Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Anh hùng ca

05 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11490)
3. Anh hùng ca

LỊCH SỬ VĂN MINH ẤN ĐỘ 

Tác giả: Will Durant - Nguyễn Hiến Lê dịch

CHƯƠNG VII

VĂN HỌC ẤN ĐỘ

III. ANH HÙNG CA

Anh hùng trường ca Mahabharata – Lịch sử bộ đó – Hình thức – Trường ca Bhagavad-Gita – Siêu hình học về chiến tranh – Cái giá của tự do – Trường ca Ramayana – Lâm tuyền tình ca – Vụ cướp nàng Sita – So sánh anh hùng ca Ấn Độanh hùng ca Hi Lạp.

Ngoài các trường làng và trường Đại học ra, Ấn Độ còn dùng những phương tiện khác để giáo dục quần chúng. Vì chữ viết ở xứ đó không được coi trọng như các nền văn minh khác, cho nên sự truyền khẩuphương tiện chính để bảo tồntruyền bá lịch sử cùng di sản văn học của dân tộc; nhờ cách kể truyện, ngâm vịnh trước công chúng mà phần di sản tinh thần quí báu nhất của họ được truyền bá trong dân gian. Hồi xưa ở Hi Lạp có những người kể chuyện vô danh truyền bá các truyện IliadeOdysée; ở Ấn Độ cũng vậy, có hạng người chuyên kể truyện-dạo đi khắp nơi, từ cung đình tới làng xóm hẻo lánh, kể những anh hùng ca cứ mỗi thời một dài thêm, một lớn ra mà trong đó các người Bà La Môn đem chất vào cả cái kho tàng truyền thuyết dân gian[18].

Một học giả Ấn bảo rằng anh hùng ca Mahabharata là “tác phẩm tưởng tượng vĩ đại nhất của châu Á” và ông Charles Eliot cũng khen “bộ đó là một trường ca hay hơn Iliade”[19]. Về một khía cạnh nào đó lời phê phán đó đúng. Hồi đầu (khoảng 300 trước Công nguyên), Mahabharata chỉ là một bài ca trung bình có tính cách tự sự, rồi lần lần mỗi thế kỉ tăng thêm nhiều chi tiết mới, nhiều đoạn nghị luận thu hút trường ca Bhagavad-Gita và cả một phần truyện Rama (một trong những hậu thân của thần Vichnou), rốt cuộc ngày nay nó dài tới 107.000 đoạn[20] gồm những câu thơ tám cước, nghĩa là dài gấp bảy lần cả hai bộ IliadeOdysée gom lại. Các tác giả của bộ đó nhiều vô kể: truyền thuyết cho rằng “Vyasa” là tác giả, mà tên đó có nghĩa là người sưu tập. Cả trăm thi sĩ đã góp công viết, cả ngàn người đã góp sức sửa chữa, tô chuốt, rồi tới triều đại các vua Gupta (khoảng 400 sau Công nguyên), các Bà La Môn lại đưa thêm những ý về tôn giáo và luân lí của họ vô trường ca đó mà kì thuỷ nguồn cảm hứng rõ ràng là của tập cấp chiến sĩ, thành thử tạo cho nó cái kích thước khổng lồ như ngày nay.

Đầu đề chính có vẻ không hợp cho việc dạy giáo lí vì vốn là một truyện bao động, cờ bạc, chiến tranh. Ngay từ cuốn đầu, ta thấy xuất hiện nàng Shakunlata kiều diễm (sau nàng thành nhân vật chính trong bi kịch nổi danh đó của Ấn) và người con trai anh dũng của nàng tên là Bharata. Bharata là thuỷ tổ của các đại bộ lạc Bharata (do đó mà trường ca có tên là Mahabharata)[21], Kuru và Pandava mà những cuộc chiến đấu đổ máu là mối dây liên lạc – đôi khi đứt rồi nối – cho toàn truyện. Yudhishthira, vua bộ lạc Pandava đặt cả của cải, đạo quân, giang sơn, anh em, sau cùng là hoàng hậu Draupadi vào một canh bạc với vua bộ lạc Kuru; vua Kuru dùng những con thò lò gian lận nên thắng, và theo lời giao hẹn, bộ lạc Pandava phải bị đày ra khỏi tổ quốc mười hai năm, rồi sẽ được trở về làm chủ giang sơn như cũ. Hết hạn, bộ lạc Pandava nhắc bộ lạc Kuru giữ lời hứa, bộ lạc Kuru làm thinh, thế là hai bên choảng nhau. Bên nào cũng kiếm đồng minh, thành thử gần hết Bắc Ấn lâm vào cảnh binh đao[22]. Trong 18 ngày – kể trong năm cuốn – họ chém giết nhau như điên; cả bộ lạc Kuru bị giết hết, và bộ lạc Pandava chỉ còn sống sót được một số ít, vị anh hùng Bhishma một mình giết 100.000 người trong mười ngày; theo thi sĩ chép lại truyện đó thì tổng số người bị giết lên tới mấy trăm triệu. Giữa cảnh đổ máu đó, hoàng hậu Gandhari, vợ của vua Kuru đui tên là Dhrista-rashtra, gào thét kinh khủng khi thấy những con kên kên rỉa thây con trai bà, hoàng tử Duryodhan.

Rất mực tiết hạnh, nhân từ, thực là một hoàng hậu và một người vợ hoàn toàn,

Bà Gandhari đứng uy nghi, trên một chiến trường

Đầy những sọ tóc dính bết, những tay chân rời thân thể.

Mà đất thì đen lại vì thấm máu…

Trên cảnh tàn sát đó, vang lên tiếng tru kéo dài của những con chó rừng chuyên ăn thây ma,

Tiếng vỗ cánh rùng rợn của bầy quạ đen và kên kên.

Không khí đầy những con Pishacha[23] tục tĩu uống máu,

Và những con Raksha đói xé thây các chiến sĩ ra từng khúc,

Người ta dắt vị lão vương qua cảnh chém giết, chết chóc đó;

Các phụ nữ bộ lạc Kuru run rẩy đi giữa đám thây ma nhiều vô kể.

Và một tiếng rú thống khổ vang trên cánh đồng mênh mông,

Khi họ tìm thấy thây của con, của cha, của chồng họ,

Khi họ thấy bầy chó sói trong rừng ăn thịt các chiến sĩ,

Y như những kẻ lang thang ăn đêm, rình mò dưới ánh sáng ban ngày.

Họ khóc lóc rên rỉ vang cả chiến trường u ám.

Chân yếu ớt của họ lảo đảo, họ té xuống đất,

Đau khổ quá, họ không nghĩ gì tới sống nữa,

Họ ngất đi, tưởng như chết rồi, và cánh đồng yên lặng được một chút

Rồi một tiếng thở dài não nuột như xé ruột bà Gandhari,

Liếc mắt thấy các công chúa lo lắng, rầu rĩ, bà thưa với thần Krishna[24]:

“Ngài nhìn các con gái đau khổ của tôi này, quả phụ của dòng họ Kuru,

Chúng khóc người thân của chúng này, như chim ưng mái khóc chim ưng trống.

Coi những nét mặt hãi hùng của chúng, thấy lòng yêu chồng, con của chúng ra sao.

Coi chúng lang thang hoài giữa đám chiến sĩ tử trận kìa:

Mẹ thì ghì thây con trai như thản nhiên ngủ say,

Vợ thì cúi xuống khóc chồng, lệ tuôn không ngớt…”

Hoàng hậu Gandhari đương rầu rĩ thưa với thần Krishna như vậy,

Thì mắt bà ngơ ngác tìm thấy thây con trai của bà là Duryodhan,

Bà bỗng thống khổ vô cùng, mê man, không còn biết gì nữa,

Như một gốc cây bị cơn dông bứng gốc, bà té bất tỉnh trên đất.

Khi hồi tỉnh, bà lại đau xót ngó chỗ

Con trai bà, thân thể đầy máu, ngủ dưới vòm trời.

Rồi bà ôm lấy Duryodhan, ghì chặt vào lòng,

Mà nức nở khóc, ngực phập phồng, toàn thân run rẩy,

Lệ bà trào ra như mưa hè, ướt đẫm cái đầu cao quí của con trai,

Cái đầu còn đeo một tràng hoa chưa héo, tràng hoa niska đỏ rực.

“Khi con trai quí của tôi sắp ra trận, nó còn bảo tôi:

Khi con bước lên chiến xa, má chúc con vui vẻ khải hoàn nhé.

Tôi bảo con trai quí của tôi, Duryodhan: Trời phù hộ cho con bình an.

Yato dharma stato jayah – tài giỏi là phải thắng.

Thế là nó hăng hái ra trận, sự dũng cảm của nó đã chuộc hết tội lỗi của nó.

Bây giờ nó ở thiên cung cùng với các chiến sĩ một lòng với tổ quốc.

Tôi không khóc Duryodhan nữa, nó đã chiến đấu và chết vinh dự như một quốc vương,

Nhưng ai thấu được nỗi đau lòng của chồng tôi ra sao?...

Nghe kìa, tiếng tru rùng rợn của chó rừng ăn thây ma; coi kìa bầy chó sói rình mồi.

Trước kia, những thiếu nữ giàu sang, giọng hát du dương, canh cho con trai tôi ngủ.

Nghe kìa, bầy kên kên ghê tởm mỏ đầy máu, vỗ cánh trên các thây ma.

Những thiếu nữ phe phẩy cái quạt bằng lông pankha chung quanh ngự sàng của Duryodhan…

Coi kìa, quả phụ quí phái, cao thượng của Duryodhan có vẻ hãnh diện về con trai là Lakshman.

Hoàng hậu trẻ và đẹp đó, như một bàn thờ bằng vàng ròng,

Bây giờ không còn được chồng ôm ấp, được con trai quàng cổ nữa,

Đương tuổi xuân đẹp đẽ như vậy mà phải sống một đời đau khổ, tàn tạ.

Lòng sắt đá của tôi đã bị nỗi thống khổ đè nặng, thấy cảnh nó mà làm sao không nát ngấu.

Số kiếp của Gandhari này là phải sống để trông thấy con trai và cháu nội cùng bị chém giết một lúc ư?

Vậy bây giờ đây, nhìn quả phụ Duryodhan kìa, nó ôm trong bàn tay cái đầu đầy máu của chồng.

Coi nó âu yếm nhẹ nhàng đặt đầu chồng xuống kìa,

Hết ngó chồng nó lại quay đầu nhìn con trai cưng,

Nó nghẹn ngào nức nở, nước mắt trào ra

Coi nó y như một đọt sen vàng kìa.

Ôi đoá sen của tôi, con gái của tôi, niềm vui vinh dự cho dòng Bharat và dòng Kuru!

Nếu lời tụng các kinh Veda mà đúng thì Duryodhan dũng cảm bây giờ hiện ở trên thiên cung;

Thế thì sao ta còn đau khổ làm chi vì mất tình yêu thương của nó,

Nếu lời trong Shastra mà đúng thì con trai tôi, con trai anh dũng của tôi bây giờ ở trên thiên cung.

mãn kiếp trần của nó rồi thì ta còn đau khổ, rầu rĩ làm chi nữa?”.

Chỉ có một đề tài ái tình và chiến tranh đó mà tác giả đã miêu tả, thêu dệt cả ngàn cách. Thần Krishna làm ngưng cuộc chém giết để thuyết về tính cách cao quí của chiến tranh và sự cao quí của chính ngài; khi sắp tắt thở, vị anh hùng Brishma cũng rán kéo dài thêm đời sống để tỉ mỉ giảng giải về luật lệ của tập cấp, luật kế thừa, về hôn nhân, phép tặng dữ, về tang lễ, về triết thuyết Shankhya, về các Upanishad, kể một loạt huyền thoại, truyện hoang đường, truyền thuyếtdiễn thuyết một hồi về bổn phận của các ông vua. Giữa những đoạn mà tình tiết hoàn toàntính cách bi tráng, lời tươi đẹp như những ốc đảo, xen vào những đoạn dài khô khan, bụi lầm như sa mạc, trong đó tác giả chép phổ hệ các vua chúa, tả về địa lý, biện luận về thần họcsiêu hình học. Trong trường ca Mahabharata có đủ hết: ngụ ngôn, truyện thần tiên, truyện tình, đời sống các vị thánh, và tất cả bộ thơ trường thiên vĩ đại đó thành một mớ hỗn độn kém xa IliadeOdyssée về phương diện hình thức, nhưng tư tưởng thì có phần phong phú hơn. Mới đầu chỉ là một trường ca tả sự hoạt động, lòng anh dũng, cảnh chiến tranh, nguồn hứng của tập cấp Kshatriya (chiến sĩ), rồi sau các tu sĩ Bà La Môn lợi dụng nó để giảng cho dân chúng luật Manou, các qui tắc yoga, các phép tắc luân lí, và các cái đẹp của cảnh Niết Bàn. Hoàng kim qui tắc được lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức[25]; có vô số cách ngôn về sự minh triết[26]; lại có những truyện ngụ ý khuyên răn đạo làm vợ, phải trung tín, kiên nhẫn với chồng (Nala và Damayanti, Savitri), đúng với quan niệm của các phái Bà La Môn.

Trường thi triết lí vĩ đại của nhân loạiBhagavad-Gita (Bác Già – Phạn khúc), tức thánh ca của Thượng Đế, cũng đem xen vô giữa cuộc giao chiến. Nó là bộ Tân Ước của Ấn Độ, được trọng gần ngang với các kinh Veda, được dùng tại các toà án để các chứng nhân đặt tay lên nó trước khi thề, cũng như Thánh kinh ở các xứ Anglo-saxon và kinh Coran ở các xứ Hồi giáo. Guilliaume de Humboldt bảo nó là “thiên trường thi đẹp nhất, có lẽ duy nhất trong lịch sử các nền văn học… tác phẩm thâm thuý nhất, cao thượng nhất mà nhân loại có thể sáng tác được”. Ấn Độ ít chú trọng đến cá nhân, người viết không cần kí tên mà người đọc cũng chẳng muốn biết tác giả là ai, nên ngày nay bộ đó không mang tên tác giả, cũng không ghi sáng tác năm nào, có thể là 400 trước Công nguyên, mà cũng có thể là 200 sau Công nguyên.

Thi phẩm tả cuộc đại xung đột giữa bộ lạc Kuru và bộ lạc Pandava, một chiến sĩ Pandava tên là Arjuna không chịu chiến đấu vì phía địch có một số thân thích của mình. Thần Krishna, cũng như một thần của Homère, tham chiến ở bên cạnh Arjuna; Arjuna thưa với Krishna, lời lẽ y như của thánh Gandhi hoặc chúa Ki Tô:

Khi tôi thấy ở phía kia đám bà con tôi

Lại đây để hai bên cùng đổ máu với nhau,

Thì tay chân tôi rã rời, lưỡi tôi khô lại trong miệng…

Điều đó không nên, ôi Keshav! Tốt sao được,

Khi chém giết lẫn nhau như vầy! Tôi ghét

Sự thắng lợi, sự thống trị, ghét cảnh phú quí

Đoạt được bằng cách đó! Hỡi ơi, thắng lợi nào

Mà vui cho được, hỡi Govinda, làm sao có thể hưởng

Những chiến lợi phẩm đoạt được bằng cách đó; quyền hành làm sao bù lại cho được.

Đời sống còn vui thú gì khi phải trả giá bằng máu của người thân?...

Vì ham quyền hành

Mà chém giết bà con, bạn bè như vậy,

Ôi Ahovat! Còn tội lỗi nào bằng!

Nếu bà con tôi muốn đâm tôi

Thì thà tôi tay không, phanh ngực ra

Để nhận mũi tên lưỡi kiếm của họ, chứ không muốn đâm chém trả lại họ.

Krishna mặc dầuthần linh mà cũng khoái chiến đấu, nghe vậy, bèn lấy tư cách uy nghiêm của hậu thân Vichnou, đáp rằng theo các Kinh Thánh và theo ý kiến những người có uy tín nhất thì giết bà con mình trên chiến trường là điều rất công bằng; rằng bổn phận của Ajuna là phải tuân theo luật lệ tập cấp Kshatriya của mình, phải chiến đấu, chém giết không gớm máu, không chút ân hận trong lòng; vả lại xét cho cùng, có chém giết thì chỉ cái thể xác là chết thôi, chứ linh hồn vẫn còn kia mà. Thế rồi thần Krishna giảng giải thuyết Purusha (tinh thần) thâm thuý của triết hệ Sankhya, thuyết Atman (linh hồn vũ trụ) bất diệt trong các Upanishad.

Bất diệt,

Sự sống bất diệt, nhớ đấy, sự sống gieo rắc sự sống ra khắp chốn;

Không ở một nơi nào trong vũ trụ, không có cách nào

Giảm nó được, bắt nó ngừng lại, hoặc thay đổi được.

Còn những hình thức phù du nhất thời trong đó nó thổi vào

Một tinh thần bất diệt, vô tận và bất khả tận kia.

Những hình thức đó phải huỷ diệt. Thì cứ để cho chúng huỷ diệt đi, và nhà vua chiến đấu đi!

Kẻ nào bảo: “Than ôi! Tôi đã giết một người!”

Kẻ nào nghĩ bụng: “Hỡi ơi! Người ta đã giết tôi!”, những kẻ đó

Đều ngu xuẩn cả. Sự sống không thể huỷ diệt được. Sự sống không bao giờ chết!

Tinh thần không bao giờ sinh ra; nó không bao giờ không còn.

Không có cái thời xưa nào mà nó không có: Chung và Thuỷ (Khởi đầu và Tận cùng) toàn là ảo tưởng cả!

Tinh thần còn hoài, nó không sanh ra, nó không thể chết, không thể biến đổi;

Mặc dầu cái thể xác như ngôi nhà của nó có vẻ chết đi, nhưng nó thì không khi nào chết.

Krishna lại dạy siêu hình học cho Arjuna nữa, tổng hợp hai triết thuyết SankhyaVedanta, đúng theo chủ trương của phái Vaishnavite thờ thần Vichnou. Ngài tự cho mình là Đấng Tối Cao, bảo:

Vạn vật lệ thuộc vào ta cả,

Như những hạt châu lệ thuộc vào sợi dây của chuỗi hạt.

Ta là mùi vị của dòng nước trong; ta là

Ánh bạc của vầng trăng, ánh vàng của mặt trời,

Là lời cầu nguyện trong các kinh Veda, sự rung động

Nó truyền qua không trung, là sức mạnh.

Của tinh dịch loài người. Ta là mùi dịu dàng mát mẻ

Của mặt đất ướt, ta là ánh lửa đỏ rực.

sinh khí lưu động trong những vật chuyển động.

Là sự linh thiêng của linh hồn linh thiêng, là nguồn gốc

Bất diệt sinh ra mọi vật;

Là sự minh triết của nhà hiền triết, là óc sáng suốt

Của nhà bác học, sự vĩ đại của những cái gì vĩ đại,

Sự đẹp đẽ của những cái gì đẹp đẽ…

Đối với người minh triết trông thấy hết thảy,

Đối với tu sĩ Bà La Môn thành kính, đã đọc thiên kinh vạn quyển,

Thì con bò cái, con voi, con chó ghẻ,

Kẻ ti tiện ăn thịt chó kia, tất cả chỉ là một.

Bhagavad-Gita là một trường ca[27] màu sắc rực rỡ, chứa đầy những mâu thuẫn luân lí và siêu hình học, nó chính là phản ánh của các mâu thuẫnphức tạp trong đời sống. Mới đọc chúng ta hơi thấy chướng: con người thì cương quyết bênh vực một luân lí cao thượng, còn thần linh gì mà lại nguỵ biện viện cái lẽ rằng không thể diệt sự sống được, rằng cá thể là cái gì hư ảo, không phải là thực thể để thuyết chúng ta gây chiến và chém giết nhau; nhưng nghĩ lại thì có lẽ tác giả muốn cho tâm hồn người Ấn thoát ra khỏi cái tinh thần an nhiên thư thái đến bực mình của đạo Phật, để họ phát sinh cái ý muốn chiến đấu cho tổ quốc; đó là lời phản kháng của một Kshatriya (chiến sĩ) cảm thấy rằng tôn giáo làm cho tổ quốc suy nhược, rằng có những cái khác còn quí báu hơn sự yên ổn. Tóm lại, đó là một bài học tốt; nếu Ấn Độ hiểu nó thì có lẽ đã bảo tồn được sự tự do, độc lập của họ.

Anh hùng ca thứ nhì của Ấn, trường ca Ramayana nổi danh nhất mà cũng được nhiều người thích nhất; dễ hiểu nhất đối với người phương Tây. Trường ca đó ngắn hơn trường ca Mahabharata: không quá một ngàn trang, mỗi trang bốn mươi tám hàng; và mặc dầu nó cũng như các trường ca khác, được người sau thêm hoài vào, tính ra mất năm thế kỉ mới hoàn thành – từ thế kỉ thứ III trước Công nguyên tới thế kỉ thứ II sau Công nguyên – nhưng ít có những đoạn xen đại vô, nên đề tài chính dễ nhận ra hơn. Theo truyền thuyết tác giả là một người nào đó tên là Valmiki có nhắc tới mình trong truyện, cho là đã sáng tác một trường thi quan trọng hơn; nhưng có lẽ tác phẩm là một công trình tập thể của nhiều thi-sĩ-rong (barde), tức như hạng người hiện nay còn đi khắp nơi kể, ngâm những trường ca đó cho dân chúng nghe, có khi kể liên tiếp chín chục đêm làm cho thính giả say mê.

Trường ca Mahabharata thuật một chiến tranh có cả các thần linh tham chiến, mà chiến tranh đó xảy ra một phần cũng vì sắc đẹp tuyệt trần của một người đàn bà, vậy cốt truyện giống với Iliade; trường ca Ramayana trái lại, giống Odyssée, cũng thuật lại những nỗi gian truân, lưu lạc khắp nơi của một vị anh hùng, trong khi đó người vợ ở nhà ngong ngóng trông chồng từng ngày. Ngay đoạn đầu, ta đã thấy tác giả tả một thời đại hoàng kim khi vua Dasaratha, đóng đô ở Ayodhya, trị vì xứ Kosala (nay là Oudh) trong cảnh thanh bình:

Vua tài giỏi, vừa cao sang, vừa biết nhiều, học rộng,

Dasaratha cầm quyền trị dân ở cái thời đại Veda sung sướng xưa kia…

Dân chúng lương thiện sống trong cảnh thanh bình, phong túc mà họ đáng được hưởng;

Không ai mang lòng ghen ghét nhau, không miệng nào thốt những lời dối trá.

Gia đình nào cũng an ổn hưởng vườn đất, nhà cửa, súc vật, lúa gạo, vàng bạc của mình;

Ở kinh đô Ayodhya tuyệt nhiên không thấy cái cảnh khổ sở, đói rét.

Gần đó có một vương quốc nữa tên là Videha, dân chúng ở dưới quyền của vua Janak cũng được an cư lạc nghiệp. Cũng can đảm, giản dị như Cincinnatus [một viên Chấp chính thời xưa ở La Mã], nhà vua “cầm cày, cày lấy ruộng”. Một hôm, đương cày, ông thấy trong luống cày, dưới lưỡi cày ngoi lên một thiếu nữ tuyệt đẹp, nhà vua bèn đem về nuôi, và nàng thành công chúa. Sau đó ít lâu, nàng tới tuổi cặp kê, nhà vua tổ chức một cuộc thi để lựa phò mã: hễ thanh niên nào uốn cong nổi cây cung của nhà vua thì sẽ được làm phò mã. Trong số các thanh niên rắp ranh “bắn sẻ”, có hoàng tử Rama, con cả của vua Dasaratha. Chàng có “bờm sư tử, mắt như hạt sen, chàng đẹp như chúa sơn lâm (tức voi) cặp ngà thật mạnh, bím tóc xoắn lấy nhau”. Khi thử sức, thì chỉ có mình chàng là uốn nổi cây cung và vua Janak gả công chúa cho chàng, theo đúng lễ nghi Ấn, đọc những lời dưới đây:

Đây là Sita, ái nữ của Janak mà Janak quí hơn sinh mệnh của mình;

Từ nay con gái ta sẽ chia xẻ những đức của hoàng tử, thành hiền thê của hoàng tử.

Sẽ đồng cam cộng khổ với hoàng tử, dù đi đâu cũng có nhau;

Hoàng tử nắm tay nó đi, vui hay buồn thì vợ chồng cũng yêu nhau;

Vợ chồng như bóng theo hình,

Và Sita, con của ta, người vợ hiền nhất từ nay sẽ theo

Hoàng tử suốt đời, cho tới lúc chết.

Rama dắt nàng Sita “trán như ngà, môi tựa san hô, răng sáng ngời như hạt châu” về Ayodhya. Tính tình hiếu thảo, tấm lòng rộng rãi, vẻ người duyên dáng, nàng được mọi người xứ Kosala quí mến liền. Rồi bỗng tai hoạ tới làm tan cảnh lạc thú đó. Nguyên do là tại một sủng phi của nhà vua, tên là Kaikeyi. Dasaratha nhu nhược hứa với Kaikeyi rằng muốn gì cũng sẽ chiều lòng hết; bà ghen với chánh cung, vì con trai là Rama được làm đông cung thái tử, nên xin nhà vua đày Rama ra khỏi xứ mười bốn năm. Dasaratha trọng danh dự như một thi sĩ không màng tới chính trị, phải giữ lời hứa và đành đứt ruột đày người con trai yêu quí của ông đi. Rama không oán cha, sửa soạn để vô một khu rừng sống đời cô độc, nhưng Sita nhất định đòi theo chồng. Không có một cô dâu Ấn Độ nào mà không thuộc lòng mấy câu thơ dưới đây chép lời nàng Sita thốt ra lúc đó:

Xe ngựa, lâu đài, cái đó người đàn bà không coi ra gì cả,

Cái bóng của chồng còn quí hơn nhiều, đối với người vợ yêu chồng và được chồng yêu.

Sita sẽ sống trong rừng sung sướng hơn trong cung điện của phụ vương,

Không nghĩ tới nhà cửa, gia đình, nàng sẽ nép trong lòng yêu của chồng…

Và trái cây nàng sẽ hái trong rừng mát mẻ, ngào ngạt hương thơm,

Với thức ăn của Rama, sẽ là thức ăn nàng thích nhất.

Em của Rama là Lakshman cũng đòi đi theo anh:

Vậy ra anh tính tìm con đường tối tăm của anh một mình với chị Sita nhu mì, hiền hậu ư?

Anh cho phép đứa em trung thành này coi chừng cho chị từng bước,

Anh cho Lakshman đeo cung tên vô rừng với,

Lưỡi búa của em sẽ phá rừng và em sẽ cất nhà cho anh chị.

Tới đây thi phẩm chuyển qua cái giọng tình ca lâm tuyền; cả ba: Rama, Sita và Lakshman đều vô rừng; dân chúng ở kinh đô Ayodhya thương tình cảnh của họ, tiễn đưa họ ngày đầu; rồi đêm đó có kẻ đi người ở bịn rịn chia tay nhau. Ba anh em cởi bỏ hết y phục trong cung điện mà che thân bằng vỏ cây và cỏ đan; họ dùng gươm mở một lối đi trong rừng và từ nay sống bằng trái cây hái trong rừng.

Thỉnh thoảng vợ Rama quay lại nhìn chồng, thích thú tò mò

Hỏi tên một cây, một dây leo, một trái hay một bông mà nàng mới thấy lần đầu…

Chim công vui vẻ bay chung quanh họ, khỉ đánh đu trên cành…

Vừng đông đỏ rực vừa mới ló dạng là Rama xuống suối tắm,

Sita cũng thích nước như bông huệ thích mọc bên bờ suối.

Họ cất một cái chòi bên dòng suối, lần lần quen sống ở giữa rừng. Nhưng một công chúa goá chồng ở phương Nam tên là Surpra-nakha, một hôm dạo cảnh trong rừng, gặp Rama, và mê chàng; chàng quyết liệt từ chối, bà ta nổi giận, bảo em trai là Ravan tìm cách cướp nàng Sita. Ravan bắt cóc được nàng, nhốt nàng trong một lâu đài ở xa và dụ dỗ tán tỉnh nhưng nàng không thuận. Các thần linh và các thi sĩ vẫn có phép thần thông, nên Rama lập ngay được một đạo quân mạnh mẽ tấn công vương quốc của Ravan; thắng trận, giải thoát cho Sita; lúc đó cũng hết hạn bị đày, chàng cùng với vợ bay lên không trung, về kinh đô Ayodhya và một người em, cũng trung tín như Lakshman, trả lại ngôi báo cho chàng.
Trong đoạn kết rõ ràng là do người đời sau thêm vào, Rama đuổi hết bọn hoài nghi không tin rằng Sita ở trong cung điện của Ravan lâu như vậy mà không thất thân với hắn. Mặc dầu nàng đã thắng được cuộc thử lửa[28], tỏ rằng mình trong sạch vô tội, Rama bị con quỉ di truyền nó bắt chúng ta kiếp này mắc lại những tội lỗi đã làm cho ta đau khổ trong kiếp trước, đày vợ trong một khu rừng. Nàng gặp Valmiki[29] ở đó và sanh được hai đứa con trai với Rama[30].

Về sau hai người con đó lớn lên thành người đi hát rong, một hôm vô tình hát cho Rama đau khổ nghe bản anh hùng ca về đời ông ta, bản trường ca đó do Valmiki soạn ở trong rừng sau khi nghe Sita kể lại mọi chuyện. Rama nhận ngay ra con trai mình và sai sai sứ giả vô rừng rước Sita về cung. Nhưng Sita bị chồng nghi oan, đau xót quá, biến mất vào trong lòng đất hồi xưa là mẹ của nàng và đã sanh ra nàng khi nàng ở trong luống cày ngoi lên. Rama còn trị vì được nhiều năm nữa nhưng lúc nào cũng cô độc, rầu rĩ, ông hiền từ tới nhu nhược, dân chúng vẫn còn được hưởng cảnh thanh bình sung sướng như dưới triều Dasaratha:

Và các hiền nhân thời xưa kể rằng dưới triều đại sung sướng của Rama,

Dân chúng không ai chết yểu, không ai đau đớn ghê gớm;

Quả phụ không nát lòng vì chồng chết;

Mẹ không gào thét khi thần Yama tới bắt con đi;

Bọn trộm cắp, lừa gạt không nói láo, bịp bợm nữa;

Láng giềng thân yêu nhau, dân chúng yêu nhà vua.

Tới mùa, cây nào cây nấy trĩu những trái.

Và ruộng nương năm nào cũng vui vẻ được mùa.

Mưa thuận gió hoà, không bao giờ có những cơn giông tàn phá

Thung lũng nào, vườn tược và đồng cỏ nào cũng xanh tốt.

Đâu đâu cũng nghe tiếng dệt vải và tiếng búa đập trên đe; đất cày bừa kĩ và phì nhiêu,

Toàn dân sống trong cảnh vui vẻ như thời tổ tiên họ.

Truyện thật hay và nhà phê bình thời nay dù rất nghiêm khắc, đọc cũng vẫn có thể thấy thú nếu còn giữ tâm hồn cho tươi mát để thỉnh thoảng thưởng thức được tiểu thuyết và nhạc trong thơ. Những trường ca đó có lẽ kém tác phẩm của Homère về mặt văn chương – bố cục không hợp lí bằng, lời văn không bóng bẩy bằng, mô tả nhân vật đôi khi kém sâu sắc, không trọng sự thực bằng – nhưng bù lại, diễn những tình cảm đẹp đẽ, một ý niệm cao thượng về bổn phận của đàn ông và đàn bà, và có những bức hoạ mạnh mẽ, tới mức tả chân. Rama và Sita hoàn toàn quá, khó mà có thực được, nhưng các nhân vật Draupadi và Yudhishthira, Dhrita-rashtra và Gandhari cũng gần sinh động bằng Achille và Hélène, Ulysse và Pénélope. Một người Ấn nhận định rất đúng rằng một người ngoại quốc khó mà hiểu các trường ca đó được, đừng nói chi là phê phán nữa; vì đối với người Ấn, những trường ca đó không phải là những truyện như mọi truyện khác; mà là cả một cuộc triển lãm các nhân vật trong huyền thoại của Ấn để người Ấn nhìn vào đó mà học cách cư xử, biết giữ phẩm hạnh; nó là một tập ghi lại các truyền thống, triết họctôn giáo của dân tộc; người Ấn kính cẩn đọc những trường ca đó cũng gần như người theo Ki Tô giáo đọc cuốn Imitation de Jésus Christ (Noi gương chúa Ki Tô) hoặc cuốn Vies des Saints (Đời các vị Thánh). Người Ấn mộ đạo tin rằng Krishna và Rama là hậu thân của các thần linh, ngày nay họ còn cầu nguyện, khấn vái các nhân vật đó, và khi đọc truyện của Krishna và Rama trong các trường ca vĩ đại đó, ngoài cái thú về văn chương, cái lợi thấy tâm hồn mình cao thượng lên, họ còn hãnh diện rằng mình làm tròn bổn phận một kẻ tu hành. Họ tin chắc rằng đọc trường ca Ramayana bao nhiêu tội lỗi của họ được chuộc hết và thánh thần sẽ phù hộ cho họ có con trai; cho nên họ hết lòng tin đoạn kết rất tự đắc dưới đây của trường ca Mahabharata là đúng:

Người nào đọc Mahabharata mà tin những thuyết trình bày trong đó thì gột được hết tội lỗi của mình và chắc chắn chết đi sẽ được lên Thiên đường… Món bơ bổ hơn các món khác ra sao, các người Bà La Môn cao quí hơn các người khác ra sao… đại dương so với một cái ao nhỏ, mênh mông ra sao, con bò cái quí hơn các loài bốn chân khác ra sao, thì Mahabharata cũng cao quí hơn, mênh mông hơn các truyện khác như vậy… Người nào chăm chú nghe các shloka[31] trong Mahabharata mà tin thì sẽ trường thọ, có danh tiếng vững vàng trên cõi trần này và kiếp sau sẽ được hưởng vĩnh phúc trên cõi Thiên đường. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28193)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6689)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15388)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8255)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16733)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26978)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18681)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15656)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22539)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19463)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18346)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16203)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25635)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12882)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10714)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10031)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10391)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11041)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15229)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10843)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11707)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10783)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11245)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10563)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10892)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11403)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11064)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15236)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15712)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11002)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12116)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11045)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21848)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10103)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant