Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Triết học Ấn Độ

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9552)
Tiết 3: Triết học Ấn Độ

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG I. NGUỒN GỐC

TIẾT III: TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ

Theo cố tổng thống Ấn Độ, bác sĩ Dr.S Radhakrishna viết trong cuốn Ấn Độ Triết Học, theo đó thì sự phát triển của triết học Ấn Độ có thể chia thành bốn thời kỳ:

1. Thời kỳ Vệ Đà:

Khoảng một nghìn năm trăm năm đến sáu trăm năm trước công nguyên, đây là thời phát sinh rất nhiều Tu Đạo Viện, chủ nghĩa duy tâm của Ấn Độ được khai mở ở thời kỳ này. Thời này trí thức con người còn trong trạng thái sơ kỳ, cho nên tín ngưỡng mê tín cùng tư tưởng trí thức là hai đối cực tương tranh nhau. Những bài tụng ca trong Vệ Đà phụ thuộc vào Phạm Thư (Bràhmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad), tức là được ghi chép thành công ở thời điểm này.

2. Thời kỳ Sử thi:

Sử thi ở đây là chỉ cho hai bộ trường thi La Ma Sở Hành Truyện (Ràmàyana) và Đại Chiến Thi (Mahàbhàrata). Hai bộ trường thi này ra đời trước công nguyên sáu trăm năm, và kéo dài đến hai trăm năm sau công nguyên. Trong suốt thời gian tám trăn năm đó được khởi đầu với Áo Nghĩa Thư (Upanisad) và kết thúc bằng thời phát triển các phái triết học của Ấn Độ. Các tôn giáo như: Kỳ Na giáo, Phật giáo, và các phái như: phái Tư Bà, phái Duy Tu Nô (còn có tên là phái Tỳ Nửu Nô, hay Tỳ Thấp Nô), tất cả đều được thành lập trong thời kỳ này. Sáu phái triết học của Ấn Độ xuất hiện đồng thời với Phật giáo cũng vào thời gian này. Duy có điều thư tịch của sáu phái triết học mãi về sau mới được viết thành văn.

3. Thời kỳ Kinh Điển:

Đây là thời đạihọc thuyết của các tông phái đều dùng văn tự để ghi chép thành kinh điển, và được xảy ra sau công nguyên hai trăm năm. Trước đó giáo nghĩa của các học thuyết nêu trên đều được truyền thừa bằng phương pháp truyền khẩu.

4. Thời kỳ Chú Sớ:

Kinh điển thuộc thời kỳ này khó mà phân tích một cách rạch ròi, nghiêm cách, nhân đấy mới đưa đến việc chú giải, tức dùng tự nghĩa để tranh luận. Do đó, thời kỳ này được coi là thời trọng văn tự hơn tư tưởng.

- Ba Đại Thánh Thư của Ấn Độ.

Trong thời kỳ của Mạn Trường Vệ Đà, nó bao hàm luôn thời đại Phạm thư. Thời gian của thời đại này ước khoảng một nghìn năm đến năm, sáu trăm năm sau tây lịch. “Tam đại cương lĩnh” của Bà La Môn giáo được tạo lập vào thời này với các bản kinh gốc như: Lê Câu Vệ Đà, Sa Ma Vệ Đà và A Thát Bà Vệ Đà. Thời ấy được biên soạn qua nhiều ghi chép. Chỉ có Da Nhu Vệ Đà mới mở ra tư trào biên soạn theo thứ tự của thời đại Phạn thư. Phạn thư làm cho tư trào về sách thần học được đầy đủ, thuần thục. Phạn thư ra sức phát huy tính chất đặc biệt của Dạ Nhu Vệ Đà, đối với những gì liên quan đến việc cúng tế thì nhất nhất phải đưa vào nhân duyên, cớ sự, lai lịch, và dùng tản văn để giải thích tất cả.

Việc phân kỳ lịch sử triết học Ấn Độ, thì Phạn thư và Áo Nghĩa Thư được liẹt vào thời kỳ Vệ Đà. Ở đây chủ yếu giới thiệu ba đại thánh thư, trong đó thời kỳ Vệ Đà chiếm hai phần. Nay xin phân ra như sau:

1. Kinh Vệ Đà:

Tức tập gốc của bốn thứ Vệ Đà. Triết học Vệ Đà được khai xuát ở cuối phần Dạ Nhu Vệ Đà, do xưa nay việc sùng bái các tự nhiên là vì hoài nghi, rồi từ những vị thần tự nhiênlập thành một nguyên lý tối cao, duy nhất, trước giờ vẫn chưa có danh xưng nào được dành cho một vị thần độc lập nào, đến thời đại này mới thấy xuất hiện; từ trước vẫn chưa thấy đề cập đến việc sáng tạo vũ trụ, đến thời này mới xuất hiện việc dùng một nguyên lý tối cao, duy nhấttrừu tượng như là: Sinh chủ (Drajàpati), Tạo Nhất Thiết Chủ (Visvakarman), Nguyên Nhân (2) (Purusu) v.v... Nhân đấy mới tạo thành bản thể hữu tìnhphi hữu tình. Và drồi vũ trụ cũng từ nguyên lý được thống nhất này mà phát sinh, và được biểu đạt qua các thiên trong Lê Câu Vệ Đà như: Vô Hữu Ca (Nàradàsiyà), Sinh Chủ Ca (Pràjapatya), Tạo Nhất Thiết Ca (Visvakaraman Sùkta), Kỳ Đảo Chủ Ca (Brahmanasbath Sùkta) và Nguyên Nhân Ca (Purusa Sùkta).

2. Áo Nghĩa Thư:

Áo Nghĩa Thư, tên trong tiếng Phạn là Upa + Ni + Sad. Ghi chép lại gần giống như thành ngữ, vì “ngồi gần” mà hiệp thành thành ngữ, ý nói giống như gan và mật tương chiếu nhau như người ngồi đối diện vậy; mục đích của Áo Nghĩa Thư là nhằm dạy những người chưa biết gì về giáo nghia bí mật. Về mặt hình thức thì Áo Nghĩa Thư là sản vật chính thống của Bà La Môn giáo, nhưng là một bộ phận của Phạn thư. Phạn thư là bộ phận tối cổ của thời đại Vệ Đà. Nó được sáng tác ít nhất là từ bảy trăm đến năm trăm năm trước công nguyên. Sở dĩ vậy là do xu thế thời đại, trước tiên là tư trào tự do tư tưởng, tư trào này được cổ động bởi quyền lực của các bậc vương giả đương thời. Do vì nội dung của tư trào tự do tư tưởng như mũi nhọn đâm thẳng trào truyền thống. Có hai thứ tập bản Phạn thư; một là thứ năm mươi hai bản, một nữa là thứ một trăm linh tám bản, và đều được gọi là toàn tập. Cái đẹp của nội dung Phạn thư, như Thúc Bảo Hoa từng nói: “Ai có được sách này, thì lúc sinh tiền lấy đó làm yên vui, sau khi chết cũng lấy đó làm yên vui”. Như vậy cho thấy giá trị của Phạn thư là rất cao. Về bản thể luận thì Phạn = Ngã, về hiện tượng luận thì Phạn là hiển tướng, nhưng kết quả của ngã hoặc là luân hồi, hoặc là giải thoát; đây là điều mới mẻ và hết sức thâm thúy. Đối với tư tưởng triết học Ấn Độ thì tư tưởng này mở ra manh mối cực lớn.

Áo Nghĩa Thưthời đại của đức Phật tuy liên tục nhưng đức Phật lại không hay biết gì về sự có mặt của nó, đây là một nghi vấn khác lạ! Duy có điều là nội dung Áo Nghĩa Thư được triển khai rất sáng tỏ, tựa hồ như đó là việc trở thành thông thường. (Nguyên thỉ Phật giáo Tư Tưởng Luận của Kimura Taiken). Có thuyết cho rằng Cơ Đốc giáo cũng chịu ảnh hưởng của Áo Nghĩa Thư. (Ấn Độ Phát Kiến - của Ni Xích Lỗ).

3. Bạc Già Phạn Ca (Bhagavad Gìtà):

Bạc Già Phạn Ca là một bộ phận của Sử thi, là một đoạn từ chương hai mươi lăm đến chương bốn mươi hai của phẩm Tỳ Tu ma thuộc quyển thứ sáu của bộ Đại Chiến Thi. Bhagavad Gita được sáng tác ước khoảng từ bốn trăm năm trước công nguyên. Ở thời kỳ này Phật giáo chính thức dùng khí vận mới để phát triển và áp đảo Bà La Môn giáogiáo đoàn của họ. Khiến các học giả của Vệ Đà kinh phải cậy đến tư tưởng của Áo Nghĩa Thư, bằng cách bình dân hóa những bất hợp lý trong Bhagavad Gìtà, đồng thời điều hòa lại các mâu thuẫn đã có từ trước, và làm cho lực lượng tăng lữ Bà La Môn giáo tươi tắn hơn và hướng về tân lộ - con đường mới.

Trải qua một thời gian dài ngấm ngầm thuyển biến, kết cục Bà La Môn giáo được phục hưng và chuyển thành Ấn Độ giáo, và giành lấy địa vị của Phật giáo, làm đại diện cho quốc gia Ấn Độ. William Vonhumboldt cho rằng sự miêu tả trong Áo Nghĩa Thư là “cực kỳ mỹ lệ, không rõ trong ngôn ngữ, có ngôn ngữ nào mang tính triết học chân xác như trong thánh ca Áo Nghĩa Thư không?”. Và theo Ni Xích Lỗ thì “sự tuyên thuyết của thánh ca không có tính cách tông phái, hoặc giả tuyên thị cung cấp tư tưởng cho bất kỳ một học phái nào (“Ấn Độ Đích Phật Kiến” - của Ni Xích Lỗ). Với tín đồ Ấn Độ, thánh ca này là “tâm mục” trọng yếu của họ nó giống như “Tân Ước” đối với tín đồ Cưo Đốc giáo vậy.

- Sáu Phái Triết Học.

Sở dĩ gọi là sáu phái triết học, bởi sáu phái này ra đời sau cuối thời kỳ Sử Thi. Sáu phái triết học cùng với Phật giáo thời sơ kỳ là tương cận giai đoạn triết học Bà La Môn giáo.

Tên gọi sáu phái như sau:

1. Ni Dạ Da Phái - The Nyàya School.

2. Tăng Khư Da Phái - Sàmkhya School.

3. Tỳ Xá Ca Phái - The Vaisesia School còn gọ là phái Thắng Luận.

4. Du - Già Phái - The Yoga School.

5. Nhị Man Sai Phái - the Mìmàmsà School.

6. Vệ Đàn Đa phái - The Vedànta Shool.

Sáu phái trên không những còn tồn tại tín ngưỡng Phạm thiên, mà còn thừa nhận giá trị Vệ Đà. Chỉ có bốn phái trước là không dùng Vệ Đà căn cứ lập luận. Hai phái sau lại dùng Vệ Đà làm căn cứ lập luận.

Do Áo Nghĩa Thư kích phát mà ba học phái chủ yếu là phái Số Luận, phái Du Già và phái Hữu Thần trở thành ba trào lưu. (Các học phái này vẫn lấy Phạm thiên làm trung tâm, nhân đấy sản sinh ra Duy Tu Nô và Thấp Bà, tức tín ngưỡng về Tự Tại Thiên). Phái Vệ Đàn Đà cũng thuộc chính hệ Áo Nghĩa Thư, nhưng được thành lập có phần muộn hơn ba phái vừa nêu. So với đức Phật, không như hiện nay phái Số Luận truyền Tăng Khư Da tụng. Tăng Khư Da tụng cùng hệ tư tưởng với Áo Nghĩa Thư nhưng lại nhận Phạn thư làm hệ tư tưởng triết học cho phái Nhị Man Sai. Phái Thắng Luận, phái Ni Dạ Da. Ngoại trừ phái Ni Dạ Da có quan hệ gián tiếp với Phạn thư, các phái còn lại so với đức Phật, thì sự ra đời có muộn hơn. (Nguyên thỉ Phật giáo Tư Tưởng Luận, của Kimura Taiken).


(1) Arabian Sea tức là biển Ả-rập.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19756)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20844)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19152)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40354)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21164)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40948)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24012)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22969)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17754)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26789)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33496)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28715)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17407)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33167)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31097)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24391)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19384)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17817)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22864)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17328)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16006)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17937)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20021)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29239)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12690)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14434)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant