Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Phật giáo với vương triều Phạt Đàn Na

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9608)
Tiết 2: Phật giáo với vương triều Phạt Đàn Na

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ÐA 
PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT II. PHẬT GIÁO VỚI VƯƠNG TRIỀU PHẠT ÐÀN
NA

Vương thống Giới Mật được thành lập từ một tiểu bang với nhiều cây rừng vào thời hậu kỳ vương triều Cấp Ða thuộc trung Ấn Ðộ; tuy là một bá chủ nhưng tự xưng là quân vương, và cũng từng cử hành lễ Mã tự, lãnh thổ quốc gia thì nhỏ hẹp, chỉ thống lĩnh có hai địa khu là Ma Kiệt Ðà và Mãnh Gia Lạp. Vào thời ấy trong nhiều tiểu bang cùng suy cử Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ (Thaneshvara) thuộc địa khu đông bộ Bàng Giá Phổ, vì khu này cường thịnh hơn. Người khai sáng bang Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ là Phất Sa Phật Ðàn Na (Pashyavardhana) qua bốn lần truyền đến vị tù trưởng thứ năm là Ba La Yết La Phạt Ðàn Na (Prabhakaiavardhana) mới kiến lập nên vương triều Phạt Ðàn Na - tức vương triều Giới Nhật. Ba La Yết La Phạt Ðàn Na có hai người con trai, một có tên là La Xà PHạt Ðàn Na (Rajyavardhana), một có tên là Hạt Lợi Sa Phạt Ðàn na (Harshavardhana). Năm 604 Tây lịch, Ba La Yết Phạt Ðàn Na sai hai người con đem quân chinh phạt Bạch Hung Nô ở vùng đông Ấn, chẳng may người con thứ bị chết trong quân trận. Người con trưởng lên kế vị cha, lại thống suất đại quân đông chinh lần nữa để đánh đuổi Mã Nhĩ Hoa, lại chẳng may bị thổ vương bày ngụy kế vây hãm và giết chết; bèn đưa người con trai của vị vương tử thứ nhất lên tức vị, tuy mới mười sáu tuổi và lấy Khúc Nữ Thành (Kamyakubja - nay là Janauj) làm thủ đô. Vị vua này trong “Ðường Thư” của Trung Quốc gọi là vua Giới Nhật (năm 606-647 tây lịch). Vua Giới Nhật là người mà Huyền Trang gặp được lúc ông lưu học tại Ấn Ðộ.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương vĩ đại cuối cùng của lịch sử cổ đại Ấn Ðộ, ông mở rộng bản đồ của Ấn Ðộ đến tận Hà Khẩu thuộc Nhã Lỗ Tạng Bố Giang,chạy thẳng đến Già Ðệ Ngõa Nhĩ, bao quát luân Bàng Giá Phổ, Mã Nhĩ Hoa, Khúc Nữ Thành, Tỷ Hiệp, Mãnh Gia Lạp, A Lý Sa, A Tát Mật v.v... biên cương bên ngoài vùng tây bắc; có thể nói ông là người chỉnh đốn, củng cố khắp khu vực tây bắc Ấn Ðộ tức khu vực nằm dưới sự thống trị của ông. Ông không những khuếch trương lãnh thổ Ấn Ðộ bằng võ công, mà ông còn vận dụng đạo đức và học vấn để chiêu cảm các thổ bang tự trị như Cưu Ma La, Ma Kiệt Ðà, Ni Bạc Nhĩ, Khách Thập Mễ Nhĩ, Ba La Tỳ (nay là Cổ Ca Lạp Ðê) v.v... qui thuận về vương triều Giới Nhật.

- Phật giáo với vua Giới Nhật.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương có nhiều tài nghệ. Ông ở ngôi được bốn mươi mốt năm, ông dụng binh trong sáu năm, thời gian còn lại ông tập trung vào chính trị, văn hóatôn giáo. Năm Trinh Quán thứ mười lăm (641) đời vua Ðường Thái Tông, ông giao hảo với vua nhà Ðường của Trung Hoa, năm Trinh Quán thứ mười bảy (643) vua Ðường Thái Tông phái Vương Huyền Sách đi Ấn Ðộ. Chuyến đi này có lập bia ký lưu niệm tại Ma Kiệt Đà. Những tạo tác về văn nghệ của vua Giới Nhật, như đã giới thiệu sơ lược ở chương bảy của sách này.

Về mặt tôn giáo, vua Giới Nhật vốn là tín đồ Ấn Ðộ. Nhưng về sau ông được Huyền Trangđại đức Ðiệt Bà Ca Mạt Ða La (Divakarmitra) thuộc Tiểu thừa giáo cảm hóa, nhân đấy, ông quy tín Phật giáo. Nhờ vậy nên việc Phật giáo thường gặp pháp nạn trước đó, và nay dưới thời ông lại có cơ hội chấn chỉnhphục hưng. Ðối với Phật giáo, công đứcthành tích nổi tiếng của ông có bốn việc sau:

1. Cấm chỉ sát sinh, khen thưởng người ăn chay.

2. Chiếu theo tiền lệ của vua A Dục để hoằng dương chánh pháp, như: kiến tạo tự viện, tạo thạch tháp, xây dựng phòng xá để cúng dường Sa môn, và những nơi dùng vào việc triều lễ thánh tích.

3. Mỗi năm một lần, triệu tập các vị Sa môn từ nhiều nơi vân tập về một trú xứ để cử hành đại hội, mục đíchthảo luận về Phật học, tán dương khen thưởng các bậc hiền giả, răn đe các vị ương ngạnh.

4. Năm năm một lần, cử hành đại hội Vô Giá, đồng thời đem tài vật ra bố thí cho dân chúng.

Tuy là thế, nhưng vua Giới Nhật vẫn giữ thái độ sùng kính đối với Ấn Ðộ giáo. Ðại đường Tây Vực ký của Huyền Trang có đoạn chép: “Tại đại hội Bát La Da Ca (Prayàga), ngày thứ hai vua lễ tượng thần Thái Dương, ngày thứ ba vua lễ tượng thần “Thấp Bà”. Thể đủ thấy tinh thần khoan hòa của vua Giới Nhật.

- Sự vinh quang của Tam tạng Huyền Trang trên đất Ấn.

Năm Trinh Quán thứ ba (629), đời vua Ðường Thái Tông, sư Huyền Trang lên đường tây du sang Ấn Ðộ. Lưu học Phật pháp tại Ấn Ðộ mười bảy năm, sau đó mới về nước. Trong thời gian lưu học tại Ấn Ðộ, Huyền Trang thọ học Du Già Duy Thức, với sư Giới Hiền, theo ngài Như Lai Mạt, ngài Sư Tử Nhẫn v.v... để tập học Nhân Minh, Thanh Minh; và hướng về ngài Thắng quân để cho Duy Thức Quyết Trạch luận. Ông trở lại chùa Na Lan Ðà và phụng mệnh ngài Giới Hiền giảng bộ Nhiếp Ðại Thừa Luận và bộ Duy Thức Quyết Trạch Luận. Ông lĩnh hội và quán thông tông nghĩa của cả Trung QuánDu Già. Ông trước tác bộ Hội Tông Luận với ba nghìn bài tụng, bấy giờ ông dùng luận này để giải đáp những gì ông giảng về Trung Quán luậnBách Pháp Luận tại chùa Na Lan Ðà; đồng thời ông cũng dùng Hội Tông Luận để bác bỏ giáo nghĩa Du Già của Sư Tử Quang. Nhân đấy, danh tiếng của ông được đại chấn (vang dội).

Sau ông cùng với Hải Huệ, Trí Quang, Sư Tử Quang v.v... bốn vị Ðại đức đến yết kiến vua Giới Nhật theo lời thỉnh mời của quốc vương. Tại Cung vua, Huyền Trang bị luận sư Tiểu thừa chế tác bảy trăm bài tụng để phá giáo nghĩa Ðại thừa, Huyền Trang đích thân chế tác một nghìn sáu trăm bài tụng với tựa đề là “Chế Ác Kiến Luận” để phá đổ giáo nghĩa của sư Tiểu thừa. Nhờ đó, danh tiếng của Huyền Trang càng lừng lẫy thêm.

Mùa đông, năm Trính Quán mười sáu (642), vua Giới Nhật mở đại hội tại Khúc Nữ Thành, tại đại hộinày có mowif tám vị quốc vương cùng phó hội, với hơn ba nghìn tăng nhân cả Ðại và Tiểu thừa tham dự, chùa Na Lan Ðà cử hơn một nghìn tăng nhân đến dự, và có hơn hai nghìn tín đồ Kỳ Na Giáo cũng đến dự. Sư Huyền Trang được mời làm Luận Chủ của đại hội. Tại đại hội, Huyền Trang dùng bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” do ông sáng tác để xưng dương Ðại thừa, và tuyên thị giữa đại chúng phó hội rằng: Nếu ai tìm thấy một chữ nào vô nghĩa lý trong bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” nhân đó có thể phá được luận chủ, thì ông xin lấy đầu mình để tạ tội. Qua mười tám ngày đại hội, không thấy ai đưa ra luận nghĩa nào để kích phá lại Huyền Trang. Do đó, không có gì lạ, thịnh danh của Huyền Trang mãi đến ngày nay các học giả Phật giáo Ấn Ðộ vẫn còn sùng kính.

- Pháp nạn tại Ấn Ðộ.

Khi phụ vương của vua Giới Nhật là Ba La Yết La Phạt Ðàn Na còn trị vì, thì tại đông Ấn Ðộ có vị Thổ bang của nước Kim - Nhĩ ngày thêm cường thịnh, đó là quốc vương Thiết Thưởng Ca (Nguyệt), và ông dùng vũ lực để lấn chiếm phía tây Ấn Ðộ. Nơi nào ông đến, ông cũng hủy diệt Phật giáo. Như phá chùa, chôn sống tăng nhân, triệt phá cây Bồ Ðề nơi đức Phật thành đạo (Phật Ðà Ca Da). Chùa chiền và tăng chúng tại nơi đức Phật nhập Niết bàn. Câu thi Na La cũng đều bị thiêu hủy và tàn diệt. Có thuyết nói, thầy của Huyền Trangđại luận sư Giới Hiền cũng bị ông vua này bắt và dọa chôn sống, nhưng sư Giới Hiền là một trong những người đào thoát được pháp nạn này.

Giáo nạn xảy ra khắp nơi tận hai bên bờ sông Hằng. Khiến Phật pháp một thời bị suy đốn. Nếu không có việc vua Giới Nhật qui y Phật giáo, có khả năng huệ mạng Phật pháp nhân pháp nạn này mà tuyệt chủng chăng!

Vua Giới Nhật hướng về Bồ tát Quán Tự Tạicầu nguyện, và chỉ một lần xuất quân ông đánh thắng vua Thiết Thường Ca. Tiếc là vua Giới Nhật không có con nối nghiệp nên sau khi vua băng hà, vương triều Giới Nhật cũng theo đó mà lâm vào thời kỳ suy vong. Vua Giới Nhật duy nhất chỉ có một người con gái, và gả về cho vua Ấn Nhật của Bang Ba La Tỳ ở phương nam.

Sau khi vua Giới Nhật băng hà, các tiểu bang nổi lên tự tuyên bố độc lập, có nhiều tiểu bang không thừa nhận người kế vị do vua Giới Nhật tuyển chọn. Bấy giờ có vị đại thần của vua Giới Nhật tên là Khiếu Hữu Tu nghĩ rằng, ông là người kế vị vua Giới Nhật, nhưng ông kháng cự không tiếp sứ thần nhà Ðường là Vương Huyền Sách. Do đó, ông bị Vương Huyền Sách mượn vũ lực của Tây Tạng vây bắt, và tống ông và tù ở tận Trung Hoa.

Sau thời vua Giới Nhật, Bà La Môn giáo xuất hiện hai vị học giả kiệt xuất, một vị tên là Cưu Ma Lợi Bà Ða (Kumari Bhatta), vị kia tên là Thương Yết La A Xà Lê (Shankaracharya), ông này thuộc phái Phệ Ðàn Ða, cả hai đều ra đời trong cùng một thế kỷ 650-750 tây lịch. Cả hai ra sức khôi phục lại địa vị được tôn sùng cao nhất của kinh Vệ Ðà như buổi ban đầu của nó đã có, việc làm của họ vô tình công kích lại Phật giáo.

Tác phẩm vĩ đại của Cưu Ma Lợi Bà Ða là bộ “Vệ Ðà Chân Nghĩa Bình Luận”. Nhờ bộ luận thư này mà triết học Bà La Môn giáo được đại thành, nét đặc sắc của Phật giáo cũng nhân đấy mà bị tiêu tiêu thất; Kumaril Bhatta vân du trên toàn cõi Ấn Ðộ, ông là người biện tài vô ngại, rộng truyền học thuyết của mình và công kích Phật giáo. Ông là người bắc Ấn Ðộ, có thuyết nói ông thuộc phái nam Ấn khi phái này thịnh hành. Bấy giờ trong hàng đệ tử Phật không ai có thể nghị luận thắng được ông; trong khi đó phương thức giảng học của chùa Na Lan Ðà cứ một mực công khai, nhưng đến thời này không còn đủ sức để hàng phục ngoại đạo, mà chỉ cải đổi việc giảng học trong nội tự mà thôi.

Riêng về học giả Thương Yết La A Xà Lê, ông tuy là người nam Ấn Ðộ, nhưng trên lĩnh vực tôn giáotriết học ông được giới sử học Ấn Ðộ coi ông như là kết tinh của tư tưởng nhân loại; ông rộng truyền giáo nghĩa Vệ Ðà khắp các vùng đông, tây, nam và bắc Ấn Ðộ. Ông kiến lập năm trung tâm truyền đạo. Về phương diện tinh thần, ông được coi như là người thống trị toàn Ấn.

Truyền thuyết kể là bấy giờ ông đến địa phương Phiên Ca La, thách thức mở cuộc luận biện với tăng nhân Phật giáo,và trong số những vị luận sư dùng giáo lý Phật giáo để luận tranh với ông không ai có thể thủ thắng, vì thế nên có đến hai mươi lăm đạo tràng bị hủy bỏ, và hơn năm trăm vị Tỳ kheo bị bức hại phải cải đạo; tại địa phương ông Âu Ðề Tỳ Xá ở đông Ấn Ðộ tình hình Phật giáo tại đây cũng chẳng có gì khá hơn.

Người có năng lực hoằng đạo, chẳng phải đạo hoằng nhân. Người có người ưu người liệt, pháp vận có lúc thịnh lúc suy, tất cả đều có quan hệ cực lớn đến thực tại.


TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34361)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16872)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22971)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13052)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21967)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22187)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23584)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24109)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23641)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17145)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19362)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27071)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13844)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22693)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12680)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13870)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14708)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17200)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12710)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10364)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10703)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16881)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15772)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13343)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12556)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11360)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13030)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19312)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28610)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10052)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21526)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12795)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17826)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26236)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11707)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10853)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22749)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12038)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11411)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11527)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant