Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Chuyển pháp luân

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9518)
Tiết 3: Chuyển pháp luân

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC THÍCH CA THẾ TÔN

TIẾT III: CHUYỂN PHÁP LUÂN

- Đức Phật đi đến Vườn Nai.

Sau khi đức Thích Tôn tự thọ dụng pháp duyệt mà Ngài vừa chứng ngộ dưới cội Bồ Đề. Ngài quyết ý giáo hóa chúng sinh, trước tiên Ngài đến Vườn Nai.

- Lộc Dã Uyển (Mrgadàva) tên Vườn Nai hiện nay là Tát Nhĩ Nại Đức (Sarnath) ở ngoài thành Ba La Nại (Vàràmasì): do vì Ngài nhớ năm người bạn trước kia cùng tu hầu hạ Ngài, sau họ bỏ Ngài mà đi. Nay Ngài đến là để báo đáp công đức của họ trước kia. Đây cũng là năm vị Thị giả đầu tiên có danh xưng là Tỳ kheo. Năm người họ là: A Nhã Kiều Trần Như (Àjnàta - Kundinya), Bạt Đề (Bahadrika), Bà Ba (Vàspa) Ma Ha Nam (Mahanàna), A Thuyết Thị (Asvajit). Năm vị Tỳ kheo này cũng là thính chúng đầu tiên đức Phật nhắm đến để thuyết giảng diệu pháp mà Ngài đã thân chứng. Đời sau gọi đây là sơ chuyển pháp luân. Nghe xong thời thuyết pháp tất cả năm vị đều chứng thánh quả A la hán (quả giải thoát của Tiểu thừa).

Pháp luân - Dharma - Sakra: có thể dịch là chuyển vận chánh pháp (theo cách dịch của Hán văn). Tức là lấy Phật pháp sánh với Luân Bảo của vị Chuyển Luân Thánh Vương. Lúc vị Luân Vương xuất thế thì Luân Bảo cũng tự ứng hiện. Luân Bao dẫn đạo Luân Vương chuyển hướng tứ thiên hạ, khiến các tiểu quốc vương không ai là không thành kính cảm phục Chuyển Luân Thánh Vương, Luân Vương không dụng đến đao binh mà thiên hạ thống nhất, bởi Luân Vương thực hành nền chính trị nhân trị, khiến mọi người trong thiên hạ đều an hưởng thái bình. Đấy là truyền thuyết mà cũng là ước mơ của người dân Ấn Độ về sự trị vì của bậc Luân Vương đem thái bình an lạc đến cho mọi người. Đầu tiên, Luân là một thứ binh khí lấy việc phá địch làm chính, để ẩn dụ việc đức Phật dùng chánh pháp mà Ngài chứng được làm “Luân”. Ngài công bố chánh pháp khắp thiên hạ nhằm mang lại lợi lạc cho quần sinh, và phá đổ các tà thuyết, dị luận. Lấy đó dụ cho chánh pháp nên gọi là Pháp Luân.

- Nội dung Pháp Luân.

Nội dung Pháp luânthành quả do đức Thích Tôn chứng đắc khi Ngài thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Và rộng truyền chánh pháp do Ngài thân chứng, gọi đấy là chuyển Pháp Luân.

Thế nào là chánh pháp (Saddharma)? Căn cứ theo Thánh điển Nguyên thỉ - kinh A Hàm mà nói, thì lần đầu tiên đức Phật thuyết pháp, đó là thuyết về Tứ Thánh đếBát Chánh Đạo. Về sau nội dung kinh, luật, luận của Đại, Tiểu thừa đều do từ Tứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo mà khai triển.

Để giới thiệu nội dung Chánh Pháp, trước tiên cần nêu rõ mục đích thuyết Pháp của đức Phật. Mục đích giáo hóa của đức Thích Tôn là nhằm tạo thuận duyên giúp tất cả mọi người để ai cũng có thể đạt đến giải thoát như Ngài. Sự giáo hóa của đức Phật không nhằm làm gia tăng lý luận đối với thế giới, nhân sinh, cũng chẳng phải để giúp giới khoa học và triết học có thêm hứng thú. Điều này xin đọc thêm ở kinh Tiễn Dụ, trong kinh Trường A Hàm. Như vậy, đức Phật không yêu cầu chúng ta nhắm mắt sùng bái Ngài, coi Ngài như một thứ ma túy tín ngưỡng để ủy thác đức tin. Đức Phậtnhà tôn giáo thực tế, là nhà tư tưởng giàu tinh thần phê phán. Ngài tôn trọng luận lý một cách thực tế, và phản đối những “không đàm huyền lý”. Phàm cái gì không hữu ích cho việc tu chứng giải thoát, thì Ngài không chú tâm. Đối tượng được đức Phật khảo sát không là sửa đổi lại vũ trụ, mà bằng nỗ lực lớn nhất, đức Phật thuyết minh những hoạt độngcon người nên tạo thành. Theo đức Phật, nếu khảo sát thế giới mà bỏ qua sự sống cơ bản của con người thì đó không phải là bản hoài của Phật. Xin đọc “Nguyên Thỉ Phật Giáo Tư Tưởng Luận” của Mộc Thôn Thái Hiền, ở thiên thứ I chương 3.

Như vậy, tôn chỉđức Phật giáo hóa thế gian là nguyện vọng muốn cho hữu tình chúng sinh đạt thành giải thoát. Nói cách khác, Phật pháp lấy hữu tình chúng sinh, chủ yếu là lấy con người làm trung tâm. Nếu khảo sát Phật pháptrước mắt không nhìn thấy hữu tình chúng sinh, thì đó quả là sự sai lầm. Tứ Thánh ĐếBát Chánh Đạođức Phật chứng ngộthuyết giảng, đó là con đường giúp con người đạt đến giải thoát.

I. TỨ THÁNH ĐẾ

Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật được gọi là “Tam Chuyển Tứ Đế Pháp Luân”. Nay xin phân thuật như sau:

1. Khổ đế: nhân sinh như khổ hải! Nội dung của khổ, đại loại có ba, đó là khổ khổ, hoại khổhành khổ. Trong khổ khổ có tám thứ khổ đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bắt đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

2. Tập đế: nguyên nhân của Khổ là Tập. Do phiền não mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chiêu cảm quả báo khổ.

3. Diệt đế: diệt là khả năng giải thoát khổ quả, là thấu triệt “lý” của Tập đế, là đoạn trừ nghiệp phiền não, tức là khả thể giải thoát mọi chúng khổ.

4. Đạo đế: đạo là phương pháp diệt khổ. Tu trì Bát Chánh Đạo có khả năng diệt trừ tất cả các khổ, chứng đắc quả Niết bàn giải thoát.

II. CHUYỂN TỨ ĐẾ.

1. Thị chuyển: thuyết minh tường tận đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo.

2. Cần chuyển: thuyết minh khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.

3. Chứng chuyển: thuyết minh khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, và đạo ta đã tu.

Trên đây là cương yếu về lần đầu tiên Phật chuyển pháp luân. Giải thíchKhổ đếTập đế đó là do duyên sinh pháp, từ đó giải rõ pháp Thập nhị nhân duyên.

- Thập Nhị Nhân Duyên.

Thập nhị nhân duyên đích thực là một “sáng tạo luận” được lưu lộ một cách đặc biệt độc đáo từ đại bi trí hải của Đấng giác ngộ. Các tín ngưỡng Thần quyền; không một tôn giáo Thần quyền nào mà không cho rằng vũ trụ này là do Thượng đế sáng tạo. Đức Phật dùng mười hai nhân duyên để thuyết minh về căn nguyên của vũ trụ.

Nay xin giới thiệugiải thích mười hai nhân duyên:

1. Vô minh: tức không có trí tuệ, do vì các phiền não như tham dục, sân hận, ngu si v.v… che lấp, lại cũng do tâm lý xuẩn độngnguyên do làm cho bị mê hoặc.

2. Hành: tức các nghiệp thiện, ác được gây tạo nên từ kiếp trước - gồm cả hành vi của thân và tâm.

3. Thức: tức do nghiệp lực ở đời quá khứcảm thọ quả báo, nên lại khởi vọng nghiệp ngay từ lúc ban sơ khi vừa nhập thai mẹ, và thành thần thức ở đời hiện tại.

4. Danh sắc: tức thân tâm của thai nhi sau khi đã nhập thai.

5. Lục nhập: tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu cơ quan này được trưởng thành trong thai mẹ - còn gọi là lục căn.

6. Xúc: tức sau khi ra khỏi thai mẹ. Khi ấy sáu căn tiếp xúc tương đối với sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

7. Thọ: tức do tiếp xúc ngoại cảnh mà có được tri cảm khổ, vui nơi thân, tâm.

8. Ái: tức hoạt động tâm lý, trong đó có nhàm chán sự khổ, ưa thích sướng vui như tài, sắc, danh, thực, thùy - Ngũ dục lạc.

9. Thủ: tức nhân vào ái dục thịnh vượng nên đối với cảnh có sự tham nhiễm, và khởi niệm lưu giữ.

10. Hữu: tức do đời hiện tại tạo tác nhân hữu lậu dẫn đến cảm thọ quả sinh tử đời sau.

11. Sinh: tức nhân vào các nghiệp chủng được tạo tác ở đời hiện tại dẫn đến cảm thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của thân ngũ uẩn đời sau.

12. Lão tử: khi đã có thân ngũ uẩn giả hợp, được sinh ra, tất nhiên thân ấy sẽ suy yếu, già nuacuối cùng là chết.

Mười hai nhân duyên là chuỗi mắc xích được dùng để thuyết minh sinh mệnh con người mà vốn từ nghìn đời nay luôn lưu chuyển từ tiền sinh đến kim sinh và rồi hậu sinh, tạo thành mối quan hệ giữa nhân và quả. Mối quan hệ này được gọi là “tam thế lưỡng trùng nhân quả”. Nhưng về phương diện hồi hoàn, thì mười hai nhân duyên có thể dùng vòng xoay hoặc - nghiệp - khổ để thuyết minh.

- Hoặc - Nghiệp - Khổ.

Từ vô thỉ đến nay do sự xuẩn động của “vô minh hoặc” mà tạo tác các nghiệp thiện ác ở đời quá khứ, nhân đấy dẫn đến việc cảm thọ quả khổ ở đời hiện tại, và cũng ở đời hiện tại, lại tiếp tục chạy theo cái nhân mê mờ (Hoặc) tạo ra các ác nghiệp, các ác nghiệp này đưa đẩy đến quả khổ sinh tửkiếp sau. Đấy chính là phương cách xoay vòng của mười hai nhân duyên.

1. Hoặc: là Vô minh ở đời quá khứ dẫn đến Ái, và Thủ ở đời hiện tại.

2. Nghiệp: ấy là Hành ở đời quá khứ đưa đến Hữu của đời hiện tại.

3. Khổ: ấy là Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ ở đời hiện tại dẫn đến sinh và lão tử ở đời vị lai.

Thuyết minh mười hai Nhân duyên, mục đích là giúp con người hiểu rõ nội dung của Khổ và Tập trong Tứ Thánh Đế. Nhân sinh là bể khổ! Vậy, khổ này là do đâu? Do nhân quả trong ba đời. Khởi đi từ vô minh mà mức đến là quả khổ sinh tử.

Để tiện ghi nhớ, xin lập biểu về mối quan hệ giữa mười hai nhân duyên.

 blank

 

Khi đã biết nguyên nhân của khổ là do tập. Để đoạn tuyệt tận gốc căn nguyên của khổ, là tu theo phương pháp Bát chánh đạo.

- Bát Chánh Đạo.

Bát Chánh ĐạoĐạo đế trong Tứ thánh đế. Nội dung Bát Chánh Đạo như sau:

1. Chánh kiến: ấy là sự hiểu biết, sự kiến giải chính xác. Thế nào là Chính kiến? Hãy dùng Tam pháp ấn để giám định. Tam pháp ấn là gì, sẽ giới thiệu ở phần sau.

2. Chánh tư duy: ấy là dùng Chánh kiến làm cơ sở, để tư tưởng chín chắn về nội dung của Chánh kiến này.

Đây là công phu thực tiễn của ý nghiệp.

3. Chánh ngữ: đặt nền móng trên ý niệm chánh xác, để biểu đạt công phu thực tiễn của nghiệp “khẩu”. Đối với người không nói đảo, nói dối, không dùng ỷ ngữ, đâm thọc, không dùng ác khẩu mạ lỵ làm nhục người khác, nên dùng thiện ngôn để khuyến khích người, dùng ái ngữ để an úy.

4. Chánh nghiệp: là thân nghiệp chánh đáng. Muốn vậy, thân không phạm ác nghiệp sát sinh, trộm cướp, dâm loạn, và không dùng các chất tạo say mê, ngây ngật. Cần phối hợp với ý và ngữ nghiệp, sao cho ba nghiệp: thân, ngữ, ý trở nên thanh tịnh.

5. Chánh mệnh: tức phương pháp mưu sinh phải chân chính. Loại bỏ các nghiệp ác, nên theo những chức nghiệp chánh đáng để hành xử trong các nhu cầu của đời sống. Không dùng sự tài khéo về thuật số giang hồ để thâu tóm tài vật bất nghĩa.

6. Chánh tinh tấn: ấy là đối với đạo nghiệp, tự mình nỗ lực gắng sức, điều ác chưa đoạn, lập tức đoạn ngay, điều thiện chưa tu, thì hãy gắng tu. Điều ác chưa khởi, thì ngăn không cho khởi, điều thiện chưa lớn mạnh hãy cố làm cho tăng trưởng.

7. Chánh niệm: khi tự tâm đã gắng gỏi tinh tấn, thì nên dùng phương pháp bất tịnh quán để nhiếp tâm, chế tâm, khiến tâm trụ “nhất cảnh”, và không khởi tư niệm vật ngã.

8. Chánh định: tu trì theo bảy giai đoạn vừa nêu, ắt sẽ đi vào tứ thiền, bát định. Sau rốt dùng “không huệ lực” để nhập vào định Diệt thọ tưởng. Đấy chính là cảnh giới giải thoát Niết bàn.

Nhân vào Bát chánh đạokhai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lại qui nạp và diễn hóa thành sáu Ba La Mật Đa (lục độ), tất cả đều thuộc phạm vi tam vô lậu học Giới - Định - Tuệ.

- Giới Định Tuệ.

Chúng ta căn cứ kinh Tạp A Hàm để hiểu về Bát Chánh đạo, dựa vào kinh Trường A Hàm để hiểu rõ ba mươi bảy phẩm trợ đạo, và nhờ kinh Tăng Nhất A Hàm để biết được Lục độ. Đấy là lịch trình được phát triển theo thứ lớp. Hiện nay tại Trung Quốc bộ kinh Tăng Nhất A Hàm bản Hán văn được dịch từ Đại Chúng Bộ; Đại Chúng Bộ lại truyền xuất thành tư tưởng Đại thừa. Vì thế, nội dung tu đạo giải thoát phải tùy vào thời đạilần lượt khai triển. Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản trong tu trì không thể tách rời yêu cầu thiết yếu là Giới Định Huệ.

Xin nêu hai biểu đồ làm tư liệu thuyết minh.

 

blank

 

Nhờ biểu đồ trên cho thấy Bát chánh đạo bao hàm ba mươi bảy đạo phẩm. Chia ba mươi bảy đạo phẩm ra 7 thành bảy loại để giải thích. Có thể tra cứu Phật Học Đại Từ Điển

 blank

 Vòng tròn Hoặc - Nghiệp - Khổ là định luật của sinh tử môn. Giới - Định - Tuệ thuộc tam vô lậu họcđịnh luật của giải thoát môn. Sự quan hệ hỗ tương giữa giới định huệ cũng là một vòng quay tròn, hoặc còn gọi là “Loa toàn hình” (hình tròn trôn ốc). Việc tu giới có thanh tịnh, thì tu thiền mới có khả năng chánh định. Nhờ định lực chánh định mới phát sinh huệ lực vô lậu; lại do huệ lực chỉ đạo trì giới. Duy chỉ có Không huệ, hoặc Chánh kiến của vô lậu huệ chỉ đạo, thì việc trì giới mới phù hợptu thiền mới không bị lạc vào ma cảnh.

Trước nhất cần xác lập Chánh kiến, để làm điều đó, phải dựa vào Tam pháp ấn do đức Phật chỉ dạy.

- Tam Pháp Ấn

Tam pháp ấn là dùng “tam cú thoại” làm tiêu chuẩn để ấn chứng các pháp, pháp nào phù hợp với Tam pháp ấn, pháp đó hợp với Chánh kiến của Phật Đà. Pháp nào không phù hợp với Tam pháp ấn, đó là tà kiến của ngoại ma và nghiêng ngả. Kinh Tạp A Hàm(14) ghi lại cuộc đối thoại giữa đức Phật với các đệ tử Tỳ kheo: “Đức Phật hỏi các Tỳ kheo: Ngũ uẩn v.v… là vô thường chăng?

Các Tỳ kheo đáp: bạch Thế Tôn, vô thường.

Đức Phật: vô thường là khổ, phải không?

Chư Tỳ kheo: bạch Thế Tôn là khổ.

Đức Phật: nếu vô thường, khổ, và pháp dễ biến đổi. Vậy, pháp ấy là ngã hay ngã sở?

Chư Tỳ kheo: bạch Thế Tôn, không phải là ngã, cũng không phải là ngã sở?

Đức Phật tùy căn cơ (trình độ) của đệ tử mà khai thị. Cứ theo cuộc đối thoại trên mà quán sát năm uẩn (hữu lậu pháp), sẽ thấy các pháp là vô thường, vô ngã, sau đó mới là giải thoát (Niết bàn). Dùng tam cú thoại làm chuẩn, nhờ đó mà sáng rõ, ấy là:

1. Chư hành vô thường; 2. Chư pháp vô ngã; 3. Niết bàn tịch tịnh.

Thế nào là ngũ uẩn? Thế nào là các pháp?

Muốn làm rõ hai vấn nạn vừa nêu, phải dùng Tam pháp ấn để giải thích. Hữu lậu pháp thuộc sinh tử môn, để dễ phân biệt nên dùng danh từ ngũ ẩn để thuyết minh.

- Ngũ uẩn.

Phàm là người, ai cũng nghĩ rằng thế gianthường trụ vĩnh hằng. Thân tâm này là ta và của ta (ngã, ngã sở), do vậy nên cần bảo vệ. Đã chấp thế gian là thường, chấp thân tâm (ngũ uẩn) là Ta, thì đương nhiên Ta cần truy tầm khoái lạc và danh lợi để làm thỏa mãn cái “Ta”. Đồng thời chạy trốn sự hao tổn hủy hoại của tự nhiên. Trên thực tế, trong từng sát na, mọi vật trên đời này không vật nào là không bị biến dị (đổi khác). Vì tất cả đều là vô thường.

Dù là đại hoan lạc, và danh lợi cực lớn đi nữa, thì thế gian này vẫn không có cái trường cửu và không tan rã. Bởi chẳng có đóa hoa nào mà không có lúc tàn! Không có con người nào mà lại không chết! Vì thế, dù có vui chơi hoan lạc cho thỏa thích, thì kết cục vẫn là rã rời, là khổ. Đã là vô thường, là khổ thì tìm đâu ra cái “Ngã” chân thực, cái ngã vĩnh hằng, để mà sở hữu cả về tinh thần lẫn vật chất? Phật Giáo tạm dùng thuật ngữ ngũ uẩn để phân tích tinh thầnvật chất. Ngũ uẩn gồm:

1. Sắc Uẩn:

Bao gồm sinh lý con ngườivật lý ngoại tại: Ấy là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân của con người, và đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Sắc uẩn hàm nhiếp tất cả vật chất như, hình sắc, thái sắc, cực vi, (điện tử và nguyên tử), và hồi - viễn sắc (như tinh cầu ở rất xa).

2. Thọ Uẩn:

Lấy sự lãnh nạp làm công dụng, gần với trạng thái cảm giác.

3. Tưởng Uẩn:

Lấy việc lưu giữ hình tướng làm công dụng, gần với tác dụng của tri giác và tưởng tượng.

4. Hành uẩn:

công dụng thiên lưu (dời đổi), và tạo tác. Gồm cả thời gian, không gian, tư tưởng. Trạng thái của Hành là đối với ngoại cảnh sinh khởi tham sân, thiện ác v.v... là công năng của hoạt động tâm lý.

5. Thức Uẩn:

Lấy phân biệt làm công dụng, gần với nghĩa của tri thức; Thức uẩn lấy nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm sở y nên gọi là lục thức thân. Đối với vật, cảnh nó phụ trách việc hiểu rõ, phân biệt và ghi nhớ v.v… lấy đó làm tác dụng. Thức uẩn cũng là tên gọi khác về bản thể của tâm.

Ngũ uẩn là sự phối hợp giữa tâm và vật, cảnh. Sắc uẩn thứ nhất phân tích về vật lýsinh lý, bốn uẩn còn lại phân tích về tâm lý. Phân tích vật lý, sinh lýtâm lý, nhằm thuyết minh tường tận tất cả mọi hiện tượng thuộc nhân sinh giới và vũ trụ giới, rằng tất cả chúng không có thứ gì là không vô thường tất cả là vô ngã, là khổ. Nếu năng chứng được đạo lý này, thì ngay lúc quan sát chính xác như vậy thì đó là cảnh giới Niết bàn.

Chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử là do nhân duyên của mười hai nhân duyên tạo thành. Thế giới thân tâm của chúng sinh là do sự giả hợp giữa ngũ uẩnnhân duyên. Lìa khỏi mười hai nhân duyên sẽ không có sự lưu chuyển sinh tử, ly khai sự giả hợp do ngũ uẩn, sẽ không có thân tâmthế giới. Sinh tử là vậy, thân tâm là vậy. Không cái nào là không phát sinh từ nhân và duyên. Các pháp hư vọng tạm thời có nhưng chỉ là sự huyễn hiện. Vậy, khám phá thế giới thân tâm bằng cách nào? Ấy là dùng tam Pháp ấn. Muốn đoạn tuyệt thân ngũ uẩn khổ thì làm sao? Hãy tu Bát chánh đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34331)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16867)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22966)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13048)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21960)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22182)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14863)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23574)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24097)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23631)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17141)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19348)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27058)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14420)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13837)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22682)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14734)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17354)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12667)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13860)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10406)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14688)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17198)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12543)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12697)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10356)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28715)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10696)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11129)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16870)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15765)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13338)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12551)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11356)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13027)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19305)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12245)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28591)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10041)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21512)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12788)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17824)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26219)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11703)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10846)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22745)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12034)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10601)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11390)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11519)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant