- Chương 01: Nguồn gốc
- Chương 02: Thích Ca Thế Tôn
- Chương 03: Nguyên thỉ Phật giáo và Tam tạng kinh điển
- Chương 04: Vua A Dục và Đại Thiên
- Chương 05: Sự phân chia bộ phái Phật giáo
- Chương 06: Giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ và Hữu bộ
- Chương 07: Nghệ thuật Phật giáo - Vương triều vua A Dục và sau đó
- Chương 08: Thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa
- Chương 09: Phật giáo Đại thừa hệ Long thọ và kinh điển của hệ này về sau
- Chương 10: Phật giáo Đại thừa hệ Vô Trước
- Chương 11: Vương triều Cấp Đa và Phật giáo sau vương triều này
- Chương 12: Từ thời Mật giáo thịnh hành đến Phật giáo cận đại
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí
dịch
---o0o---
GIÁO NGHĨA CỦA ÐẠI CHÚNG BỘ VÀ HỮU BỘ
TIẾT II. SỰ PHÁT ĐẠT CỦA A TỲ ĐẠT MA
???
Thậm chí Ma Ðát Lí Ca, theo các sách xưa cho là có hai loại tính chất:
1. Tỳ Nại Da (luật) như kinh Tỳ Ni Mẫu, và Tỳ Ni tụng của Thập Tụng Luật v.v... Nó còn là cương mục của qui chế Tăng già.
2. Là thuộc Ðạt ma (pháp); như Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo v.v... có hạng mục liên quan đến việc tu trì thánh đạo.
Về sau có sự biến cải từ từ mới có sự xuất hiện ba loại hình về Ma Ðát Lí Ca.
2. Kinh Bộ không tin A Tỳ Ðạt ma là do Phật thuyết, mà đặc biệt chỉ nói riêng về Ma Ðát Lí Ca; theo Kinh Bộ, thì tất cả khế kinh đều là Phật thuyết, để làm sáng tỏ tông yếu Phật pháp một cách quyết định nên mới nói Ma Ðát Lí Ca là thuộc về khế kinh.
3. Ma Ðát Lý Ca đối với học giả Ðại thừa Du già như ngài Thế Thân Bồ tát v.v... thì trước nhất nó nêu lên tông chỉ của luận và rồi theo đó giải thích Luận thư. Tông chỉ này của Thế Thân được thấy trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Ðề Xá, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Bà Ðề Xá, cùng với Kim Cang Bát Nhã Kinh Luận v.v... của Vô Trước đều thuộc thể tài này.
Xin nói thêm, A Tỳ Ðạt Ma lúc khởi sơ là chỉ chung cho cách dùng để xưng tán pháp trong kinh Phật. Do đó, luật Ma Ha Tăng Kỳ của Ðại Chúng Bộ có lần đề cập đến “cửu bộ Tu Ða La, gọi tên là A Tỳ Ðàm”(6). “A Tì Ðàm là gì? Là chín bộ kinh”(7), hay “A Tỳ Ðàm là gì? Là chín bộ Tu Ða La”(8). Ðấy chính là do sự phát đạt không ngừng của Ma Ðát Lí Ca. Ðồng thời áo nghĩa của A Tỳ, các luận sư cũng có nhiều cách giải thích. Trong đó có Luật Thiện Kiến - quyển một - của Giác Âm (Buddhaghosa) thuộc Ðồng Diệp Bộ(9). Ngài Giác Âm dùng năm nghĩa để giải thích A Tỳ:
1. Ý - đây là nghĩa tăng thượng.
2. Thức - là nghĩa đặc tính.
3. Tán thán - là nghĩa tôn kính.
4. Ðoạn tài - là nghĩa khu biệt.
5. Trường - là nghĩa siêu thắng.
Ngài Giác Âm còn đưa ra tám áo nghĩa trong luận Ðại Tỳ Bà Sa để giải thích. Ngài Thế Hữu (Vasumitra) nói là có sáu nghĩa, và ngài Hiếp Tôn Giả (Pàrsva) thì cho là có bốn nghĩa(10)
Pháp sư Ấn Thuận qui nạp ý của các nhà, và toát ra ý chủ yếu của A Tỳ Ðạt Ma là:
1. Minh liễu phân biệt;
2. Quán diện tưởng trình, cũng phải nói rằng phương pháp tu chứng trong Phật học, và tu chứng theo thứ lớp v.v... là nhờ vào sự truyền thừa, phân biệt thành danh và cú đó là luận thư. Người học Phật dựa vào luận thư để có sự hiểu biết rõ ràng mạch lạc, và chính là phải trải qua công phu văn tư tu, có vậy mới tiến sâu vào cảnh giới thực chứng - rồi rừ chứng mà đưa ra sự giáo hóa, và nhân vào giáo mà tu chứng, khi ấy mới là sự bao quát tất cả của A Tỳ Ðạt ma.
- Hệ Luận Thư của hai Bộ lớn.
Sự phát đạt của A Tỳ Ðạt Ma đến nay vẫn còn lưu truyền là thuộc hệ Thượng Tọa Bộ. Phát đạt nhất là Ðồng Diệp Bộ thuộc Phân Biệt Thuyết của Nam truyền và Tân Tước thuộc hệ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ của Bắc truyền. Các Bộ khác tuy cũng có phát triển nhưng không nhiều, đặc biệt là luận thư của Ðại Chúng Bộ, trong quá khứ chưa thấy có bản Hán dịch nào chú thích bộ luận tạng này. Chỉ có bộ luận Phân Biệt Công Ðức được chú thích mà thôi.
Vả lại, Ðại Chúng Bộ không phải là không có luận thư, chẳng hạn như thời gian lưu học tại Ấn Ðộ của Pháp Hiển tại chùa Ba Liên Phất Ba (Pàtaliputra), một ngôi chùa Ðại Thừa Phật giáo, ông có đọc được bộ Ma Ha Tăng Kỳ A Tỳ Ðàm của Ðại Chúng Bộ; thời gian lưu học ở Ấn Ðộ, ngài Huyền Trang cũng đã dành nhiều tháng để học tập Căn Bản A Tỳ Ðạt Ma của Ðại Chúng Bộ ở nước Ðà Na Yết Kiệt Ca (Danakataka) thuộc nam Ấn, và khi hồi hương, Huyền Trang mang về Tung Quốc nhiều luận thư Phạn văn, trong đó có luận thư của Ðại Chúng Bộ, tiếc là thời ấy chúng chưa được dịch ra Hán văn.
Luận thư căn bản của Ðại Chúng Bộ, quyển hai của luận thư Ðại Trí Ðộ(11) do Long Thọ tạo nói: “Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên, khi Phật còn tại thế, để nhằm giải rõ những lời Phật dạy Ngài có “Tác Côn Lặc” - làm ra luận - (chữ Côn Lặc người Tần gọi là Khiếp Tạng. Ðó là do hệ này dịch và chú thích) đến nay còn lưu hành tại nam Thiên Trúc”. Luận Ðại Trí Ðộ quyển mười tám(12) lại nói: “Nếu người nào đi vào cửa Côn Lặc (luận), thì nghị luận ắt không cùng”. Khi Phật tại thế, trong mười vị đại đệ tử Phật, ngài Ca Chiên Diên là người nghị luận đệ nhất. Còn Lặc (luận) do ngài tạo trở thành luận thư căn bản của Ðại Chúng Bộ, và gây ảnh hưởng vô cùng to lớn. Nhân đấy tại Miến Ðiện có tương truyền rằng ngài Ðại Ca Chiên Diên tạo ra bộ Petakopadesa. Nhưng trong tiếng Phạn đọc là Petaka - Khiếp Tạng, dịch âm theo Hán ngữ đọc là Côn Lặc.
Nói thêm về luận thư của Thượng Tọa Bộ. Do giữa các Bộ phái có bất đồng, nên mỗi Bộ phải có sự suy trọng luận thư khác nhau. Ðại loại có thể chia thành ba loại.
- Nam truyền có bảy bộ A Tỳ Ðạt Ma được Ðồng Diệp Bộ truyền tại Tích Lan (Srilanka).
- Tại phương bắc nước Kế Tân cũng có bảy bộ luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
- Ðộc Tử Bộ cũng có luận thư căn bản, theo Luận Ðại Trí Ðộ quyển hai(13) thì: “khi Phật còn tại thế, do muốn giải rõ lời dạy của Phật nên ngài Xá Lợi Phất tạo ra A Tỳ Ðàm. Về sau những người như Ðộc Tử đạo nhân mới đọc tụng A Tỳ Ðàm, và cho mãi đến nay gọi Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm là do Ðộc Tử Bộ phân chia thành bốn bộ, như Chánh Lượng Bộ chẳng hạn cũng lấy Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm làm luận thư căn bản. Thâm chí có thể nói, trong hệ Thượng Tọa Bộ, ngoài việc các bộ đều có bảy luận thư, thì Bộ nào cũng có luận thư riêng của Bộ mình, và đều lấy Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm làm luận gốc. Bộ Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm đã dịch sang Hán văn, nhưng diện mạo nguyên thỉ của nó không còn, điều này chẳng có gì phải nghi.
Ở đây chỉ tham khảo “luận thư chủ yếu của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và các luận sư nghiên cứu của bốn Bộ” của pháp sư Ấn Thuận (xin đọc phần “tự luận” trang 21) của pháp sư Ấn Thuận đem luận thư căn bản, cũng như mối quan hệ của hai hệ lớn liệt thành biểu đồ sau.
- Nam Phương Bảy Luận và Bắc Phương Bảy Luận.
Ngoài Côn Lặc của Ðại Chúng Bộ và Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm của hệ Ðộc Tử Bộ, việc trọng yếu là nghiên cứu của luận thư. Ðó là bảy luận của Nam phương và bảy luận của Bắc phương.
I. BẢY LUẬN CỦA NAM PHƯƠNG ÐƯỢC TRUYỀN BỞI ÐỒNG DIỆP BỘ.
1. Pháp Tập Luận (Dhamasangani Ðạt Ma Tăng Già).
2. Phân Biệt Luận (Vibhangappakarrana - Tỳ Băng Già).
3. Giới Luận (Dhàtukathà - Ðà Suất Ca Tha).
4. Nhân Thi Thiết Luận (Pugglapanõnõatili - Bức Già La Bộn Na).
5. Song Luận (Yamaka - Da Ma Ca).
6. Phát Thú Luận (Patthana - Bát Xoa).
7. Luận Sự (Kathàvatthu - Ca tha Bạt Luận
Sáu Bộ trước được cho là do đức Phật thuyết riêng Bộ thứ bảy - Luận Sự tương truyền vào thời vua A Dục ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu căn cứ lời Phật dạy, mà tạo thành.
II. BẢY LUẬN ÐƯỢC TRUYỀN BỞI THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ.
1. Pháp Uẩn Túc Luận:
Gồm mười hai quyển, ngài Mục Kiền Liên tạo, ngài Huyền Trang dịch và truyền; Cu Xá Luận Thích của Xứng Hữu, được cho là do ngài Xá Lợi Phất sáng tác. Nó là một bộ luận tối cổ trong số sáu bộ Túc luận, cộng có hai mươi mốt phẩm. Mỗi phẩm được dùng để thích nghĩa một kinh. Luận này cùng tên với Pháp Tập luận của Nam truyền.
2. Tập Dị Môn Túc Luận:
Với hai mươi quyển, ngài Huyền Trang truyền, dùng luận này để giải thích Tập Dị Môn Kinh của kinh Trường A Hàm, và do ngài Xá Lợi Phất kết tập - tức cho rằng Xá Lợi Phất là người tạo luận này; trong khi Xứng Hữu thì nói luận này là do ngài Câu Hi La tạo. Ðây là bộ luận mà văn nghĩa rõ ràng, trong sáng, về sau Ðại thừa từ luận này mà diễn thành Nội Minh của Văn Sở Thành Ðịa trong luận Du Già Sư Ðịa.
3. Thi Thiết Túc Luận:
Gồm bảy quyển, luận do ngài Ca Chiên Diên tạo, Huyền Trang truyền. Luận Ðại Trí Ðộ và ngài Xứng Hữu thì cho rằng luận này do ngài Mục Kiền Liên tạo. Luận Ðại Trí Ðộ được cho là lấy từ kinh Lâu Thán (tức kinh Khởi Thế Nhân Bản, hay còn có tên là kinh Khởi Thế) trong kinh Trường A Hàm. “Trường Bộ” của tạng Ba Lị không có kinh Khởi Thế. Do đó, có người nghi là kinh Khởi Thế ra đời sau thời đại vua A Dục.
4. Luận Thức Thân Túc:
Có mười sáu quyển, do ngài Ðề Bà Thiết Ma tạo. Nội dung của luận là khảo sát bối cảnh thời đại sau Phật nhập diệt ba thế kỷ.
5. Luận Phẩm Loại Túc:
Có mười tám quyển, gồm có tám phẩn, bốn phẩm là do Thế Hữu tạo, bốn phẩm còn lại do luận sư của Ca Thấp Di La tạo. Thế Hữu sinh sau Phật Niết bàn năm thế kỷ. Cho thấy luận này ra đời rất muộn.
6. Luận Phát Trí:
Có ba quyển, do Huyền Trang truyền, và nói là của Thế Hữu tạo, nhưng Cu Xá Luận Thích của Xứng Hữu thì nói là Viên Mãn tạo.
7. Luận Phát Trí:
Có hai mươi quyển, ngài Ca Chien Diên Ni Tử tạo luận này tại địa phương Na Bộc Ðể thuộc bắc Ấn Ðộ, thời gian sau Phật diệt độ là ba trăm năm.
Có người lấy luận Phát Trí làm trung tâm của các luận. Sáu luận còn lại chỉ “trợ giúp” và gọi tên chung của bảy luận là Lục Túc Phát Trí. Ðây là luận điển cơ sở của Nhất Thiết Hữu Bộ. Sáu phần (túc) lấy luận Phát Trí làm sở tông. Thực ra mà nói, về mặt thời đại Lục Túc luận chưa hẳn xuất hiện trước luận Pháp Trí. Nhân vì luận Phát Trí trước kia có quá nhiều thuyết, chưa nói là có thêm sự lựa chọn lấy bỏ; do đó, sự xuất hiện Pháp Trí Luận đã làm cho tư tưởng của Hữu Bộ tiến triển vượt bậc.
Trong số Tỳ Ðàm bộ, ngoài bản Hán dịch còn có ba quyển “Tam Di Ðể Bộ Luận” và ba mươi quyển “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm” của Chánh Lượng Bộ, theo truyền thuyết thì Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm là thuộc của Ðộc Tử Bộ, hoặc của Chánh Lượng Bộ. Nhưng theo nghiên cứu thì Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm là bộ luận có ý tối cổ trong số các bộ luận của Thượng Tọa Bộ. Ngay cả luận Pháp Uẩn Túc là bộ luận tối cổ nhưng vẫn lấy ý từ Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm, và đại bộ phận tương đồng với Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm về vấn phần và phi vấn phần; tuy nguyên bản Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm không còn, nhưng từ rất sớm, Thượng Tọa Bộ cũng đồng nhất tôn vinh Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm. Do đó, về nguyên tắc hệ Thượng Tọa Bộ thuộc hệ Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm (xem Ấn Ðộ Phật Giáo của pháp sư Ấn Thuận, chương bảy, tiết 2).
- Sự phân kỳ của A Tỳ Ðạt Ma.
Mộc thôn Thái Hiền lấy sự phát đạt mà A Tỳ Ðàm Ðạt Ma đã kinh qua để chia thành bốn thời kỳ:
1. Hình thái thuộc thời kỳ khế kinh:
Ðây là thời kỳ mà giữa Kinh và Luận chưa có sự phân định rạch ròi. Thời kỳ này luận thư còn mang tính Thánh điển, và người ta cũng đặt tên kinh cho cả luận điển. Về nội dung mà nói, chẳng hạn như “Chúng Tập Kinh”, được xếp vào Trường Bộ (Trường A Hàm Kinh); hoặc”Ma Ha Phệ Ðà La Tư Tha”, “Cu Lạp Việt Ðà La Tư Tha” v.v... được xếp vào Trung Bộ (Trung A Hàm Kinh), đấy đều là những luận điển cực kỳ nổi bật.
2. Thời kỳ giải thích Kinh:
Ðây là thời kỳ đảm trách công tác định nghĩa, phân loại và phân biệt các kinh đã được thuyết giảng. Trước khi A Tỳ Ðạt Ma chưa xuất hiện, thì chức vụ của thời kỳ này là đảm nhiệm từ hình thái quá độ của khế kinh tiến tới giai đoạn luận thư độc lập. Chẳng hạn như trong Thánh điển phương nam được đưa vào “Tiểu Bộ” như: Vô Ngại Ðạo Luận, Ni Luật Sa, (Nghĩa thích) v.v... ngaòi bốn kinh A Hàm Tiểu Bộ (Tạp Tạng) cũng có được địa vị đại biểu. Trong sáu Túc Luận. Hán dịch chỉ có Pháp Túc Uẩn Luận và Tập Dị Môn Túc Luận, bởi dường như hai luận vừa nêu cùng là tính chất của thời kỳ này.
3. Thời kỳ Luận thư độc lập:
Ðây là thời mà các luận thư tách khỏi kinh và mang tính độc lập, dù vẫn lấy các kinh làm chủ đề, nó phân loại một cách tường tận, chu đáo và hàm chứa một thứ chủ trương đặc hữu của luận thư, đồng thời cũng tùy vào các Bộ phái mà A Tỳ Ðạt Ma được sáng tác. Việc đánh dấu niên đại xuất hiện luận thư Phật Giáo là sau Phật nhập diệt khoảng một trăm năm mươi năm (150); giai đoạn này luận điển Phật Giáo chính thức phát huy được ý nghĩa của nó, và đạt đến đỉnh điểm vào khoảng thời gian trước sau kỷ nguyên tây lịch. Như bảy luận của phương Nam, các luận của Hữu Bộ (Lục Túc, Phát Trí, Ba Sa) Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm, đa phần các luận vừa nêu đều xuất hiện vào thời kỳ này.
4. Thời kỷ của Luận Cương Yếu:
Ðây là thời mà các luận điển chủ yếu đại biểu cho các Bộ đã hoàn thành, và rồi nhắm đến việc giản yếu các luận điển, nhân đó mới xuất hiện sách Cương Yếu. Hữu Bộ thì xuất hiện A Tỳ Ðàm Tâm Luận của Pháp Thắng, và được Pháp Cứu (dịch theo âm Hán ngữ là Ðạt Ma Ða La, ông sinh sau Phật Niết bàn bảy thế kỷ) tăng bổ A Tỳ Ðàm Tâm Luận mà thành lập Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận, ngài Thế Thân thì y vào A Tỳ Ðàm Tâm Luận để sáng tác bộ A Tỳ Ðàm Ðạt Ma Cu Xá Luận, ở phương Nam có ngài Giáo Âm sáng tác bộ Thanh Tịnh Ðạo Luận (Luận Sự) và ngài A Nậu Lâu Ðà (Aniruddha) thì viết bộ A Tỳ Ðạt Ma Pháp Yếu Luận.
- Ba giòng chảy của A Tỳ Ðạt Ma.
Theo pháp sư Ấn Thuận viết trong cuốn “Phật Giáo Ấn Ðộ” ở chương này; tiết hai, thì sau Pháp Uẩn Túc Luận, đến A Tỳ Ðạt Ma xảy diễn ra ba dòng chảy lớn:
1. Giòng của Ca Chiên Diên Ni Tử:
Giòng này trước tác bộ Phát Trí Luận để nhằm xiển dương tông nghĩa “tam thế thực hữu”. Phần luận về sự tướng rốt ráo của pháp là cực kỳ tinh tế. Lấy sắc tâm, tâm sở và tâm bất tương ưng rồi giải rõ sự nhiếp thụ, sự tương ưng, sự thành tựu của chúng, làm sống động rất nhiều điều hay lạ. Luận Phát Trí có tám Uẩn (chương) với bốn mươi bốn “nạp tức” (tiết), thứ lớp lộn xộn nhìn vào chẳng có tổ chức gì cả, kế tiếp Phát Trí Luận, Thế Hữu viết bộ Tập Luận (tên đầy đủ là Ðại thừa A Tỳ Ðạt Ma Tập Luận), tiếp đó Bà Tu Mật viết bộ Phẩm Loại Túc Luận.
2. Giòng của Cù Sa (dịch ý nghĩa là Diệu Âm) Tôn Giả:
Ngài Diệu Âm dựa vào Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm để sáng tác bộ Cam Lồ Vị Tỳ Ðàm. Ðại Ðường Tây Vực Ký truyền rằng Cù Sa tôn giả là người cùng thời vua A Dục. Lại có ngài Pháp Thắng ở nước Thổ Hỏa La dựa vào Cam Lồ Vị Tỳ Ðàm để viết bộ A Tỳ Ðàm Tâm Luận, luận có mười phẩm và rất khéo tổ chức. Các luận sư ở tây Ấn Ðộ cũng như ở ngoài Ấn Ðộ rất trọng thị luận Ðại Tỳ Bà Sa, bởi họ đều là học giả của luận này. Người xưa lấy A Tỳ Ðàm Tâm Luận làm cương yếu cho luận Ðại Tỳ Bà Sa. Thực ra thì luận Ðại Tỳ Bà Sa thuộc hệ Phát Trí Luận của Hữu Bộ ở đông Ấn Ðộ, còn A Tỳ Ðàm Tâm Luận mới thuộc về hệ Cam Lồ Vị Tỳ Ðàm của Hữu Bộ ở tây Ấn Ðộ. Duy chỉ có luận Ðại Tỳ Bà Sa là độc nhất trong luận Phát Trí.
3. Giòng của Cưu Ma La Ðà (dịch âm Hán là Ðồng Thọ):
Ngài Ðồng Thọ, ngài Ca Chiên Diên và ngài Diệu Âm là những vị trước sau kế tiếp nhau, ngài Thí Dụ Sư của Kinh Lượng Bộ ở địa phương Kiền Ðà La, viết bộ Dụ Tu Luận có nội dung đứng trên lập trường đối kháng, phê phán luận Phát Trí. Ðưa ra chủ trương “vô vi vô thể”, “quá vị vô thể”, “bất tương ưng hành vô thực”, “mộng ảnh tượng hóa vô thực”. Lại có Tôn giả Ðại Ðức, Tôn giả Giác Hiền là những vị thừa tiếp và phát huy giòng Cưu Ma La Ðà.
Ba hệ trên đều thuộc Hữu Bộ phân hóa ra; chỉ có hệ thứ nhất là bám chặt vào tính chính thống của Hữu Bộ, hệ thứ hai, thứ ba thuộc Kinh Lượng Bộ, riêng hệ thứ ba do chịu ảnh hưởng của hệ Ðại Chúng và hệ Phân Biệt Thuyết mà xuất hiện.
- Thống nhất tranh luận.
Căn cứ theo truyền thuyết(14), nguyên nhân chính của tranh luận là do sự phân kỳ của tư tưởng Hữu Bộ, việc đó xảy ra sau Phật nhập diệt khoảng bốn trăm năm, vì muốn có sự nhất trí giữa các luận sư của các Bộ phái nên vua Ca Nị Sắc Ca bèn thỉnh ngài Hiếp Tỳ kheo và Tôn giả Thế Hữu đứng làm thượng thủ triệu tập năm trăm vị La Hán qui tụ về tại nước Ca Thấp Di La(15) để tiến hành kiết tập thánh điển lần thứ tư. Thành quả của lần kiết tập này là tập thể tuyển chọn và viết ra bộ luận Ðại Tỳ Bà Sa với hai trăm quyển. Bộ luận này tuy thống nhất về mục đích xuất phát, nhưng lại đứng trên lập trường của luận Phát Trí, vì tại Na Bộc Ðề (thuộc đông phương của bắc Ấn Ðộ) đối với kiến giải của ngài Diệu Âm còn có chỗ “lấy, bỏ”. Trong khi đó có kiến giải của Thí Dụ Sư tại Kiền Ðà La (thuộc phía tây của bắc Ấn Ðộ) thì hoàn toàn bài xích. Nhân đấy mà sự xuất hiện của luận Ðại Tỳ Bà Sa khiến sự phân hóa giữa hệ phía đông và hệ phía tây của Hữu Bộ càng sâu đậm hơn. Mãi đến bảy trăm năm sau Phật diệt độ, học giả Pháp Cứu (Ðạt Ma Ða La) là hậu nhân của hệ Diệu Âm và sau A Tỳ Ðàm Tâm Luận, của Pháp Thắng, Pháp Cứu không cho việc phản biện của Thí Dụ Sư là có chủ đích tự nhiên, ông cũng coi việc rườm lời, vụn vặt của luận Ðại Tỳ Bà Sa là đương nhiên. Nhưng lấy tinh nghĩa của luận Ðại Tỳ Bà Sa tăng bổ vào luận A Tỳ Ðàm Tâm của Pháp Thắng để tạo thành bộ Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận. Khai thông tư tưởng của hai hệ tây đông thuộc Hữu Bộ, để giữ cái đúng của Hữu Bộ.
Tư tưởng Ðại thừa ở thời kỳ này ngày một khởi sắc; nhờ vậy cho nên ngài Thất Lợi Ða La mới viết bộ “Kinh Bộ Tỳ Bà Sa”, cũng do tư tưởng tiến bộ của Kinh Bộ ngày thêm hưng thịnh làm bộc lộ nhược điểm bảo thủ của học thuyết Hữu Bộ. Ðại luận sư Thế Thân dựa vào Tạp A Tỳ Ðàm Tâm Luận để viết bộ “A Tỳ Ðàm Ðạt Ma Cu Xá Luận” gồm ba mươi quyển. Tuy luận vẫn lấy Hữu Bộ làm bản tông, nhưng Thế Thân dùng thái độ của Kinh Bộ để tu chính nhược điểm của Hữu Bộ, và cũng chính Thế Thân lấy quan điểm của Hữu Bộ để khải minh sắc thái của Kinh Bộ. Lại có ngài Chúng Hiền luận sư của Hữu Bộ - người cùng thời với Thế Thân, (Luận này sau được Thế Thân sửa thành A Tỳ Ðạt Ma Thuận Chánh Lý Luận), ngài Chúng Hiền - còn trước tác A Tỳ Ðạt Ma Hiển Tông, và cùng Thế Thân biện nạn. Ba luận trên được Huyền Trang dịch ra Hán Văn, riêng bộ A Tỳ Ðàm Ðạt Ma Cu Xá Luận, cựu dịch với hai mươi quyển của ngài Trần Chơn Ðế.
Luận A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá là tác phẩm đại biểu sau cùng trong quá trình đi từ Tiểu thừa đến Ðại thừa của Bồ Tát Thế Thân. Về mặt lịch sử Phật Giáo nói chung, đây là bộ luận có địa vị được mọi người kính trọng, bởi luận của ngài Thế Thân, người mà chẳng bao lâu sau đó đã “hồi Tiểu hướng Ðại” và trở thành vị luận sư vĩ đại của Ðại thừa Duy Thức học.