- Chương 01: Nguồn gốc
- Chương 02: Thích Ca Thế Tôn
- Chương 03: Nguyên thỉ Phật giáo và Tam tạng kinh điển
- Chương 04: Vua A Dục và Đại Thiên
- Chương 05: Sự phân chia bộ phái Phật giáo
- Chương 06: Giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ và Hữu bộ
- Chương 07: Nghệ thuật Phật giáo - Vương triều vua A Dục và sau đó
- Chương 08: Thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa
- Chương 09: Phật giáo Đại thừa hệ Long thọ và kinh điển của hệ này về sau
- Chương 10: Phật giáo Đại thừa hệ Vô Trước
- Chương 11: Vương triều Cấp Đa và Phật giáo sau vương triều này
- Chương 12: Từ thời Mật giáo thịnh hành đến Phật giáo cận đại
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí
dịch
---o0o---
PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA HỆ VÔ TRƯỚC
TIẾT
I. BỒ TÁT VÔ TRƯỚC
Ở chương trước có đề cập đến kinh điển của thời trung kỳ Ðại thừa là do yêu cầu thời đại, vào có người cho là nó được thành lập vào thời gian từ năm hai trăm đến năm bốn trăm sau Công nguyên, hơn nữa, kinh Ðại Niết Bàn, kinh Ðại Pháp Cổ đều lưu hành ở nam Ấn Ðộ; kinh Lăng Già thì lấy bờ biển phái nam Ấn Ðộ làm địa điểm thuyết pháp. Nhân đấy, có thể nói các kinh điển này với kinh Bát Nhã đều được thành lập tại nam Ấn Ðộ. Nhưng tư tưởng trong những kinh này cùng với kinh Ðại thừa cũng thuộc nam Ấn Ðộ ở thời kỳ trước đó có chỗ trái nghịch nhau; đấy là sự thực.
Khảo sát sâu hơn thì thấy kinh Thắng Man lấy A Du Ðà (Ayodhyà) ở vùng trung Ấn Ðộ làm trung tâm, trong khi ngài Vô Trước và Thế Thân lại xuất thân ở bắc Ấn Ðộ. Ðặc biệt là ngài Vô Trước, ngài không lấy A Du Ðà làm trung tâm để phát triển Ðại thừa Duy Thức. A Du Ðà là vùng đất mà vương triều Cấp Ða nhắm đến để dời đô về đây vào cuối thế kỷ thứ IV tây lịch. Do đó, có người lấy nơi đây làm địa bàn phát triển kinh điển Ðại thừa ở thời trung kỳ, có khả năng kinh điển Ðại thừa thời trung kỳ là sản vật văn hóa của vương triều Cấp Ða (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI tây lịch).
Bất luận thế nào, đương thời ngài Long Thọ tổ chức hoàn bị Ðại thừa Phật giáo, đặc sắc là việc ngài phá Tiểu thừa để phát huy tính ưu việt của Ðại thừa; đến ngài Vô Trước, về phương diện giáo lý, ngài khai triển đến trước cả thời của Long Thọ, đồng thời ngài cũng gom lấy những giáo lý rời rạc của Tiểu thừa Hữu Bộ làm cơ sở, cho nên lúc xác lập Ðại thừa Phật giáo thì ngài gồm luôn Tiểu thừa để thống hiệp vào Ðại thừa .
Thời ngài tam tạng Nghĩa Tịnh lưu học tại Ấn Ðộ, ông có viết trong bộ “Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện”(1) rằng “gọi là Ðại thừa thì không ngoài hai thứ loại, một là Trung - Quán, hai là Du Già.
Trung Quán thì tục hữu chơn không. Thể hư như huyễn, Du Già thì ngoại vô nội hữu, mọi việc đều là Duy Thức”. Trung Quán thịnh hành ở đông nam Ấn Ðộ, còn Du Già thì thịnh hành ở trung bắc Ấn Ðộ, kết quả này là do hoàn cảnh và thời đại trợ lực mà thành.
Vì sao cho rằng Ðại thừa duy thức là “Du Già”? Ðó là do hoàn cảnh và thời đại giữa Du Già và Duy thức có liên quan với nhau. Phàm hễ ai khéo tu chỉ quán thì người đó khế nhập Du Già, gọi là Du già Sư; làm nơi y trú cho Du Già sư, thì gọi là Du Già Sư Ðịa, tức là ngài An Thế Cao dịch các bộ “Tu Hành Kinh”, “Ðại Ðạo Ðịa Kinh”, “Ðại Ðạo Ðịa Kinh”, ngài Giác Hiền dịch bộ “Tu Hành Phương Tiện”, những cách dịch khác nhau này đều liên hệ đến Du già Sư Ðịa của Phạn ngữ.
Như vậy, Du già sư là chỉ cho thiền sư, và đa phần cảnh giưói của thiền sư là nội chứng. Do đó, từ thiền mà xuất giáo đó là sự thực, sự xuất giáo của thiền vồn là từ kinh nghiệm nội chứng mà lập thuyết. Học giả Tiểu thừa của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đặc biệt đi sâu vào thiền. Buổi đầu thiền được truyền đến Trung Quốc có rất ít người học, và cũng được truyền vào Trung Quốc từ hệ học giả của vùng bắc Ấn Ðộ là chính. Giáo nghĩa của thiền phần nhiều phát xuất từ các học giả Du Già. Vị đại sư phát khởi việc chỉnh lý, tổ chức giáo thuyết Du Già là ngài Di Lặc, theo sự khảo chứng của các giả cận đại thì vị thế ngài Di Lặc là nhân vật lịch sử đứng hàng thứ hai trong số các học giả của Tát Bà Ða Bộ (Nhất Thiết Hữu).
- Di Lặc và Vô Trước.
Ngài Di Lặc (Maitreya Từ Thị). Chương tám, tiết một và ba, sách này có lược dẫn về Di Lặc. Ngài là vị Bồ Tát “nhất sinh bổ xứ” (lần sinh sau rốt) hiện đang ở tại nội viện của cung trời Ðâu Suất, và trong tương lai sẽ thành Phật ở cõi nhân gian này.
Theo bản dịch “Bà Tẩu Bàn Ðậu Pháp Sư Truyện” của Chơn Ðế(2), thì ba anh em ngài Vô Trước (Asanga) sinh tại nước Phú Lâu Sa Phú La (Purusa - Pura - nay là Bạch Hạ Ngõa) ở bắc Ấn Ðộ, trong một gia đình theo Bà La Môn giáo. Anh trưởng là ngài Vô Trước, kế đó là ngài Thế Thân (Vasubandhu), và thứ ba là ngài Tỉ Lân Trì Bạt Bà, cả ba anh em đều xuất gia với Hữu Bộ. Sau đó ngài Vô Trước đi đến Mục Tỳ Ðề Ha (Videha) và chịu sự giáo hóa của La hán Tần Ðầu La, và chứng đắc “không quán” của Tiểu thừa. Nhưng Vô Trước chưa thỏa ý bèn vận thần thông lên cung trời Ðâu Suất hướng về Bồ Tát Di Lặc mà thọ giáo Ðại thừa không quán, và Ðại thừa kinh nghĩa, tiếp theo ông mời thỉnh Bồ Tát Di Lặc xuống cõi nhân gian thuyết pháp. Nhân đây, hiện còn truyền Di Lặc là người tạo các bộ luận thư trọng yếu sau:
1. Du Già Sư Ðịa Luận - một trăm quyển, được Huyền Trang dịch ra Hán văn, Tây Tạng chỉ dịch một bộ phận và cho rằng luận là do Vô Trước tạo.
2. Ðại thừa Trang Nghiêm Luận Tụng - một quyển, được Ba La Phủ Mật Ða La dịch ra Hán văn. Bản Phạn văn và bản dịch Tây Tạng văn hiện vẫn còn.
3. Biện Trung Biên Luận Tụng - một quyển. Trung Quốc có hai dịch bản, một của Chơn Ðế, một của Huyền Trang. Bản Phạn văn và bản Tạng văn hiện còn.
4. Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Tụng, bản Phạn văn hiện còn. Trung Quốc chưa dịch bộ này.
5. Năng Ðoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật ÐA Kinh Luận Tụng - một quyển, Hán dịch có hai bản. Một của Bồ Ðề Lưu Chi, một của Nghĩa Tịnh.
Như vậy, theo Vũ Tỉnh Bá Thọ người Nhật Bản thừa nhận, thì Di Lặc là nhân vật lịch sử(3), và pháp sư Ấn Thuận của Trung Quốc tán thành thuyết này. Nhưng cho rằng Di Lặc là một học giả lớn của Tát Bà Ða Bộ(4). Còn Mộc Thôn Thái Hiền chủ trương, nếu thừa nhận Di Lặc là một vị luận sư xét về mặc lịch sử, thì cần có thêm sự nghiên cứu; tuy tạm thời ông đồng ý các tác phẩm trên là do Di Lặc tạo, nhưng đại khái cũng không loại trừ thuyết cho rằng là của Vô Trước tạo, như thế an toàn hơn(5).
Nếu dựa theo kinh nghiệm tôn giáo, và kinh nghiệm tín ngưỡng tôn giáo thì chúng ta có lý do để xác tín vị Bồ tát Di Lặc này tức là ngài Từ Thị ở Ðâu Suất Thiên. Nhân vì những thấy biết trong định của Du già sư tuyệt nhiên không phải là cách nói ba hoa mang tính diễn tả của chúng ta. Khi ở trong định, Du già sư dùng thần thông để lên cõi trời thỉnh pháp, hoặc thỉnh ngài Di Lặc xuống nhân gian thuyết pháp, điều đó có thể xảy ra. Còn đứng ở góc độ lịch sử tư tưởng, thì Di Lặc biểu hiện thân phận mình thông qua cảnh trong định của Du già sư. Và ngài Vô Trước chẳng qua là vị Du già sư kiệt xuất đại biểu cho những vị Du già sư mà thôi. Trong “Bà Tẩu Bàn Ðậu Pháp Sư Truyện” chép: “Vô Trước sau khi xuất gia với Tát Bà Ða Bộ, ông tu định và chứng đắc ly dục”. Như vậy, không có gì phải nghi, Vô Trước quả thực là vị Du già sư của Hữu bộ. Lại nói về đại chúng, “tuy tất cả cùng ở trong một giảng đường nghe pháp, duy chỉ có pháp sư Vô trước được thân căn Bồ Tát Di Lặc, những vị khác chỉ nghe từ xa, đêm đến được nghe Di Lặc thuyết pháp, ban ngày thì pháp sư Vô Trước giảng giải lại cho các vị khác nghe những điều ông nghe được từ Di Lặc”.
Nếu khảo chứng tư liệu về các nhân vật lịch sử, thì trong những vị tiền bối của Vô Trước chắc chắn là có một vị luận sư Di Lặc, với các lý do:
1. Vào thời đại Diêu Tần có một vị học giả Ấn Ðộ đến Trung Hoa, và được xưng tụng là La Thập tam tạng, ông vì Miệt Ðế Lợi mà đến, đó là người thức nhất.
2. Trong “Ðạo An Truyện” có các vị như: Di Ðố Lô Ðao Lợi, Di Lặc, Chúng Hộ, Bà Tu Mật, cả bốn vị này được xưng tụng là bốn đại sĩ.
3. Mục lục của “Tát Bà Ða Bộ Ký” có chép: Tổ ba mưôi lăm là Ðề Bà, tổ thức bốn mươi hai là Ma Ðế Lệ, tổ bốn mươi bốn là Bà Tu Bàn Ðầu (Thế Thân).
4. Bàng hệ của “Truyền Ðăng Lục” chép: tổ thứ mười là Ma Ðế Lệ Pha La, tổ mười hai là Thế Thân. Trong đó bốn vị trước là Miệt Ðế Lợi, Di Lặc, Ma Ðế Lợi, Ma Ðế Lệ Phu La, đều do cùng một chữ là Maitreya nhưng lại dịch khác nhau, điều đó cho thấy sau Ðề Bà, trước Thế Thân chắc chắn có mộ vị tên là Di Lặc. Vị có tên Di Lặc này đương nhiên là một nhân vật trọng yếu trong số các luận thư của Di Lặc. Ðương thời Di Lặc là một trong những Du già luận sư mà tư tưởng đại biểu cho toàn bộ luận thư của Di Lặc là tập hợp tất cả “thiền cảnh sở đắc” (chung đắc trong thiền định) của các Du già sư, chúng ta có thể thừa nhận là các luận thư nêu trên được truyền bởi Bồ Tát Di Lặc từ cung trời Ðâu Suất. Còn người hoằng dương học thuyết của Di Lặc, đó là công đức lớn của Bồ Tát Vô Trước.
- Vô Trước và những trước thuật của ông.
Ðại để, Di Lặc là nhân vật sống vào thời gian từ năm 270 đến năm 350 sau Công nguyên. Vô Trước sống vào khoảng từ 310 đến năm 390 sau Công nguyên. Lúc Vô Trước và Thế Thân hoằng dương đại pháp nhằm vào thời thịnh của vương triều Cấp Ða. Ước từ cuối năm Sa Mổ Ðà La Cấp Ða (Samudra - gupta, năm 370-379 tây lịch), rồi trải qua đời vua Chiên Ðà La Cấp Ða II (Candra - gupta II, 380-414 tây lịch). Cho đến khi vua Cưu Ma La Cấp Ða (Kumàra - gupta, 415-? tây lịch) kế vị, đây cũng là thời gian Pháp Hiển của Trung Quốc tây du học Phật, còn La Thập thì đông du Hoằng hóa, thời gian giữa hai vị không cách khoảng nhau là mấy.
Vô Trước ngoài việc truyền giảng những luận thư trứ danh của Di Lặc, ông còn là người tự mình tạo những bộ luận thư nổi tiếng như:
1. Luận Hiển Dương Thánh Giáo - một quyển, Huyền Trang dịch ra Hán văn.
2. Luận Nhiếp Ðại Thừa - ba quyển, Hán dịch có ba bản; một của Chơn Ðế, một của Huyền Trang, và một của Phật Ðà Phiến Ða. Tây Tạng cũng có bản dịch bộ luận thư này.
3. Luận Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma Tập - bảy quyển, bản Hán dịch là của Huyền Trang, Tây Tạng cũng có bản dịch luận này.
4. Luận Kim Cang Bát Nhã Kinh - hai quyển, bản Hán dịch là của Ða Ma Cấp Ða, Tây Tạng cũng có bản dịch luận này.
5. Luận Thuận Trung - hai quyển, bản hán dịch là của Bát Nhã Lưu Chi.
6. Luận Ðại Thừa Trang Nghiêm Kinh - mười ba quyển, bản Hán dịch của Ba La Pha Mật Ða, luận này hiện còn bản Phạn văn là bản dịch Tạng văn. Ý thú trong ba luận đầu (một, hai, ba) chính diện là xiển dương phái Du già. Yù thú của luận thứ tư là dương cao kinh Kim Cang Bát Nhã. Còn bộ “Thuận Trung Luận” thì nói khái quát về Trung Luận, và bộ Ðại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận đặt cơ sở trên luận Du Già Sư Ðịa của Di Lặc để giải thích Ðại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, đây là bộ sách giảng thuyết những điều chủ yếu về Phật giáo Ðại thừa.
- Thức A Lại Da.
Thức A Lại Da (Àlaya - Vijnõàna) là tư tưởng trung tâm từ Di Lặc đến Vô Trước, nay xin căn cứ những gì được nói trong luận Du Già Sư Ðịa để nêu ra năm áo nghĩa của thức A Lại Da.
1. Hoạt động của thức A Lại Da dựa vào hai nhân tố: một là “liễu biệt” tức tâm chấp thọ mang tính nội tại có phân biệt; hai là “liễu biệt” tức khí thế giới mang tính ngoại tại vô phân biệt. Thức A Lại Da duy trì hoạt động nội tại của thân tâm, và liễu biệt (sự nhận thức là do có phân biệt rõ đen trắng, dài ngắn, to nhỏ v.v...) hoạt động của thế giới ngoại tại.
2. Thức A Lại Da tương ưng với năm tâm sở biến hành là: tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư.
3. Thức A Lại Da cùng với các pháp có quan hệ hỗ tương nhân quả: thức A Lại Da còn gọi là chủng tử thức, tức nó tàng chứa chủng tử và rồi từ chủng tử sinh khởi tất cả pháp, tất cả pháp là sự hiện hành của chủng tử, nên gọi là “chủng tử sinh hiện hành”. A Lại Da thức là nhân, các pháp hiện hành là quả, đấy là nhân quả đồng thời có tác dụng sinh khởi trong cùng một sát na. Sự hiện hành của các pháp lại huân tập (ảnh hưởng) trở lại thức A Lại Da, thành ra thức A Lại Da là nơi tích tụ của chủng tử, do vậy nên gọi là “hiện hành sinh chủng tử”. Tác dụng trong trường hợp này là sự hiện hành của các pháp là nhân, sự tích tụ chủng từ là quả. Chủng tử của thức A Lại Da có khả năng sinh khởi hiện hành, hiện hành cũng có khả năng cùng với chủng tử của thức A Lại Da ảnh hưởng qua lại tương tục trong một sát na để sinh khởi chủng tử mới, đây gọi là “tự loại tương tục” (cùng một dòng chủng tử thì thay nhau sinh khởi liên tục) hay còn gọi là chủng tử sinh chủng tử.
4. Thức A Lại Da và các thức cùng chuyển: phàm khi một hoặc hai thức hoạt động thì chủng tử trong thức A Lại Da cùng theo đó mà biến động.
5. Thức A Lại Da có hai mặt, đó là tạp nhiễm và hoàn tịnh: lúc lưu chuyển trong sinh tử, thì đó là lúc căn bản thức (tên khác của thức A Lại Da) bị tạp nhiễm. Khi chứng ngộ nhập Niết bàn, thì đó là sở y của công năng hoàn diệt. Ðây là áp dụng tư tưởng Như Lai tạng.
- Luận Nhiếp Ðại Thừa của Vô Trước.
Duy thức học được phát nguyên từ luận Du Già Sư Ðại của Di Lặc, sang đến luận Nhiếp Ðại Thừa của Vô Trước thì môn Duy Thức học thành công lớn. Vô Trước viết tác phẩm này vào lúc tuổi đã về già. Ðây là bộ luận được tổ chức đặc biệt độc đáo. Luận này nhằm giải thích phẩm Nhiếp Ðại Thừa trong kinh Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma; đây cũng là tác phẩm đại biểu cho tư tưởng Vô Trước. Nội dung của luận Nhiếp Ðại Thừa được chia thành mười chương, chủ đích thuyết minh mười thứ thù thắng(6), và thuật rõ ý thú của Ðại thừa Phật giáo là “chơn thị Phật thuyết (đúng là do Phật thuyết) “tướng” (hình thức) của mười thứ thù thắng có thể phân làm: cảnh, hành, quả. Thù thắng thứ nhất, và thứ hai là hành thù thắng; thù thắng thứ chín và thứ mười là quả thù thắng.
Nội dung của mười thù thắng đại ý như sau:
1. Sở tri y:
“Nghĩa là thức A Lại Da có tên là Sở tri y thể”. Tất cả các pháp được biết đến đều nương thức A Lại Da làm sở y cho ba tánh (Biến kế chấp, Y tha khởi, viên thành thực). Riêng ba tánh lại có hai cách kiến giải:
a) Biến kế sở chấp và Y tha khởi thuộc về tạp nhiễm, Viên thành thực thuộc về thanh tịnh.
b) Biến kế chấp là thuộc về tạp nhiễm, Viên thành thực thuộc về thanh tịnh, còn Y tha khởi thì thông cả Biến kế chấp, và Viên thành thực, tức có thể tạp nhiễm, có thể thanh tịnh, theo cách hiểu thứ nhất thì thức A Lại Da là hư vọng, không thực, là tạp nhiễm bất tịnh. Cách hiểu thứ hai, thì thức A Lại Da vừa tạp nhiễm hư vọng, cũng vừa là chơn thực thanh tịnh. Vô Trước thiên về cách hiểu thứ nhất, còn Thế Thân thì gom cả hai.
2. Sở tri tướng:
“Tam chủng tự tánh” gọi đó là Sở tri tướng thể. Sở tri đó là tướng”(7), gọi là Sở tri tướng, tức lấy tất cả pháp được biết đến chia thành ba tướng để thuyết minh:
a) Y tha khởi tự tánh - tánh này nhờ nhân cậy duyên mà sinh khởi. Vì tất cả pháp có thể là nhiễm có thể là tịnh, chứ các pháp không phải là bất biến.
b) Biến kế sở chấp tự tánh - tánh này chỉ cho tất cả pháp sở thủ đều khởi nguồn từ loạn thức (huyễn vọng), bởi nó hoàn toàn không có thực thể. Chẳng qua đấy chỉ là nhận thức chủ quan sai lệch với thực tại chân lý.
c) Viên thành thực tự tánh - tánh này do chứng ngộ “nhị không” nhân không, pháp không. Ðấy là tánh chân thực của các pháp.
3. Nhập Sở tri tướng:
“Duy thức tánh, gọi là Nhập sở tri tướng thể”. Do tu Duy thức quán mà ngộ nhập Duy thức tánh, tựu trung là đi vào tướng sở tri và tánh chơn thực. Duy thức có hai:
a) Bước đầu là phương tiện Duy thức quán - dùng Duy thức quán quán sát tự tánh của tất cả các pháp là do hư vọng phân biệt mà có; nên rốt ráo không có cái để được.
b) Tiến lên bước nữa là chơn thực Duy thức quán - quán sát cảnh của các pháp là bất khả đắc, vì cảnh do hư vọng, do phân biệt của thức nên cũng bất khả đắc. Khi tâm và cảnh đều dứt (tức vọng thức không còn khởi niệm phân biệt ngã - pháp). Ðấy là ngộ nhập bình đẳng pháp tánh (Viên thành thực tánh). Duy thức quán của luận này tuy thông đến cảnh chân thực (như vừa nêu), nhưng chính là chú trọng đi từ phàm phu đến thánh (từ phân biệt trí ở địa vị Gia hạnh đi đến vô phân biệt trí căn bản) đều thông qua Duy thức quán.
4. Bỉ nhập nhân quả:
“Sáu Ba la Mật đa, gọi là bỉ nhập nhân quả thể”. Bỉ nhập tựu trung là nhập bỉ; tức muốn nói để đi vào Duy Thức tánh cần yếu phải tu trì sáu pháp Ba La Mật Ða (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ); khi chưa ngộ nhập Duy thức tánh thì sở tu là nhân, khi đã chứng nhập Duy tức thánh thì sở tu là quả.
5. Bỉ nhân quả sai biệt:
“Thập địa Bồ tát, gọi là bỉ nhân quả tu sai biệt thể”. Sau khi tiến đến sơ địa thì thánh vị của Bồ tát đối với thập địa là phải tu tập sáu Ba La Mật Ða; cứ tuần tự như thế mỗi địa tăng dần lên, nên gọi là có mười địa sai biệt, khi đến được quả vị Phật, thì đấy là lúc tu tập sáu Ba La Mật Ða đã viên mãn.
6. Tu sai biệt trung tăng thượng giới:
“Luật nghi của Bồ tát, gọi đó là thử trung tăng thượng giới thể”, tức trong các địa mà Bồ tát tu tập có giới học là sở tu của Bồ tát. Sở dĩ vậy, là nhằm làm rõ chư Bồ tát không tu theo Tiểu thừa giới của Thanh văn, cho nên gọi là Bồ tát luật nghi địa, địa cứ thế mà tuần tự tu tập, triển chuyển, tăng gia, hướng thượng, nên gọi là tăng thượng.
7. Tăng thượng tâm:
“Thủ lăng già ma, hư không tạng, các tam ma địa v.v.. gọi đó là thủ trung tăng thượng tâm thể”. Ðấy tức là sơ tu định học của các Bồ tát địa. Ðịnh dùng tâm làm chủ thể, nên gọi là tăng thượng tâm. Thủ lăng già ma nghĩa là kiện hành; tóm lại, Thủ Lăng Nghiêm tức là đại định. Cảnh giới của định này hết sức cao sâu. Nó là chỗ tu và nhắm tới của thập trụ Bồ tát. Hư không tạng là tên khác của định, có khả năng hàm nhiếp và xuất sinh tất cả công đức, nên gọi là Hư không tạng.
8) Tăng thượng huệ:
“Trí vô phân biệt, ở đây gọi là tăng thượng huệ thể”. Ðây là chỗ tu huệ của Bồ tát. Trí vô phân biệt bao gồm cả gia hạnh trí, căn bản trí, hậu đắc trí. Bồ tát xa lìa tất cả mọi pháp chấp phân biệt, cho nên ba trí vừa nêu đều gọi là vô phân biệt.
9) Bỉ quả đoạn:
“Vô trụ Niết bàn, gọi đó là bỉ quả đoạn thể”. Bỉ quả, là quả do tu tập giới - định - huệ tam tăng thượng học mà có được. Chứng đắc quả này là nhờ đoạn sạch phiền não chướng và sở tri chướng. Do đó, gọi là đoạn quả. Nghĩa là vô trụ Niết bàn là không trụ sinh tử, cũng không lìa sinh tử.
10. Bỉ quả trí:
“Tam chủng Phật thân, gọi đó là bỉ quả trí thể”. Quả này như trước đã nói, nó là trí, nên có tên là Quả trí. Về phương diện đoạn chướng của quả tịch diệt, thì đây là vô trụ đại Niết bàn; về phương diện trí huệ của hiển hiện quả, thì dây là viên mãn vô phân biệt trí, đấy tức là chuyển tám thức làm bốn trí và thành tựu tam thân Phật:
a) Chuyển thức thứ tám thành Ðại viên Cảnh trí; chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng trí - tức “tự tánh thân Phật”
b) Chuyển thức thứ sáu thành diệu quan sát trí, tức là “Thọ dụng thân” Phật.
c) Năm thức trước chuyển thành thành sở tác trí; tức là “Biến hóa thân” Phật. Thân thứ nhất (tự tánh thân) thì thường trụ; thân thứ hai và thứ ba (Thọ dụng thân, Biến hóa thân) thì vô thường. Thọ dụng thân do sự hiện khởi của tự tánh thân, mà thọ dụng mọi pháp lạc (tự thọ dụng), và trên lĩnh vực này làm thánh vị thuyết pháp của Bồ tát (tha dụng thọ); biến hóa thân là do tự tánh thân hiện khỏi, để vì hàng Thanh văn thuyết pháp.
Trên đây là giải thích nghĩa của thập thù thắng, xin độc giả tham khảo thêm “Nhiếp Ðại Thừa Luận Giảng Ký” của Pháp sư Ấn Thuận. Trong đó nói rõ về Duy thức cảnh, Duy thức hành và Duy thức quả. Nói về lập trường của Duy thức học, thì luận này là bộ luận thống nhất toàn thể Ðại thừa Phật giáo.