Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Các luận sư sau Thế Thân

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9690)
Tiết 3: Các luận sư sau Thế Thân

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG X
PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA HỆ VÔ TRƯỚC

TIẾT III. CÁC LUẬN SƯ SAU THẾ THÂN

Ðại thừa Khởi Tín Luận, sau đó là Thế Thân thì Ðại thừa Phật giáo Ấn Ðộ tiến vào thời hậu kỳ. Như chúng ta biết, trong tư tưởng của Thế Thânlập trường của một hệ Như Lai tạng duyên khởi; tuy nhiên, tác phẩm “Phật Tánh Luận” của Thế Thân về phương diện nào đó nó vẫn chưa đạt đến trình độ đủ chín. Ðến thế kỷ thứ năm tây lịch, các bộ luận của Kiên Huệ như: Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, Ðại Thừa Pháp Giới Vô Sai Biệt Luận, lại lấy luận Ðại thừa Khởi Tín mà phát triển mở rộng ra. Luận Ðại Thừa Khởi Tín xét về góc độ lịch sử tư tưởng, thì gần đây có người cho rằng tác phẩm này của Mã Minh có khả năng là do đệ tử của Thế Thân hoặc người đồng thời với An Huệ viết ra. Do đó, xin giới thiệu những luận sư sau Thế Thân.

Luận Ðại Thừa Khởi Tín rất được các nhà như: Thiên Ðài, Hiền Thủ, Thiền Tông của Tung Quốc rất mực sùng tín. Có thể nói đây là bộ luận điển quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tung Quốc, nó được coi là luận thư khái quát của Phật giáo. Nhưng theo học giả Lương Khải Siêu, ông căn cứ những chứng cứ lịch sử của Vọng Nguyệt Tín Hạnh - người Nhật Bản, cho rằng Luận Ðại Thừa Khởi Tín là do người Tung Quốc sáng tác, và xiển dương nó, và cho nó là sản vật trí tuệ tối cao của nhân loại. Lại nữa, có Âu Dương Cánh Vô Sư Tư của nội học viện Chi Na, ông này căn cứ lập trường Duy thức học để khởi xướng luận này chứ không bài xích. Còn Vương Ân Dương thì nói mang tính ganh ghét “Lương Trần là con nít, không biết biến kế là gì” mà viết, lại nói: “lập lờ, nông cạn, san lấp hết huệ mạng”, rồi ông tiến đến khẳng định là “luận không phải của Phật giáo”. Trước giờ người luôn bảo hộduy trì bộ luận Ðại Khởi Tínđại sư Thái Hư. Văn tự về cuộc luận chiến này có thể tham khảo sách “Ðại Thừa Khởi Tín Luận Chơn Ngụy Biện”. Pháp sư Ấn Thuận cũng có ý kiến về vấn đề này, xin đọc cuốn Ðại Thừa Khởi Tín Luận Giảng Ký của ông. Trong đó ông viết mang tính “huyền luận” nhiều hơn.

Bất luận là gì đi nữa, thì Luận Ðại Thừa Khởi Tín vẫn có địa vị đặc biệt độc đáo, cũng như không thể phủ nhận giá trị của nó được. Ở đây xin miễn bàn luận vấn đề chơn giả, và xuất xứ, chỉ mong giới thiệu đại lược về nội dung của Luận.

Khởi đi từ tịnh tâm duyên khởi của kinh Pháp Hoa đến thuyết Như Lai tạng của Như Lai Tạng Kinh, rồi kế tiếp là thuyết “Nhất tâm nhị môn” của luận này, thì quán Như Lai tạng duyên khởi mới đạt đến viên thục (tròn đầy cả về lý - sự).

Luận này lấy “pháp” làm “tâm chúng sinh”. Pháp ở đây là Ðại thừa pháp, còn tâm chúng sinhNhư Lai tạng; nói cách khác, Như Lai tạng ấy là Ðại thừa pháp. Tâm chúng sinh chất chứa tất cả pháp. Do đó, nên gọi là “nhất tâm”; như nhất tâm này hướng về thanh tịnh giới, quang minh giới, ngộ giới, thì đấy là chơn như môn; còn như nhất tâm này hướng về tạp nhiễm giới, vô minh giới, mê giới, thì đấy là sinh diệt môn. Chơn như môn thì đó là tự tánh thanh tịnh tâm, sinh diệt môn thì đó là tạp nhiễm hư vọng tâm. Do vô minh mới dẫn đến hư vọng sinh diệt, do hiện thựchư vọng sinh diệt nên mới hướng thượng tu tập, tức mong muốn có thể đi dến quả vị cứu cánh, gọi là “nhất tâm pháp giới”. Ba phương diện nhất tâm pháp giới là: Bản thể, Công năngTác dụng, cũng gọi là Tam đại:

1. Thể đại (bản thể) tức chân như thực tánh bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất giảm.

2. Tướng đại (công năng), tức chơn như có bao đức hàm tướng vô hạn.

3. Ðại dụng (tác dụng), tức khả năng sinh ra tất cả thiện pháp hữu hâu, vô lậu của thế gianxuất thế gian.

Nhất tâm, nhị môntam đại, là ba cương lĩnh cốt yếu của Luận Ðại Thừa Khởi Tín.

Chơn như, người xưa coi đó là mệnh danh cho bản thể vũ trụ. Chơn nhưthực tại sau khi tâm đã xa lìa tất cả mọi vọng niệm, khi ấy với tất cả pháp không pháp nào không là chân như. Với chân như, Luận Ðại Thừa Khởi Tín có sự giới biệt, tức phân ra thành Ly ngôn chân như, Y ngôn chân như, Không chân nhưBất không chân như. Ðiểm trước mắtBất không chân như hàm chứa vô lượng công đức; tựu trung ấy là Nhất tâm của thường lạc ngã tịnh, và là mục tiêu để chúng ta tu học Phật pháp. Nhưng “Nhất tâm” này tất cả chúng sinh vốn có đủ, khi ngộ nhâp liền thấy chân như tâm vốn tự tánh thanh tịnh.

Sinh diệt ấy là do tâm của chúng sinh chạy theo thế giới hiện tượng. Hiện tượng giới đối lập với chân như, nên gọi sự thanh tịnh của Như Lai tạngchân như, trạng thái tối sơ của “bất sinh bất diệt” hay “sinh tử hòa hiệp” là thức A Lê Da (tân dịchA Lại Da thức). Dựa vào thức A Lại Da mà có vô minh, dựa vào căn bản vô minh mà có chi mạt vô minh, tướng trạng của vô minh tức là hoạt động của tâm. luận này lấy sự lưu chuyển của vô minh lập ra thuyết “Tam tế lục thô”. Gọi là Tam tế lục thô là vì nó bao qút trình tự hoạt động của chín thứ tâm thuộc sinh diệt môn, gọi là “cửu tướng”, cửu tướng này nội dung của nó hàm nhiếp mười hai duyên khởi, đây cũng là cách giải thích mới lạ đặc biệt về mười hai duyên khởi. Mười hai duyên khởi chẳng qua là ngoại tại, là nói rõ thân này lưu chuyển theo trình tự thuận. Cửu tướng của luận này là chuyên về nội bộ, là nói rõ trình tự luận của nhất tâmbiến hóahành trạng ra làm sao. Còn về khai triển theo thứ lớp của tâm thức chúng sinh mà nói, thì phân thành: tâm, ý, ý thức. Nói về hoặc chướng của tâm chúng sinh, thì lại phân ra vô minhnhiễm tâm.

Tóm lại, chỗ cường điệu của luận này là nhất tâm. “Tâm” này đem sánh với “Thức” của nhà Duy thức lại khiên cưỡng hơn, vì cho rằng “mê ngộ bất ly nhất tâm” (mê ngộ không lìa một tâm), và Ðại thừa pháp tức là tâm chúng sinh. Nói cách khác, tin Phật, học Phật, thành Phật, tất cả đều xuất từ đức tin của tâm chúng ta, vào sự học tập của tâm chúng ta, và vào sự thành tựu của chính tự tâm của chúng ta; thế giới hiện tượngchúng ta tiếp xúc là do tự tâm của chúng ta tạo thành, “bản thể giới” của chúng ta cũng do tự tâm của chúng ta khai phát. Vì thế, về mặt triết học, Luận Ðại Thừa Khởi Tín thuộc duy tâm luận tuyệt đối.

Kinh Hoa Nghiêm khai mở tịnh tâm duyên khởi, được ví như là hoa, Luận Ðại Thừa Khởi Tín sau cùng kết thành, được coi là quả; truyền thống Phật giáo của Trung Quốc dựa vào đó tạo cho mình một lối đi riêng, cho nên không lấy gì lạ khi biết Luận Ðại Thừa Khởi Tín đối với Phật giáo Tung Quốc là vô cùng quan yếu.

- Hai hệ phái lớn.

Hệ phái Long Thọ sau trở thành phái Trung Quán, đến thời của Phật Hộ, Thanh Biện mới phân làm ba dòng lớn và chia thành hai phái. Cơ hồ cũng trong cùng thời đại, phái Du Già sau Thế Thân cũng phân thành hệ vô tướng Duy thức của An Huệ, và hệ hữu tướng Duy Thức của Trần Na. Tình hình này đại loại như biểu đồ sau (trong biểu đồ này có thêm niên đại của các luận sư, và đều dùng tây lịch, đồng thời đấy cũng là đại thể chứ không hẳn là xác định):

 

blank

 

Từ sau Thế Thân, là những vị viết giải thích cho “Duy Thức Tam Thập Tụng”, những vị này thường được xưng tụng là “Thập đại luận sư”. Và giữa họ lại tạo ra cuộc tranh luận hữu - không với phái Trung quán, nhân đấy mới có chuyện người này hoặc nhóm này là của hệ người này hoặc của hệ nhóm này, Ðại thừa Phật giáo ở thời văn kỳ, xuất hiện cảnh tượng có cả trăm luận sư tranh luận nhau rất “ồn ào”.

Hệ vô tướng Du thức của An Huệ kéo dài đến Ðiều Phục Thiên, gây ảnh hưởng đến Sư Tử Hiền thuộc phái Trung Quán Kinh Lượng; trong khi đó hệ Hữu tướng Duy Thức của Trần Na kéo dài đến thời Giới Hiền, gây ảnh hưởng đến Tịch Hộ thuộc phái Du Già Trung Quán Tự Lập. Chung cuộc cả hai dòng không, hữu đều bị Mật giáo nhiếp thọ, và tự đánh mất lập trường nguyên ủy của mình; việc này xảy ra vào thế kỷ thứ VII thứ VIII tây lịch.

Ðược xưng tụngThập đại luận sư, theo cuốn “Duy Thức Sử Quan Cập Kỳ Triết Học” của pháp sư Pháp Chiên, thiên thứ nhất, chương năm, tiết bốn có giới thiệu mười một vị luận sư sau Thế Thân đó là: Trần na, Ðức Huệ, An Huệ, Hộ Pháp, Nan Ðà, Tịnh Nguyệt, Thân Thắng, Hỏa Biện, Thắng hữu, Tối Thắng TửTrí Nguyệt. Trong đó ngoài Trần Na, số còn lại thường được xưng tụng là Thập Ðại Luận Sư là những vị viết giải thích cho Duy Thức Tam Thập Luận.

Những vị vừa nêu trên, thì Trần Na, An HuệÐức Huệđệ tử của Thế Thân (có người cho rằng Ðức Huệ sau thuộc hệ An Huệ). Nan Ðà sau cùng thuộc hệ Thế Thân. Ông là người đề xướng thuyết tân huân chủng tử, khác với thuyết bản hữu chủng tử của người xưa, và Nan Ðà cũng tự mình lập một phái riêng, còn Thân ThắngHỏa Biện là người cùng với thế Thân. Hỏa Biện là một cư sĩ tại gia, Thắng Hữu, Tối Thẳng Tử, và Nguyệt Trí đều là đệ tử hộ pháp, đại bộ phận những vị trên xuất hiện từ năm 561 đến năm 634 tây lịch.

- Trần Na.

Trần Na (Dignàga - Ðại Vức Long) người nam Ấn Ðộ, buổi đầu ông xuất gia với Ðộc Tử Bộ thuộc Tiểu thừa, về sau ông theo Thế Thân học Duy thứcNhân minh, những trước tác của ông gồm có:

Tập Lượng Luận, Quán Sở Duyên Duyên Luận, Chướng Trung Luận, Nhập Du Già Kinh, Cu Xá Luận Chú Yếu Nghĩa Ðăng, Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận v.v...

Về Duy thức học, trong bộ “Quán Sở Duyên Luận” ông thành lập nghĩa về căn trần Duy thức, còn trong bộ “Tập Lượng Luận”, ông thành lập nghĩa của tâm thể với ba phần là: Tướng phần, Kiến phầnTự chứng phần. Thuyết về tâm thể ba phần của ông tạo ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với hậu nhân. Người dời thường gọi “An, Nan, Trần, Hộ, là một, hai, ba, bốn”, tựu trung là ca tung bốn vị luận sư về quan điểm phân tích của họ đối với tâm thể. An Huệ chủ trương Thuyết nhất phần - đó là Tự chứng phần, Nan Ðà chủ trương thuyết nhị phần - đó là Tướng phầnKiến phần, Hộ Pháp chủ trương thuyết tứ phần, đó là Tướng phần, Kiến phần, Tự chứng phầnChứng tự chứng phần.

Trần Na, là người thành tựu về môn học Nhân Minh, còn về Duy thức học, ông viết trong các bộ Tập Lượng Luận, (bản dịch của Tây Tạng) và Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận, ông cải cách cựu Nhân Minh của Ấn Ðộ, và tập đại thành môn luận lý học cho Ấn Ðộ đương thời. Quan trọng hơn, bộ Tập Lượng Luận của ông không chỉ có giá trị cực lớn đối với Phật giáo, mà còn có địa vị cực cao về mặt triết học sử của Ấn Ðộ.

Nhân Minh, trước hết nó là tên gọi được dùng để chỉ phương pháp biện luận, phương pháp này xuất hiện đầu tiên trong Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Lại nữa, gốc gác của môn học này được phái Thắng Luận ngoại đạo và phái Ni Dạ Da (Chánh Lý) sử dụng để “cứu lý trước danh” (nghiên cứu lý luận qua cách dùng danh ngôn). Truyền thuyết kể rằng Túc Mục của phái Ni Dạ Da là người sáng tạo môn học này. Kinh Chánh Lý của phái Ni Dạ Da, trong đó thiết lập mười hai cú nghĩa như ”lượng” v.v... và xuất hiện vào thế kỷ thứ II, thứ III tây lịch.

Phương pháp luận của Phật giáo, ngày lúc khởi đầu đã sử dụng đến ý nghĩa “lượng” của phái ni Dạ Da còn gọi là phái Chánh Lý. Sau đó lược bỏ hoặc cải sửa thêm. Ðến thời đại của vương triều Cấp Ða, hằng trăm nhà nổi lên tranh luận về lý nghĩa “trường đoản đắc thất”. Ai không khéo dùng kỹ thuật luận lý một cách hợp lýlinh hoạt thì khó có thể thù thắng. Vì vậy, các vị luận sư Phật giáo, ít ai lại không nghiên cứu sâu sát về phương pháp luận lý này. Hễ ai đứng vững giữa luận trường, người đó trở thành “nhất gia”, và được gọi là Nhân Minh. Ðối với Nhân Minh học, ngài Thế Thânsáng tác: luận quỹ, luận thức và luận tâm, tiếc là các sách này hiện không thấy lưu truyền.

Trong các trước thuật của Trần Na đều có liên quan đến Nhân Minh, kể có đến tám bộ luận, nhưng bộ Nhân Minh Chánh Lý Môn Luậnbộ Tập Lượng Luậnnổi tiếng hơn cả. Bộ trước thì “lập phá chân thực”, lấy việc sử dụng luận thức chính xác để làm sáng tỏ vấn đề. Bộ sau thì “thích thánh lượng nghĩa”, tức sử dụng tri thức chính xác để làm tỏ vấn đề. Bộ sau thì “thích thánh lượng nghĩa”, tức sử dụng tri thức chính xác để soi xét mọi nghĩa lý. Một bên thiên về “ngộ tha”, một bên nghiêng về “tự ngộ”. Luận thức của Trần Na lấy tông và chi mà cả luận chủ và địch luận cũng tranh luận làm “sở thành lập”, lấy “nhân dụ” mà luận chủ và luận địch đều công nhận làm “năng thành lập”. “Nhân” là đặt nền tảng trên chí Cú nhân để lập ba tướng. Tam tướng ở đây là ba chi tác pháp của tân nhân minh, gọi là Tam tướng đó là:

1. Biến thị tông pháp tánh.

2. Ðồng phẩm địch hữu tánh.

3. Dị phẩm biến vô tánh.

“Dụ” là một phần của tam tướng nhân, tức ở hai tướng là “đồng phẩm” và “dị phẩm” mà đưa ra “đồng dụ” và “dị dụ”, khiến cho tự nó và chính nó hai mặt trái ngược nhau để chứng minh sự chính xác của luận điểm được lập luận.

Nhân Minhmôn học không dễ tiếp thu, người mới học không ai là không tìm đọc cả về hai cách giảng “bát, cửu” trong bộ Tướng Tông Thập Giảng của pháp sư Từ Hàng. Thương yết la Chủ (SÙamïkarasvàmim) là người kế thừa Nhân Minh học của Trần Na. Ông có viết cuốn Nhân Minh học nhập môn với tựa là Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận. Sách này vẫn còn bản Phạn văn, Hán văn và Tạng văn.

Ngoài ra, môn hạ của Thế ThânTrần Na còn có Tam Bảo Tôn, là người viết cuốn Nhất Thiết Như Lai Tạng Tán, Vô Tánh, người sau này của hệ Trần Na viết cuốn Nhiếp Ðại thừa Luận Thích. Tiếp đến là nói về Hộ Pháp.

- Hộ Pháp.

Hộ Pháp (Dharmapàla), đứng về mặt lịch sử của Phật giáo Ðại thừa Ấn Ðộ thời hậu kỳ, thì Hộ pháp là một Tuệ tinh (sao chổi) rực sáng! Ông người nước Ðại La Duy Gia thuộc nam Ấn Ðộ, ông vốn là một vương tử cực kỳ thông tuệ; sau khi xuất gia học Phật ông được người đời xưng tụng là bậc : “học sâu như biển sâu, giảng rõ như mặt trời tỏa sáng, nội giáo thấu triệt cả Ðại - Tiểu thừa, ngôn từ luận nghĩa chân tục đều thông”. Hộ Pháp là người thành danh rất sớm; ông đã từng đảm nhận chức vị trú trì chùa Na Lan Ðà ở trung Ấn Ðộ, năm hai mươi chín tuổi ông lui về ngụ tại Phật Ðà Già Da gần nơi đức Phật thành đạo. Ông tịch tại chùa Ðại Bồ Ðề năm ba mươi tuổi. (Ttheo Duy Thức Thuật Ký thì ông tịch vào năm ba mươi hai tuổi). Với học lý Duy thức, ông xiển dương và phát huy rất tinh tường. Ông viết nhiều tác phẩm như: Ðại Thừa Quảng Bách Luận Thích, Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận, Thành Duy Thức Luận v.v... Thành Duy Thức Luận là bộ sách giải thích Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân. Bản Hán dịch luận Thành Duy Thức của Huyền Trangy cứ vào bộ luận này, đồng thời Huyền Trang cũng có thêm sự tham khảo từ chín đại luận sư còn lại, cũng như có sự lược bỏ ít nhiều.

Hộ Pháp đứng trên lập trường của thế tục đế, và tuyên thuyết “chơn hữu tục không” của Duy thức. Ðiều đó khiến ông trở thành đối lập với “chân không tục hữu” của phái Trung Quán. Theo ông, thì Uẩn, Xứ, Giới của tất cả pháp đều là có, và ông dùng lập trường này để giải thích Duy Thức Tam Thập Tụng. Ðệ tử ông là Giới Hiền, ông này truyền xuống đệ tử người Trung Hoa là Huyền Trang. Ðến đệ tử Huyền TrangKhuy Cơ, thì Duy Thức học tại Tung Quốc trở thành một đại học phái - Duy Thức Pháp Tướng Tông. Vì vậy, về mặt lịch sử của Duy Thức học, địa vị của Hộ Pháp chỉ đứng sau Thế Thân.

- Ðức HuệAn Huệ.

Ðức Huệ (Gunïamati) người nam Ấn Ðộ, có người nói ông là đệ tử của Thế Thân, và lấy An Huệ làm học trò. Ông là người từng hàng phục ngoại đạo Ma Già Ðà, về sau ông đến ngụ tại chùa Na Lan Ðà, và các xứ như Phạt Lạp Tỳ v.v... Những trước tác của ông gồm có: Cu Xá Luận Thích, Tùy Tướng Luận, Duy Thức Tam Thập Luận Thích (sách này hiện không thấy, trong quá khứ Huyền Trang có đọc qua). Trong bộ Nhiếp Ðại Thừa Luận Thích của mình, ông chủ trương bản hữu chủng tử và tân Luận chủng tử hiệp làm một luận, ấy là thuyết “Bản tính trụ chủng’ cùng với “Tập sở thành chủng”.

- An Huệ. Ông người nước La La ở nam Ấn, ông trước tác rất nhiều, trọng yếu hơn cả là các bộ như: Biện Trung Biên Luận Sớ, Duy Thức Tam Thập Tụng Thích, Ngũ Uẩn Luận Thích, Ðại thừa A Tỳ Ðạt Ma Tạp Tập Luận, Ðại Bảo Tích Kinh Luận, Ðại Thừa Trung Quán Luận Thích, Cu Xá Luận Thực Nghĩa Số, v.v... bộ Duy Thức Tam Thập Tụng Thích của ông chưa được dịch ra Hán văn, bản Phạn văn hiện còn, và được vị bác sĩ người Pháp là Ba Lê Liệt Duy hiệu bản. Lập trường của An HuệHộ pháp không giống nhau hoàn toàn, ông lấy thức A Lại Da làm trú xứ cho tất cả chủng tử tạp nhiễm pháp. Tất cả pháp lấy thức A Lại Da làm kho chứa ấy là quả, bản thân thức A Lại Da là nhân của tất cả pháp, do dó ông cho rằng tất cả pháp tức là thức A Lại Da; do thức A Lại Da này, mà sinh khởi Tư Lương Thức và Liễu Cảnh Thức, kết quả lại qui về thức A Lại Da.

Thành Duy Thức Luận Thuyết Ký(10) của Khuy Cơ, khi giới thiệu về An Huệ có đoạn viết: “diệu giải Nhân Minh, khéo đi đến tột điểm “nội luận”, làm sáng cái hay của Tiểu thừa, với Ðại thừa thơm như lan huệ, thần thái chí cao, khó mà nói cho hết” một đời tông tượng đủ thấy ông là người thế nào.

 

(1) Ðại Chánh Tạng-54, cuối trang 205.

(2) Ðại Chánh Tạng-50, giữa trang 188, Bà Tẩu Bàn Ðậu - Vasubandhu - Thế Thân hoặc Thiên Thân.

(3) Long Sơn Chơn Thường-Ấn Ðộ Phật Giáo Sử, dãn từ chương năm.

(4) Chương 4, trong bộ Ấn Ðộ Chi Phật Giáo, của pháp sư Ấn Thuận.

(5) Mộc Thôn Thái Hiền - Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận. Thiên I, chương 5, tiết I.

(6) Thù thắng: (thuật ngữ) vật siêu tuyệt hơn hết ở đời gọi là thù thắng. Từ Ðiển Phật học, xuất bản khoa học xã hội Hà Nội.

(7) Tướng: ở đây là một hình thái tri thức, nhận thức.

(8) Ðại Chánh tạng-50, từ trang 190-191

(9) Ðại Chánh Tạng-31, đầu trang 60.

(10) Ðại Chánh tạng-43, cuối trang 231.

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19831)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20901)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19241)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40502)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21238)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41029)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24081)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23030)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17808)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26910)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20704)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33601)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20967)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28866)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12676)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25249)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19119)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17504)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25739)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18988)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18951)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18889)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33289)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38368)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31218)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18208)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24477)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19434)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17880)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22996)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18003)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32143)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17359)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17416)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16059)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18555)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20753)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18056)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20078)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14857)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20881)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15054)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15747)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12929)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14482)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14893)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29359)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12751)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14503)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant