉ giống như thiên nhiên, tôi chỉ đến và đi trong sự chuyển động liên tục…’

DAVID BOHM: Lúc này, liệu anh đang nói rằng sự suy nghĩ là máy móc, đó là lý do tại sao nó đang làm điều này? Vậy thì, chúng ta phải thấy tại sao hệ thống máy móc phải cần tìm kiếm sự an toàn. Một cái máy không tìm kiếm bất kỳ thứ gì đặc biệt, chúng tathể chế tạo một cái máy và nó chỉ làm việc.

KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên, chừng nào còn có năng lượng, nó sẽ tiếp tục làm việc.

DAVID BOHM: Nếu nó bị hư hỏng, đó là sự kết thúc của nó.

KRISHNAMURTI: Nhưng liệu sự suy nghĩ nhận ra rằng nó là máy móc?

DAVID BOHM: Không, nhưng sự suy nghĩ đã tạo ra một lỗi lầm, có cái gì đó không đúng đắn trong nội dung của nó; đó là, sự suy nghĩ không biết nó là máy móc. Nhưng liệu điều đó có nghĩa sự suy nghĩ suy nghĩ rằng nó không máy móc?

KRISHNAMURTI: Thưa bạn, một vật máy móc không bị tổn thương.

DAVID BOHM: Không, nó chỉ vận hành.

KRISHNAMURTI: Ngược lại, sự suy nghĩ bị tổn thương.

DAVID BOHM: Và sự suy nghĩ có vui thú.

KRISHNAMURTI: Vâng, vui thú, đau khổ, và mọi chuyện còn lại của nó. Chúng ta hãy bám vào một điều. Nó bị tổn thương. Tại sao nó bị tổn thương? Bởi vì hình ảnhvân vân. Nó đã sáng chế hình ảnh, và trong hình ảnh mà nó đã sáng chế nó đang tìm kiếm sự an toàn, đúng chứ?

DAVID BOHM: Vâng, không rõ ràng tại sao nó lại đã bắt đầu tìm kiếm loại an toàn đó. Nếu nó đã bắt đầu như một hệ thống máy móc, đã không có…

KRISHNAMURTI: Điều này khá lý thú, đúng chứ? Tại sao sự suy nghĩ không nhận ra nó là máy móc? Tại sao nó cho rằng nó là cái gì đó khác hẳn một cái máy?

DAVID BOHM: Vâng, trong ý nghĩa nào đó nó có lẽ cho rằng nó có thông minhcảm thấy và rằng, nó là vật đang sống, khác hẳn máy móc.

KRISHNAMURTI: Tôi nghĩ đó là gốc rễ của nó, đúng chứ? Nó suy nghĩ nó đang sống. Và thế là nó tự cho là nó có chất lượng của sự hiện diện không máy móc. Sự suy nghĩ rất khôn lanh, đang tự trao tặng cho nó những chất lượng mà tại cơ bản nó không có. Tại sao nó làm như thế?

DAVID BOHM: Anh đang nói rằng, vì lý do nào đó sự suy nghĩ có thể nhận ra nó là máy móc, mà sẽ hàm ý rằng nó có thông minh nào đó.

KRISHNAMURTI: Vâng. Liệu sự suy nghĩ nhận ra rằng nó là máy móc hay chính là sự nhận biết thấy nó?

DAVID BOHM: Điều đó dường như sẽ là một thay đổi từ điều gì anh đã nói ngày hôm trước.

KRISHNAMURTI: Tôi chỉ đang thâm nhập.

DAVID BOHM: Nó được tạo thành bởi những bộ phận mà được sắp xếp vào chung và vân vân. Lúc này, nếu có một nhận biết rằng sự suy nghĩ là máy móc, vậy thì thông minh đó ở trong nhận biết đó.

KRISHNAMURTI: Liệu chúng ta đang nói, thưa bạn, rằng trong bản chất sự suy nghĩ có chất lượng của thông minh, của nhận biết, và thế là nó tự nhận biết chính nó như là máy móc?

DAVID BOHM: Dường như điều đó sẽ lạ lùng.

KRISHNAMURTI: Hay có sự nhận biết, và sự nhận biết đó nói sự suy nghĩ là máy móc.

DAVID BOHM: Vâng, chúng ta gọi điều đó là sự thật.

KRISHNAMURTI: Vâng, nhưng có hai vấn đề. Hoặc trong chính nó sự suy nghĩý thức của sự nhận biết này, ý thức của sự thông minh này, và thế là nhận ra rằng nó là máy móc, hoặc có sự nhận biết mà là sự thật, và sự nhận biết đó nói sự suy nghĩ là máy móc.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng ý tưởng đầu tiên dường như là một mâu thuẫn.

KRISHNAMURTI: Vâng. Liệu điều này trả lời tại sao sự suy nghĩ là phân chia?

DAVID BOHM: Nếu sự suy nghĩ là máy móc, vậy thì nó sẽ phải là phân chia.

KRISHNAMURTI: Sự suy nghĩ không thể nhận ra nó là máy móc, hay sao?

DAVID BOHM: Lúc trước anh đang nói sẽ có một nhận biết thuộc ý thức về bản chất của sự suy nghĩ và sau đó sự suy nghĩ sẽ đến sự trật tự.

KRISHNAMURTI: Vậy là, chúng ta phải quay lại điều gì đó khác nữa. Những sự việc mà ý thức chứa đựng được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Tất cả nội dung của ý thức đó là sản phẩm của sự suy nghĩ; ý thức sự suy nghĩ.

DAVID BOHM: Vâng, nó là toàn qui trình.

KRISHAMURTI: Vâng. Liệu sự suy nghĩ thấy tất cả điều này, hay liệu lúc đó chỉ có sự nhận biết thuần túy mà không có sự suy nghĩ nói rằng sự suy nghĩ là máy móc?

DAVID BOHM: Vậy thì làm thế nào sự suy nghĩ biết phải làm gì? Ngày hôm trước chúng ta đang nói rằng khi có sự nhận biết của sự thật…

KRISHNAMURTI: Hành động xảy ra.

DAVID BOHM: …hành động xảy ra, và sự suy nghĩ trở nên nhận biết hành động đó.

KRISHNAMURTI: Vâng, điều đó đúng.

DAVID BOHM: Lúc này, trong trở nên nhận biết hành động đó, liệu sự suy nghĩ là máy móc?

KRISHNAMURTI: Không, lúc đó sự suy nghĩ không là máy móc.

DAVID BOHM: Anh phải nói rằng sự suy nghĩ thay đổi bản chất của nó. Đó là mấu chốt mà chúng ta phải nắm chặt, rằng sự suy nghĩ không có một bản chất cố định. Đó là mấu chốt?

KRISHNAMURTI: Vâng, thưa bạn.

DAVID BOHM: Tôi nghĩ rằng đa phần của bàn luận này có khuynh hướng hàm ý rằng sự suy nghĩ có một bản chất cố định, nhưng lúc này chúng ta nói sự suy nghĩ có thể thay đổi.

KRISHNAMURTI: Vâng, sự suy nghĩ thay đổi.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng tôi có ý nó có thể thay đổi một cách cơ bản.

KRISHNAMURTI: Chờ đã, tôi đang bắt đầu thấy cái gì đó – cả hai chúng ta đang bắt đầu thấy cái gì đó. Chúng ta nói sự nhận biết tổng thể là sự thật. Sự nhận biết đó vận hành trong cái thực sự. Có sự nhận biết mà là sự thật, và cái đó chỉ có thể vận hành trong cái thực sự. Hãy quan sát, thưa bạn, giải thích nó theo cách khác. Tôi nhận biết cái gì đó một cách tổng thể, mà không là hành động của sự suy nghĩ.

DAVID BOHM: Vâng, đó là một hành động trực tiếp.

KRISHNAMURTI: Vâng, đó là sự nhận biết trực tiếp. Sự nhận biết đó hành động một cách trực tiếp.

DAVID BOHM: Mà không có sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Đó là điều gì tôi muốn tìm ra.

DAVID BOHM: Vâng. Khi có sự nhận biết của nguy hiểm, nó hành động tức khắc, mà không có sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng. Sau đó, sự suy nghĩ có thể trở nên nhận biết được hành động đó, và diễn giải nó thành những từ ngữ. Đó là, có một nhận biết tổng thể, mà là sự thật. Sự nhận biết đó hành động trong cánh đồng của thực tế. Hành động đó không là sản phẩm của sự suy nghĩ, nhưng bởi vì nó là một hành động của cái tổng thể, sự suy nghĩ đã trải qua một thay đổi.

DAVID BOHM: Anh nói sự suy nghĩ là bộ phận của cái tổng thể, sự suy nghĩ được chứa đựng bên trong cái tổng thể và thế là nó được thay đổi. Đó là điều gì anh đang nói?

KRISHNAMURTI: Không, tôi chỉ đang thâm nhập. Khi nó thấy cái tổng thể, đó là sự thật.

DAVID BOHM: Cái tổng thể là khác hẳn, bởi vì sự nhận biết.

KRISHNAMURTI: Nó không tách rời.

DAVID BOHM: Không, nó là một tổng thể, nhưng khác hẳn.

KRISHNAMURTI: Vâng, và nó hành động. Hành động đó không là sản phẩm của sự suy nghĩ, nó không bị sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Điều đó rõ ràng. Vậy thì, sự liên quan của sự suy nghĩ đến hành động đó là gì?

DAVID BOHM: Chúng ta có thể nói rằng sự suy nghĩ là một qui trình vật chất, được đặt nền tảng trên những tế bào não. Lúc này, vì lý do nào đó hành động của sự nhận biết sẽ hành động vào những tế bào não, đúng chứ?

KRISHNAMURTI: Đó là mấu chốt; nó hành động. Hoàn toàn đúng, thưa bạn.

DAVID BOHM: Và thế là sự suy nghĩ phải khác hẳn.

KRISHNAMURTI: Hoàn toàn đúng. Đó là, thưa bạn, bạn thấy cái gì đó một cách tổng thể và sự nhận biết tổng thể đó khác hẳn sự nhận biết tách rời, mà đã là bản chất của hoạt động của bộ não. Khi có sự nhận biết và hành động tổng thể này, nó phải tác động những tế bào não.

DAVID BOHM: Giả sử, trong tác động những tế bào não, nó có lẽ thay đổi bản chất của sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Chờ đã, nó khá yếu ớtmơ hồ. Nó là một chấn động nhẹ, nó là cái gì đó hoàn toàn mới mẻ cho bộ não.

DAVID BOHM: Và thế là sự nhận biết thâm nhập một cách toàn bộ vào cấu trúc thuộc vật chất của bộ não.

KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy đơn giản về nó. Nếu bạn thấy sự phân chia đó, sự tách rời đó là một nguy hiểm vô cùng – nếu bạn thực sự thấy nó – liệu nó không tác động toàn cách suy nghĩ của bạn, hay sao?

DAVID BOHM: Vâng, và sự suy nghĩ đã phát triển một phương cách để ngăn cản sự tác động này không xảy ra.

KRISHNAMURTI: Đó là nó, đó là điều gì tôi muốn nhắm đến. Sự suy nghĩ kháng cự nó.

DAVID BOHM: Nhưng tại sao? Một cái máy sẽ không kháng cự.

KRISHNAMURTI: Không, bởi vì nó là một thói quen. Nó bị quy định vào điều đó, nó vẫn còn ở trong khe rãnh đó. Và sự nhận biết xuất hiện và lay động nó.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng sự suy nghĩ tự kiên định, nó bám vào một vị trí cố định. Nếu anh quan sát nó theo cách này, sự suy nghĩ đã không có một bản chất cố định, nó có lẽ là máy móc hay nó có lẽ là thông minh.

KRISHNAMURTI: Không, lúc này tôi sẽ không giao cho sự suy nghĩ từ ngữ ‘thông minh’.

DAVID BOHM: Trước kia, chúng ta đã nói rằng sự suy nghĩ có lẽ không có một bản chất cố định và không cần là máy móc.

KRISHNAMURTI: Sự suy nghĩ vận hành trong những khe rãnh, sự suy nghĩ sống trong những thói quen, trong những kỷ niệm, và một nhận biết tổng thể có tác động toàn cấu trúc đó.

DAVID BOHM: Điều đó đúng, do bởi sự nhận biết này nên sự suy nghĩ khác hẳn.

KRISHNAMURTI: Vâng, sự suy nghĩ khác hẳn bởi vì sự nhận biết đó.

DAVID BOHM: Bởi vì sự nhận biết đã thâm nhập cấu trúc thuộc vật chất của sự suy nghĩ. Nhưng lúc này chúng ta không muốn nói nó là thông minh. Chúng ta sẽ nói rằng sự suy nghĩ sẽ không gây ra rối loạn nếu nó làm việc như một cái máy, nó sẽ chỉ vận hành. Vì lý do lạ lùng nào đó sự suy nghĩ đang nỗ lực làm nhiều hơn sự vận hành giống như một cái máy.

KRISHNAMURTI: Vâng, sự suy nghĩ đang nỗ lực làm nhiều hơn một cái máy.

DAVID BOHM: Lúc này, có sự nhận biết và sự hiểu rõ, và điều này có lẽ được ghi lại trong sự suy nghĩ. Nếu sự nhận biết tác động cấu trúc thuộc vật chất của bộ não, vì lý do nào đó sự tác động này được ghi lại trong nội dung của ký ức.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng. Chờ một phút, thưa bạn, tôi muốn quay lại một chút xíu.

 Bạn nhận biết cái gì đó một cách tổng thể. Có sự nhận biết tổng thể của tham lamchúng ta hãy sử dụng ví dụ đó lúc này. Bởi vì sự nhận biết tổng thể đó, hoạt động của bạn là không máy móc – máy móc là đang theo đuổi tham lam bởi sự suy nghĩ.

DAVID BOHM: Nhưng liệu không có một bộ phận khác của sự suy nghĩ mà là máy móc nhưng cần thiết, hay sao? Ví dụ, thông tin được chứa đựng trong sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Chờ đã, bây giờ tôi đang đến đó. Bạn nhận biết một cách tổng thể bản chất và cấu trúc của tham lam, và bởi vì bạn nhận biết, có sự kết thúc của nó. Lúc đó sự suy nghĩvị trí gì?

DAVID BOHM: Nó vẫn còn có một chức năng thuộc máy móc.

KRISHNAMURTI: Không, nó kết thúc – bạn không còn tham lam.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng điều đó cũng bao gồm những sự việc khác hơn sự tham lam, giống như sự suy nghĩ thực tế.

KRISHNAMURTI: Nhưng bạn không tham lam. Phản ứng đó, động lực đó, thói quen thuộc máy móc đó đã kết thúc. Lúc đó, sự suy nghĩvị trí gì?

DAVID BOHM: Nhưng sự suy nghĩvị trí nào đó nếu anh muốn đi đến nơi nào đó.

KRISHNAMURTI: Tại sao? Khi tôi cần một cái áo, tôi sẽ mua nó, nhưng không có tham lam.

DAVID BOHM: Không, nhưng sự suy nghĩ không đồng hóa cùng tham lam. Anh có sự suy nghĩ hợp lý. Tham lam là sự suy nghĩ không hợp lý.

KRISHNAMURTI: Vâng, tham lam là không hợp lý.

DAVID BOHM: Nhưng có sự suy nghĩ hợp lý, ví dụ, nếu anh muốn tính toán cái gì đó.

KRISHNAMURTI: Khi bạn nhận biết tổng thể của tham lam, cái gì đó đã xảy ra cho bạn.

DAVID BOHM: Nhưng liệu anh đang nói không còn sự suy nghĩ nữa?

KRISHNAMURTI: Sự suy nghĩ không cần thiết.

DAVID BOHM: Vậy thì làm thế nào anh tìm được phương hướng của anh? Làm thế nào anh sử dụng ký ức?

KRISHNAMURTI: Hãy quan sát, tôi không còn tham lam nữa. Tôi không cần đến sự suy nghĩ trong lãnh vực của sự nhận biếtvì vậy sự suy nghĩ không thâm nhập vào nó.

DAVID BOHM: Không vào sự nhận biết, nhưng rõ ràng nó vẫn còn có một vị trí.

KRISHNAMURTI: Tôi đang nói nó không có vị trí trong tham lam. Nơi nào có sự nhận biết tổng thể, sự suy nghĩ không có vị trí.

DAVID BOHM: Trong sự nhận biết đó.

KRISHNAMURTI: Không chỉ trong sự nhận biết; sự suy nghĩ không còn liên quan đến điều đó nữa. Bạn nhận biết rằng tất cả niềm tin là không hợp lý, có một nhận biết của toàn cấu trúc của niềm tin này, và sau đó niềm tin không có vị trí trong sự suy nghĩ của bạn, trong bộ não của bạn. Nếu tôi nhận biết bản chất tổng thể của niềm tin này, vậy thìkết thúc.

 Vậy thì, sự suy nghĩ chen vào điều mà sự suy nghĩ đã sáng chế ở đâu? Tôi không biết liệu tôi đang chuyển tải điều gì đó. Hãy quan sát, thưa bạn, tôi nhận biết – tạm thời lúc này tôi đang sử dụng từ ngữ ‘tôi’ – tôi nhận biết một cách tổng thể bản chất của niềm tinsợ hãi, và mọi chuyện còn lại của nó. Bởi vì nó là một nhận biết tổng thể, niềm tin như thế không tồn tại trong sự suy nghĩ của tôi, trong bộ não của tôi. Lúc này, sự suy nghĩ chen vào ở đâu?

DAVID BOHM: Không tại mấu chốt đó.

KRISHNAMURTI: Nó kết thúc. Sự suy nghĩ không có vị trí khi có sự nhận biết tổng thể. Sự suy nghĩ vận hành chỉ khi nào có một nhu cầu cho lương thực, quần áo hay chỗ ở. Bạn nói gì với điều đó?

DAVID BOHM: Vâng, điều đó có lẽ đúng.

KRISHNAMURTI: Tôi muốn hiểu rõ nó, tôi muốn thâm nhập nó.

DAVID BOHM: Nhưng điều gì chúng ta đã bắt đầu là hiểu rõ tại sao sự suy nghĩ đã làm việc gì nó đã làm. Nói cách khác, khi có sự nhận biết tổng thể, vậy thì không có vị trí cho sự suy nghĩ. Lúc này, khi chúng ta tiếp xúc những công việc thực tế, anh có thể nói chúng ta không có sự nhận biết tổng thể nhưng chúng ta phụ thuộc vào thông tin đã được tích lũy vì vậy chúng ta cần sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: À, vâng. Tôi cần nó để xây dựng một ngôi nhà.

DAVID BOHM: Và anh phụ thuộc vào thông tin được tích lũy, anh không thể nhận biết một cách trực tiếp làm thế nào để xây dựng một ngôi nhà.

KRISHNAMURTI: Hoàn toàn đúng.

DAVID BOHM: Nhưng còn những vấn đề thuộc tâm lý…

KRISHNAMURTI: Khi có sự nhận biết tổng thể, sự suy nghĩ không thâm nhập vào qui trình thuộc tâm lý.

DAVID BOHM: Vâng, nó không có vị trí trong sự nhận biết thuộc tâm lý, mặc dù nó có lẽ có một vị trí trong sự nhận biết thuộc vật chất.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Nhưng vẫn vậy con người sẽ luôn luôn hỏi tại sao sự suy nghĩ đã theo hướng sai lầm, tại sao nó đã làm tất cả những việc lạ lùng này, tại sao nó đã tự xô đẩy đến nơi nó không có vị trí.

KRISHNAMURTI: Chúng ta có thể nói rằng sự suy nghĩ sáng chế ảo tưởng?

DAVID BOHM: Vâng, nhưng tại sao nó nên, tại sao nó muốn sáng chế? Điều gì khiến cho nó xảy ra?

KRISHNAMURTI: Bởi vì sự suy nghĩ đã đảm đương vị trí của sự nhận biết.

DAVID BOHM: Nhưng tại sao nó nên?

KRISHNAMURTI: Tại sao sự suy nghĩ nên giả vờ rằng nó thấy tổng thể?

DAVID BOHM: Hay thậm chí rằng nó thấy bất kỳ vật gì.

KRISHNAMURTI: Liệu nó xảy ra, thưa bạn, rằng khi có sự nhận biết tổng thể, sự nhận biết đó không có chuyển động của sự suy nghĩ, thời gian, và vân vân, cái trí sử dụng sự suy nghĩ chỉ khi nào cần thiết – và ngược lại nó trống không?

DAVID BOHM: Tôi không hiểu liệu chúng ta có thể giải thích theo cách khác. Một cái trí như thế, khi nó sử dụng sự suy nghĩ, nhận ra rằng nó sự suy nghĩ, nó không bao giờ cho rằng nó không là sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng. Nó nhận ra rằng nó là sự suy nghĩ và không còn gì khác.

DAVID BOHM: Nếu nó chỉ là sự suy nghĩ, nó chỉ có một ý nghĩa giới hạnchúng ta không cần nghĩ rằng nó quan trọng đến thế.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Tôi nghĩ sự nguy hiểm là rằng có cái trí mà không nhận ra rằng đây là sự suy nghĩ. Tại chặng đường nào đó qui trình thuộc máy móc bắt đầu, mà chẳng hiểu vì sao không thừa nhận và không biết rằng nó là máy móc.

KRISHNAMURTI: Vâng. Liệu bạn cũng nói rằng con người không bao giờ nhận ra rằng sự suy nghĩ là máy móc mãi cho đến gần đây, và thế là nó đảm đương sự quan trọng cực kỳ?

DAVID BOHM: Vâng, đúng là chỉ đến gần đây khoa học mới khám phá những tính chất hóa học và vật lý của sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Thói quen, tình trạng bị quy định đã nói rằng sự suy nghĩ là điều cơ bản trong sống. Sự suy nghĩ không bao giờ nhận ra nó bị giới hạn. Liệu đó là điều gì chúng ta đang nói?

DAVID BOHM: Đó là một phần của nó, vâng.

KRISHNAMURTI: Và chúng ta cũng đang nói rằng, nơi nào có sự nhận biết tổng thể, một thay đổi trong sự suy nghĩ xảy ra.

DAVID BOHM: Lúc đó, điều gì xảy ra cho sự suy nghĩ?

KRISHNAMURTI: Sự suy nghĩ, bởi vì là máy móc, chỉ có thể vận hành một cách máy móc, không có thực thể thuộc tâm lý mà sự suy nghĩ có thể sử dụng.

DAVID BOHM: Chúng ta hãy giải thích rõ ràng điều này một chút xíu. Chúng ta hãy nói rằng có một sáng tạo mới mẻ, cái gì đó mới mẻ thâm nhập vào sự suy nghĩ, vào cánh đồng của thực tế. Nhưng chúng ta nói đó có lẽ là một nhận biết.

KRISHNAMURTI: Tôi nghĩ đó là như thế, dĩ nhiên.

DAVID BOHM: Nhờ vào sự nhận biết, sự suy nghĩ được khác hẳn, nhưng nó vẫn còn thuộc máy móc.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng, đó chính xác là điều gì chúng ta đang nói.

DAVID BOHM: Nó chỉ thay đổi sự trật tự của sự vận hành của nó nhờ vào sự nhận biết đó và thế là sáng tạo không những trong chính sự suy nghĩ nhưng còn cả trong sự nhận biết đó.

KRISHNAMURTI: Điều đó có nghĩa sự suy nghĩ đã sáng tạo cái ‘tôi’, và rõ ràng cái ‘tôi’ đã trở nên độc lập khỏi sự suy nghĩ, và cái ‘tôi’, bởi vì vẫn còn là bộ phận của sự suy nghĩ, phải là cấu trúc thuộc sự suy nghĩ. Và sự nhận biết chỉ có thể xảy ra khi không có cái ‘tôi’.

DAVID BOHM: Cái ‘tôi’, cấu trúc tưởng tượng này, cũng thực sự, nhưng cái ‘tôi’ dính dáng loại trung tâm nào đó, đúng chứ?

KRISHNAMURTI: Vâng, dĩ nhiên. Vậy là có một trung tâm. Liệu trung tâm đó độc lập khỏi sự suy nghĩ?

DAVID BOHM: Dường như trung tâm đó sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Đó là nó. Đó là lý do tại sao nó tách rời.

DAVID BOHM: Lúc này anh đang nói rằng, bởi vì chúng ta suy nghĩ qua trung tâm đó, sẽ có sự tách rời.

KRISHNAMURTI: Phải có. Bạn thấy lý do cơ bản cho sự tách rời là rằng chúng ta vận hành từ một trung tâm.

DAVID BOHM: Chúng ta nghĩ chúng ta vận hành thuộc tâm lý, từ một trung tâm. Thuộc vật chất chúng ta bị bắt buộc phải vận hành từ một trung tâm bởi vì thân thểtrung tâm của cánh đồng nhận biết của chúng ta. Thuộc tâm lý chúng ta hình thành một bắt chước của điều đó, chúng ta có sự suy nghĩ của trung tâm đó. Sự hình thành đó có hữu ích, thuộc thân thể, nhưng sau đó nó được lan rộng thuộc tâm lý.

KRISHNAMURTI: Đúng, đó là lý do tại sao sự suy nghĩ là tách rời.

DAVID BOHM: Liệu có một suy nghĩ mà không vận hành từ trung tâm đó? Hay nó luôn luôn phải?

KRISHNAMURTI: Nó phải. Bởi vì sự suy nghĩ là ký ức từ một trung tâm.

DAVID BOHM: Chúng ta hãy cố gắng thâm nhập điều đó. Tại sao nó phải từ một trung tâm, tại sao ký ức không thể tồn tại mà không có một trung tâm. Đối với tôi không rõ ràng lắm khi tại sao không thể chỉ có ký ức, chỉ thông tin.

KRISHNAMURTI: Có thể có thông tin.

DAVIF BOHM: Liệu cái đó phải có một trung tâm?

KRISHNAMURTI: Nếu nó chỉ là thông tin, tại sao nên có một trung tâm?

DAVID BOHM: Đối với tôi không rõ ràng lắm khi tại sao sự suy nghĩ đã phải hình thành một trung tâm. Chúng ta đã biết có một trung tâm nhưng tại sao chúng ta đã trao cho trung tâm đó sự quan trọng thuộc tâm lý như thế?

KRISHNAMURTI: Bởi vì sự suy nghĩ không bao giờ tự thừa nhận với chính nó rằng nó là máy móc.

DAVID BOHM: Sự suy nghĩ đã không thể thừa nhận rằng nó là máy móc. Tại sao điều đó cần đến một trung tâm? Sự suy nghĩ không chỉ sáng chế trung tâm đó, nhưng ý tưởng của trung tâm hiện diện ở đó, chỉ vì những mục đích thực tế. Nhưng sự suy nghĩ đã sử dụng ý tưởng đó cho chính nómột cách tâm lý.

KRISHNAMURTI: Vâng.

DAVID BOHM: Lúc này, tại sao nó đang làm điều đó?

KRISHNAMURTI: Bởi vì một lý do rất đơn giản. Sự suy nghĩ đã nói, ‘Tôi không thể là máy móc, tôi phải là điều gì đó còn hơn thế nữa.’

DAVID BOHM: Vậy thì, làm thế nào trung tâm đó làm cho nó còn hơn thế nữa?

KRISHNAMURTI: Bởi vì cái ‘tôi’ cho nó một vĩnh cửu.

DAVID BOHM: Chúng ta nên cố gắng giải thíchrõ ràng hơn rằng trung tâm đó cho sự vĩnh cửu này trong một dối trá.

KRISHNAMURTI: Sự suy nghĩ đã sáng chế cái microphone này. Đó là ‘vĩnh cửu’, vĩnh cửu trong hai ngoặc.

DAVID BOHM: Vĩnh cửu một cách tương đối, vâng.

KRISHNAMURTI: Và cũng vậy sự suy nghĩ đã sáng chế cái ‘tôi’ như một thực thể vĩnh cửu.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng tại sao nó đã chọn ra một trung tâm để là vĩnh cửu?

KRISHMURTI: Có lẽ nó chọn điều đó bởi vì mặt trời, mà là trung tâm của vũ trụ. Và nếu có một trung tâm, như bạn đã nói, nó kết hợp mọi thứ lại cùng nhau.

DAVID BOHM: Vâng, nó cho sự hợp nhất.

KRISHNAMURTI: Hợp nhất, gia đìnhvân vân. Nhưng trung tâm đó trở nên hoàn toàn không cần thiết khi có sự nhận biết tổng thể.

DAVID BOHM: Anh nói, nó cần thiết khi không có sự nhận biết tổng thể.

KRISHNAMURTI: Nó không cần thiết, nhưng đó là điều gì đang xảy ra.

DAVID BOHM: Không thể nhận ra nó là máy móc, sự suy nghĩ bắt đầu đối xử với những sản phẩm riêng của nó như đang sống.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Và đang thấy sự không ổn định của chúng, sự không vĩnh cửu của chúng, nó đã cố gắng thiết lập cái gì đó vĩnh cửu và nó khám phá trung tâm đó hữu ích cho việc cố gắng thực hiện điều đó. Nó là một cái khuôn mà mọi thứ có thể được sắp xếp và được kềm tỏa lại cùng nhau. Vì vậy, nếu mọi thứ đang tách rời – nếu bị bỏ lại mình nó sự suy nghĩ bị tách rời – nếu bạn thiết lập một trung tâm, nó kiềm tỏa tất cả lại cùng nhau.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng, thưa bạn. Vì vậy, khi bạn nhận biết cái gì đó một cách tổng thể, trung tâm đó không tồn tại. Và tuy nhiên, liệu nó giới thiệu cái gì đó? Khi bạn nhận biết điều gì đó, liệu nó bao gồm mọi thứ? Không phải rằng trung tâm đó mà kiềm tỏa, mà kết hợp mọi thứ, hay sao?

DAVID BOHM: Để nhận biết?

KRISHNAMURTI: Để nhận biết.

DAVID BOHM: Hành động.

KRISHNAMURTI: Hành động – đây là giả dối.

DAVID BOHM: Ồ, chúng ta hãy nói điều gì đó khác hẳn, rằng hành động của sự nhận biết kết hợp mọi thứ mà anh biết, và sự suy nghĩ đang bắt chước điều đó bằng cách sáng chế một trung tâmkết hợp mọi thứ và nó cho rằng sự nhận biết từ trung tâm đó.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng, cũng như người quan sát, và vân vân.

DAVID BOHM: Và cũng cả người suy nghĩ. Nó cũng cho rằng nguồn gốc riêng của nó từ trung tâm đó, và thế là nó cho rằng sự thật từ chính nó.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Và thế là sự sống, và vân vân.

KRISHNAMURTI: Liệu có, thưa bạn, một nhận biết của tham lam, của sợ hãi, và vân vân, hay liệu có sự nhận biết tổng thể mà bao gồm mọi thứ? Bạn theo kịp chứ?

DAVID BOHM: Vâng.

KRISHNAMURTI: Vì vậy, nó không là sự nhận biết của tham lam, sự nhận biết của niềm tin, sự nhận biết của tôn giáo có tổ chức.

DAVID BOHM: Chúng ta hãy nói có sự nhận biết của cái gì là.

KRISHNAMURTI: Vâng, chỉ có sự nhận biết.

DAVID BOHM: Lúc này có một nghi vấnchúng ta phải khai quang. Anh đã nói sự thật là cái là.

KRISHNAMURTI: Vâng, chỉ có sự nhận biết, không người nhận biết.

DAVID BOHM: Không có người nhận biết, nhưng sự nhận biết cũng là cái là, đúng chứ?

KRISHNAMURTI: Vâng, và người nhận biếttrung tâm đó.

DAVID BOHM: Vâng, sự suy nghĩ cho rằng trung tâm đó là chất lượng của là một người nhận biết, cũng như một người suy nghĩ và một người hành động.

KRISHNAMURTI: Mọi chuyện còn lại của nó – người trải nghiệm và vân vân.

DAVID BOHM: Khi sự suy nghĩ đã sáng chế trung tâm đó, vậy thì nó có lẽ giao cho trung tâm đó vô số chất lượng, như là suy nghĩcảm thấy.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng, thưa bạn.

DAVID BOHM: Và nếu có đau khổ, hay vui thú, nó sẽ đổ cho trung tâm đó. Vì vậytrở thành sinh động. Liệu anh có thể nói rằng sự chịu đựng đau khổ nảy sinh khi đau khổ được đổ cho trung tâm đó?

KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên. Chừng nào còn có một trung tâm phải có đang chịu đựng đau khổ.

DAVID BOHM: Vâng, bởi vì khi không có trung tâm vậy thì đau khổ đó chỉ ở trong sự suy nghĩ.

KRISHNAMURTI: Chỉ thuộc thân thể.

DAVID BOHM: Hoặc nó thuộc thân thể hoặc nó là ký ức – mà không là gì cả.

KRISHNAMURTI: Vâng, mà không là gì cả.

DAVID BOHM: Nhưng nếu ký ức của đau khổ được giao cho trung tâm đó, vậy thìtrở thành thực sự, chắc chắntrở thành điều gì đó khủng khiếp.

KRISHNAMURTI: Thế là, chúng ta đang thấy điều gì đó; đó là, nếu có sự nhận biết tổng thể, sự suy nghĩ không có vị trí trong nó.

DAVID BOHM: Và sự nhận biết đó hành động và sự suy nghĩ có lẽ có một vị trí trong hành động đó. Đó là điều gì chúng ta đang nói ngày hôm trước.

KRISHNAMURTI: Vâng. Lúc này chúng ta hãy giải thích rõ ràng điều đó. Có sự nhận biết tổng thể – trong nó không có sự suy nghĩ. Và sự nhận biết đó là hành động đó.

DAVID BOHM: Vâng, và điều đó sẽ thay đổi chất lượng của sự suy nghĩ, giống như nó đang thay đổi những tế bào não.

KRISHNAMURTI: Vâng, sự suy nghĩ chỉ có một chức năng thuộc máy móc.

DAVID BOHM: Qua từ ngữ thuộc máy móc chúng ta có ý, hầu như, không phải thông minh; nó không là sáng tạo, nó không là thông minh.

KRISHNAMURTI: Thế là, nếu sự suy nghĩ chỉ thuần túy là máy móc, lúc đó nó có thể vận hành một cách máy móc trong mọi thứ mà không có bất kỳ trung tâm thuộc tâm lý nào, lúc đó không có vấn đề.

DAVID BOHM: Tôi nghĩ thậm chí từ ngay khởi đầu, sự suy nghĩ đã tự nhận lầm chính nó với cái gì đó đang sống và sáng tạotiếp theothiết lập trung tâm đó với mục đích thực hiện sự vĩnh cửu.

KRISHNAMURTI: Hoàn toàn đúng. Vậy là, lúc này chúng ta đã thấy tại sao sự suy nghĩ là tách rời.

DAVID BOHM: Nhưng tại sao nó là tách rời?

KRISHNAMURTI: Bởi vì trung tâm đó. Sự suy nghĩ đã sáng chế trung tâm đó như một vĩnh cửu, và trung tâm đó hình thành một đơn vị để thu hút mọi thứ vào cùng nhau.

DAVID BOHM: Vâng, toàn thế giới được kiềm tỏa vào cùng nhau bởi trung tâm đó. Bởi vì nếu người nào đó cảm thấy trung tâm của anh ấy không còn, anh ấy cảm thấy toàn thế giới của anh ấy đang tách ra từng mảnh.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Vì vậy, trung tâm đó giống hệt như thế giới.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng, vì vậy sự suy nghĩ là tách rời.

DAVID BOHM: Điều đó không hoàn toàn giải thích tại sao nó là tách rời.

KRISHNAMURTI: Bởi vì nó đã tự tách rời chính nó khỏi sự việc nó đã sáng chế.

DAVID BOHM: Đó là mấu chốt, vì vậy chúng ta hãy giải thích rõ ràng điều này. Nó đã tự cho nó là một trung tâm mà tách rời khỏi chính nó, ngược lại thật ra nó đã sáng chế trung tâm đó và nó là trung tâm đó.

KRISHNAMURTI: Nó trung tâm đó.

DAVID BOHM: Nhưng nó trao cho trung tâm đó chất lượng của là sinh động và thực sự, và vân vân. Và đó là một tách rời.

KRISHNAMURTI: Đó là điều cơ bản.

DAVID BOHM: Từ đó theo sau nhu cầu cho phần còn lại của sự tách rời của sự sống. Bởi vì với mục đích duy trì hai việc đó là khác biệt, vậy là sự suy nghĩ phải phá vỡ mọi thứ để phù hợp điều đó. Và ở đó sự rối loạn thâm nhập, bởi vì hoặc nó tách rời những thứ mà không tách rời, hoặc nó sắp xếp những thứ mà khác biệt. Với mục đích duy trì sự xung độttrung tâm đó tách rời khỏi sự suy nghĩ, mọi thứ khác phải được làm cho phù hợp điều đó.

KRISHNAMURTI: Tất cả sự tồn tại phải được làm cho phù hợp trung tâm đó.

DAVID BOHM: Ví dụ, nếu người nào đó giao cho trung tâm đó chất lượng của là một quốc gia nào đó, vậy thì bạn phải phân biệt một quốc gia khác như không phù hợp với trung tâm này. Thế là nó tách rời nhân loại với mục đích kiềm tỏa trung tâm đó lại cùng nhau. Vì vậy, toàn thế giới bị tách rời một cách không giới hạn, bị vỡ tan thành những mảnh.

KRISHNAMURTI: Tôi muốn bắt đầu nói về chủ đề khác. Nếu tôi nhận biết bản chất của niềm tin, nó chấm dứt. Khi có sự nhận biết tổng thể của sợ hãi, nó chấm dứt. Và khi có sự nhận biết tổng thể của tham lam, nó chấm dứt. Liệu sự nhận biết đó là một việc này sang một việc khác, hay liệu có sự nhận biết tổng thể của tổng thể đó.

DAVID BOHM: Nếu có sự nhận biết tổng thể của tổng thể đó, vậy thì sẽ còn lại việc gì để làm?

KRISHNAMURTI: Đó là điều gì tôi muốn tìm ra. Liệu sự nhận biết là tổng thể, và thế là nó khai quang toàn cánh đồng?

DAVID BOHM: Vậy thì sẽ còn lại việc gì để làm?

KRISHNAMURTI: Chờ đã, chúng ta hãy xem thử liệu nó là như thế. Thế là nó không phải trải qua tham lam, niềm tin, sợ hãi, vui thú – nó đã sẵn sàng hành động.

DAVID BOHM: Anh đang nói rằng con người có lẽ nhận biết toàn bản chất của sự suy nghĩ; hay nó vượt khỏi điều đó?

KRISHNAMURTI: Vượt khỏi điều đó, thêm một chút xíu. Sự nhận biết thấy bản chất của sự suy nghĩ, và bởi vì nó nhận biết bản chất của sự suy nghĩ, nó nhận biết tất cả những mảnh.

DAVID BOHM: Vâng, tôi thấy điều đó. Nó nổi cộm một nghi vấn tôi muốn đặt ra từ lâu rồi. Trong quyển Truyền thốngCách mạng, anh đề cập ý tưởng của bản thể, sự nhận biết đó tinh lọc bản thể. Anh nhớ điều đó?

KRISHNAMURTI: Không, tôi không nhớ, xin lỗi.

DAVID BOHM: Trong cách nào đó, dường như đã có một ý tưởng rằng có sự nhận biết – sự nhận biết tổng thể là thông minh – và từ đó hiện diện điều gì anh gọi là bản thể, nó được tinh lọc giống như một bông hoa.

KRISHNAMURTI: Vâng.

DAVID BOHM: Lúc này, liệu bản thể đó là bất kỳ thứ gì giống như tổng thể này?

KRISHNAMURTI: Đó là nó là gì, dĩ nhiên. Lúc này, hãy chờ đã, tôi muốn giải thích điều này rõ ràng. Bạn sẽ nói không có sự nhận biết của sợ hãi, ganh tỵ, niềm tin, nhưng sự nhận biết tổng thể của mọi thứ mà sự suy nghĩ đã sắp xếp vào chung, và của trung tâm đó?

DAVID BOHM: Ồ, nó là tổng thể. Có một cụm từ mà thỉnh thoảng người ta sử dụng: ‘bản thể và tổng thể’.

KRISHNAMURTI: Để nhận biết bản thể và tổng thể.

DAVID BOHM: Liệu cụm từ đó dường như thỏa đáng?

KRISHNAMURTI: Tôi do dự về từ ngữ ‘bản thể’.

DAVID BOHM: Vì vậy chúng ta hãy nói anh nhận biết tổng thể.

KRISHNAMURTI: Hãy để lại từ ngữ ‘bản thể’ trong chốc lát. Không có đang thấy từng phần của tham lam, ganh tỵ và tất cả điều đó, nó là một nhận biết tổng thể. Và vì vậy, sự nhận biết tổng thể có nghĩa đang thấy tất cả những sự việc mà sự suy nghĩ đã sắp xếp vào chung, và nó đã khiến cho chính nó thành một trung tâm tách rời.

DAVID BOHM: Lúc này, chúng ta hãy trình bày nó rõ ràng hơn, bởi vì tổng thể có lẽ chỉ có nghĩa tất cả những việc này, hay nó có lẽ có nghĩa cái gì khác.

KRISHNAMURTI: Đối với tôi nó có nghĩa cái gì khác. Sự nhận biết tổng thể có nghĩa thấy sự suy nghĩ đang trao cho chính nó những chất lượng nào đó, sự suy nghĩ đang sáng chế trung tâm và đang trao cho trung tâm đó những thuộc tính nào đó, và tất cả những sự việc đang nảy sinh từ trung tâm thuộc tâm lý đó.

DAVID BOHM: Đó là toàn cấu trúc. Đó là điều gì chúng ta thường gọi là bản thể, cấu trúc cơ bản.

KRISHNAMURTI: Vâng, nếu bạn gọi điều đó là ‘bản thể’, tôi đồng ý.

DAVID BOHM: Và cấu trúc đó là vũ trụ. Anh sẽ đồng ý rằng nó không chỉ là suy nghĩ này hay suy nghĩ kia, vấn đề này hay vấn đề kia?

KRISHNAMURTI: Nó là vũ trụ, vâng. Lúc này, liệu một nhận biết như thế có thể xảy ra được? Bạn nói rằng nó có thể xảy ra được – không gì nữa. Bởi vì bạn bảo cho tôi, tôi thấy điều đó, tôi cảm thấy điều đó, tôi thấy sự thật của điều gì bạn đang nói. Điều gì bạn đang nói là sự thật; nó không là sự thật của tôi hay sự thật của bạn, nó là sự thật.

DAVID BOHM: Nếu anh nói nó là sự thật, nó là cái là.

KRISHNAMURTI: Cái mà là thực sự.

DAVID BOHM: Vâng, nhưng nó là cả hai. Tôi đang cố gắng giải thíchrõ ràng hơn. Khi chúng ta nói có sự thật và có thực sự, cách chúng ta thông thường sử dụng từ ngữ ‘thực sự’ thật ra là cách đúng cho sử dụng từ ngữ ‘cá thể’. Đối với tôi dường như thực sự là cá thể, nó không bị phân chia.

KRISHNAMURTI: Vâng, cá thể, không bị phân chia.

DAVID BOHM: Thực sự không bị phân chia, nhưng có một khoảnh khắc của thực sự hay có lẽ có một khoảnh khắc khác của thực sự và vân vân. Nhưng khi chúng ta thấy bản thể, hay khi chúng ta thấy tổng thể đó, hay vũ trụ đó, vậy thì thấy đó bao gồm tất cả điều đó.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng.

DAVID BOHM: Để cho sự thật vượt khỏi sự kiện thực sự, cá thể đó bởi vì nó thấy tổng thể đó. Nó thấy cái gì là vũ trụcần thiết, tổng thể đó của bản chất của sự suy nghĩ. Để cho mỗi mẫu mực cá thể của sự suy nghĩ đều hiện diện trong đó.

KRISHNAMURTI: Điều đó đúng. Khi điều đó được thấy, vậy thì sự suy nghĩ chỉ là máy móc.

DAVID BOHM: Vậy thì, sự suy nghĩ công nhận nó chỉ là máy móc.

KRISHNAMURTI: Không, sự suy nghĩ không phải công nhận nó, nó là máy móc.

DAVID BOHM: Vâng, sự suy nghĩ đã thay đổi, để cho nó là máy móc và không còn suy nghĩ rằng nó là không-máy móc. Nó bỗng lóe lên trong tôi rằng nếu một con người phải vượt khỏi sự tồn tại bị quy định này, và nếu anh ấy được sinh ra bị quy định, vậy thì không có cách nào vượt khỏi nó. Vì vậy cách duy nhất vượt khỏi là dành cho người sinh ra mà không bị quy định.

KRISHNAMURTI: Vâng – tiếp tục, vâng.

DAVID BOHM: Vì vậy, nếu có một người như thế, nó không là con người mà [hay ‘cái đó’] là quan trọng.

KRISHNAMURTI: Vâng.

DAVID BOHM: Nó chỉ là một bộ phận của trật tự vũ trụ. Nếu anh muốn bàn luận chỉ vì mục đích của bàn luận, anh có thể nói rằng có lẽ nhân loại đã đến được một chặng đường nơi nó sẵn sàng cho một thay đổi.

KRISHNAMURTI: Vâng, đó là điều gì họ nói.

DAVID BOHM: Nhiều người đã nói điều đó. Nhưng bởi vì anh không thể thay đổi từ chặng đường bị quy định, nó sẽ cần thiết phải có…

KRISHNAMURTI: Phải có một chất xúc tác.

DAVID BOHM: …một hạt nhân, mà không bị quy định. Đó là ý tưởng đã lóe lên trong tôi.

KRISHNAMURTI: Để quay lại, nếu có sự nhận biết tổng thể của bản chất của sự suy nghĩ và tất cả những hoạt động của nó, thế là có sự nhận biết tổng thể của nội dung của ý thức. Nội dung tạo thành ý thức, và mọi chuyện còn lại của nó, mà lúc trước đã là trung tâm đó. Sự nhận biết tổng thể chỉ hiện diện khi trung tâm đó không còn; lúc đó ý thức phải hoàn toàn khác biệt.

DAVID BOHM: Vâng. Vậy thì, anh sẽ nói gì về bản chất của nó?

KRISHNAMURTI: Điều gì sẽ là bản chất của nó? Bạn thấy, thưa bạn, trung tâm đó, như bạn đã vạch rõ, là nhân tố của sự hợp nhất.

DAVID BOHM: Nó là cách mà con người đã luôn luôn cố gắng hợp nhất.

KRISHNAMURTI: Nhưng nó đã không thành công, mãi mãi. Khi trung tâm đó không còn – mà là sự nhận biết của tổng thể của sự suy nghĩ, và vì vậy trung tâm đó không còn – ý thức phải là cái gì đó hoàn toàn khác biệt.

DAVID BOHM: Nhưng thông thường từ ngữ ‘ý thức’ sẽ liên quan ý tưởng của sự suy nghĩ. Liệu nó vẫn còn tiếp tục?

KRISHNAMURTI: Nếu không có sự suy nghĩ, không thể có ý thức.

DAVID BOHM: Anh gọi ý thức là gì?

KRISHNAMURTI: Lúc đó, tôi đã nói nó phải là cái gì đó hoàn toàn khác biệt. Ý thứcchúng ta có là cùng trung tâm đó, cùng tất cả nội dung, cùng tất cả sự suy nghĩ, cùng tất cả chuyển động đó, và khi có sự nhận biết tổng thể của điều đó, trung tâm đó không còn.

DAVID BOHM: Trung tâm đó không còn, và sự trật tự tổng thể là khác hẳn. Vâng, và anh cũng đã đề cập những tế bào não, rằng nó có lẽ gồm cả những tế bào não đang làm việc trong một cách khác hẳn.

KRISHNAMURTI: Tôi nghĩ như thế.

DAVID BOHM: Hay có lẽ những tế bào khác hẳn sẽ làm việc?

KRISHNAMURTI: Tôi không biết, tôi nghĩ nó làm việc một cách khác hẳn.

 Thưa bạn, từ bi là gì? Liệu trung tâm đó có thể từ bi?

DAVID BOHM: Ồ, tôi đã nói trung tâm đó không thể là bất kỳ thứ gì thực sự.

KRISHNAMURTI: Liệu trung tâm đó có thể trao cho chính nó chất lượng của từ bi?

DAVID BOHM: Chắc chắn nó có thể làm điều đó.

KRISHNAMURTI: Nó có thể. Vâng, như Thượng đế, như bất kỳ việc gì; nhưng nếu không có chất lượng gì cả, vậy thì từ bi là gì? Liệu sự nhận biết tổng thể là từ bi?

DAVID BOHM: Ồ, nó phải là, kể cả cảm thấy cho tất cả.

KRISHNAMURTI: Tôi nên nghĩ một trong những chất lượng của sự nhận biết tổng thể là từ bi.

DAVID BOHM: Anh thấy, trung tâm đó chỉ có những cảm thấy được trao cho nó, vì vậy nó sẽ có từ bi cho bất kỳ thứ gì mà nó gắn bó.

KRISHNAMURTI: Dĩ nhiên. Tôi thương yêu bạn và tôi không thương yêu những người khác. Hay tôi thương yêu những người khác nhưng tôi không thương yêu bạn.

DAVID BOHM: Nó sẽ không hiểu rõvì vậy nó sẽ không có ý nghĩa.

KRISHNAMURTI: Nó rất lý thú, điều này. Làm thế nào bạn sẽ chuyển tải tất cả điều này sang người nào đó mà có cảm tính, lãng mạn, mong muốn những ảo tưởng, đầy những tưởng tượng kỳ lạ, cùng những vấn đề của tình dục, của sợ hãi? Bạn nói cho anh ấy điều gì đó và thậm chí anh ấy sẽ không lắng nghe. Ở đây chúng tathời gian nhàn rỗi để thâm nhập nó; và chúng ta muốn tìm ra, bởi vì chúng ta hoàn toàn khách quan về chính chúng ta.

 Tôi nghĩ đó là nơi từ bi hiện diện.


 Gstadd, ngày 25 tháng 7 năm 1975

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19822)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20894)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19229)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40490)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21227)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41013)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24070)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23021)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17798)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26898)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20695)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33582)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20947)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28855)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12671)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25233)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19109)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17497)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25726)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18977)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18945)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18880)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33266)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38332)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18195)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24469)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19428)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17870)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22979)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17993)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32119)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17350)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17410)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16049)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18552)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20749)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18036)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20069)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14843)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20872)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15049)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15743)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12927)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14478)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14889)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29342)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12742)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14496)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant