Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Trung Quốc

23 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 8381)
02. Trung Quốc


LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA BỒ TÁT GIỚI

Thích Thái Hòa

- Trung Quốc

Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc có nhiều lập thuyết, song lập thuyết niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 là lập thuyết được nhiều nhà sử học thế giới cho rằng có thể tin được.

Theo lập thuyết này, thì khoảng năm 67 sau Tây lịch, vua Hán Minh Đế có một đêm nằm mộng thấy có một người vàng hào quang rực rỡ, đến từ phương Tây làm rạng rỡ cả cung đình.

Nhân ở giấc mộng này, Vua đoán biết có Phật giáo ở phương Tây tức Ấn Độ, do đó Vua sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh và phái đoàn gồm 18 người, đi đến phương Tây tức Ấn Độ để thỉnh tượng Phật về thờ.

Trên đường đi đến Ấn Độ, ngang qua Tukhàra (Đại Nhục Chi), phái đoàn đã gặp hai Ngài Phạm TăngCa Diếp Ma ĐằngTrúc Pháp Lan đang chở kinh và tượng Phật bằng Bạch Mã đi về phía Đông, do đó phái đoàn cung thỉnh hai Ngài đến Trung Quốc.

Khi hai Ngài và phái đoàn về đến Trung Quốc, vua Hán Minh Đế mừng rỡ, liền xây dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi để hai Ngài dịch Kinh.4 

Ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamàtanga) quê ở Trung Ấn, Ngài học giỏi, nhớ lâu, đạo hạnh tuyệt vời và Ngài thường trì tụng kinh Surannaprapha'sa (Kinh Kim Quang Minh).

Ngài Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), cũng là người Trung Ấn, giới luật rất tinh nghiêm, cả hai Ngài đều ở chùa Bạch MãTrung Quốc để dịch kinh. Tác phẩm của hai Ngài dịch đầu tiên là Kinh Tứ Thập Nhị Chương, và sau đó các Ngài tiếp tục dịch các kinh khác như: Thập Địa Đoạn Kết Kinh (8 cuốn), Pháp Hải Tạng Kinh (1 cuốn), Phật Bản Hạnh Kinh (5 cuốn), Phật Bản Sinh Kinh (1cuốn)...

Nhìn vào các bản kinh của hai Ngài phiên dịch, cũng đủ để thấy rằng, Phật học Đại thừa của hai Ngài uyên bác đến chừng nàohạnh nguyện Bồ tát tuyên dương chánh pháp của hai Ngài ngang đâu?

Nếu đọc kỹ Kinh Tứ Thập Nhị Chương, do hai Ngài đã phiên dịch thì chúng ta thấy rằng, đây là một bộ kinh không những thuần Đại thừa mà còn xuyên suốt cả giáo lý Nguyên thỉ, trong đó không những chuyên chở tinh thần giới Đại thừa mà cũng chuyên chở xuyên suốt hết thảy giới căn bản.

Chẳng hạn, kinh giải thích về ý nghĩa Sa môn là "người từ bỏ thân thuộc để xuất gia, thấu rõ đến tận nguồn gốc của tâm, biết được pháp đưa đến Niết Bàn. Vị ấy, thường hành trì 250 giới, đi đứng trong thanh tịnh, tu hành là để đạt đến đạo hạnh chân thật, đó là quả vị A La Hán...".

“Người làm Sa môn phải cạo bỏ râu tóc, lãnh thọ pháp của đạo, từ bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ, ăn một bữa giữa ngày, ngủ một đêm dưới gốc cây, cẩn thận không trở lại nữa! Phải biết rằng, điều khiến cho con người ngu và tệ là ái và dục".

Đối với học giới thì kinh dạy: "Giữ vững chí nguyện, tâm tự lắng trong, mới có thể lãnh hội và đến được chỗ mầu nhiệm của đạo".

Đối với sự quán chiếu thì kinh nói: "Hãy quán chiếu để thấy rõ linh giác, chính là Bồ đề, biết rõ như vậy thì thành đạo rất mau chóng".

Kinh đã đề cập đến lý tưởng xuất giaý nghĩa của đạo như: "Người xuất gia làm Sa môn, là muốn đoạn trừ dục vọng, loại bỏ khát ái, tự biết nguồn tâm, đạt đến lý tính sâu thẳm của Phật. Giác ngộ được pháp vô vi, ở nội tâm tự mình không thấy sở đắc, ở ngoại cảnh tự mình không có chỗ cầu, tâm hằng tự tại, không bị buộc trói bởi đạo và nghiệp, không còn khởi niệm, không còn tác ý, không còn pháp tu, không còn quả chứng, các địa vị tu tập không còn phải trải qua mà tự nó là tối thượng, ấy gọi là đạo vậy".

Rõ ràng, khi hai Ngài đến Trung Quốc để tuyên dương Phật pháp, các Ngài đã đem toàn bộ hệ thống tu học từ thấp lên cao mà truyền bá chứ không thiên một pháp nào.

Nên, hẳn nhiên trong tinh thần Kinh Tứ Thập Nhị Chương do hai Ngài dịch, nó gồm đủ cả tinh thần Thanh Văn giớiBồ Tát giới.

Tinh thần Thanh Văn giới, Thập Thiện giới thì ở trong kinh đề cập khá cụ thể, nhưng tinh thần Bồ Tát giới hàm chứa ở trong kinh này rất là tế nhị.

Lại nữa, theo Hậu Hán Thư, có chép câu chuyện liên hệ đến Sở Vương Anh tin Phật như sau:

"Năm 65-Tây lịch, vua Hán Minh Đế xuống lệnh cho phép những người nào bị tội nặng được dâng vóc lụa để chuộc tội.

Sở Vương Anh tức là con cùng cha khác mẹ với Vua, được phong tước Hầu Vương năm 41.

Dù năm 52, Sở Vương Anh đã di cư ra Bành Thành, kinh đô của nước Sở. Nhưng, Sở Vương Anh khi nghe chiếu lệnh ấy, mặc cảm rằng mình cũng có tội, nên liền dâng lên vua Hán Minh Đế ba mươi tấm lụa.

Vua Hán Minh Đế xuống chiếu nói rằng: "Vương không có tội gì, trái lại Vương còn có công đức, ...biết sùng thượng giáo lý cao siêu của Hoàng Lão và đức nhân từ bao dung của Phật".

Vương liền làm lễ sám hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn cúng dường Tăng sĩ và cư sĩ.5

Nếu đây là một tư liệu có giá trị lịch sử, thì tinh thần từ bi, sám hối, ăn chay, cúng dường của Bồ tát giới đã có rất sớm trên đất Trung Hoa, nghĩa là muộn lắm là khoảng năm 65-Tây lịch, tinh thần Bồ tát giới đã được các hàng Tăng sĩ và cư sĩ ở xứ này phụng hành một cách kính trọng.

Hiển nhiên, tinh thần ăn chay, tinh thần từ bi luôn luôn gắn liền với bản chất của Bồ tát giới trong đạo Phật.

Lại nữa, sau Ngài Ca Diếp Ma ĐằngTrúc Pháp Lan khoảng 80 năm, tức là khoảng năm 147-Tây lịch, thì lại có Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa để phiên dịch kinh tạngtuyên dương chánh pháp.

Ngài là một vị Thái tử của Vua Parthia nước An Tức. Sau khi xuất gia Ngài tu tập thông hiểu Tam tạng, đến Trung Hoa năm 147, hoằng phápphiên dịch Kinh tạng tại đây.

Kinh điển do Ngài dịch có 34 bộ gồm 40 cuốn.

Nhưng hiện nay trong Đại Tạng Tân Tu chỉ thấy còn lại một ít như: Tứ Đế Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Bát Chánh Đạo Kinh,... đây là những bộ kinh hàm chứa những giáo lý căn bản của Phật học. Và Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Phương Đẳng Yếu Tuệ, do Ngài dịch hàm chứa tinh thần Bồ tát đạo rất là sâu xa.

Ở trong kinh này, đức Phật đã dạy cho Bồ Tát Di Lặc tám điểm để không bị thối chuyển đối với pháp Đại thừa, nhằm thực hành Bồ tát đạo và nhiếp phục các ma oán, thành tựu địa vị tối thượng của Nhất Thế trí.

Tám điểm ấy là:

1. Phải có bản chất thanh tịnh từ bên trong (Nội tánh thanh tịnh).

2. Phải thành tựu đối với những điều đã được phụng hành (Sở hành thành tựu).

3. Phải thành tựu các hạnh bố thí (Sở thí thành tựu).

4. Phải thành tựu về hạnh nguyện (Sở nguyện thành tựu).

5. Phải thành tựu lòng từ (Từ thành tựu).

6. Phải thành tựu lòng bi (Bi thành tựu).

7. Phải thành tựu về phương diện thiện xảo (Thiện quyền thành tựu).

8. Phải thành tựu trí tuệ (Trí tuệ thành tựu).6

Ở trong tám điều đức Phật dạy trên, chúng được thâu nhiếp vào tam tụ tịnh giới của Bồ tát giới như sau:

Điều một là thuộc về Nhiếp luật nghi giới.

Điều hai là Nhiếp thiện pháp giới.

Và những điều còn lại thuộc về Nhiêu ích hữu tình giới.

Sự hiện diện của Ngài An Thế Cao trên mảnh đất Trung Quốc là sự hiện diện của một con người thực hành Bồ tát đạo, điều này đã được Ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ III đã nói ở trong bài tựa của Kinh An Ban Thủ Ý như sau: "Có một vị Bồ tát tên là An Thanh, tự là Thế Cao, con đích của vua nước An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú, lánh qua đất này...", chính chi tiết này cho ta biết thêm tinh thần truyền bá Bồ tát giới của Ngài An Thế Cao lúc bấy giờ.

Năm 250 TL, Ngài Dharmakàla (Đàm Ma Ka La) và Dharmatràta từ Trung Ấn đến Trung Hoa mới bắt đầu phiên dịch Luật tạng, như Tăng Kỳ Giới Bổn, Đàm Vô Đức Yết Ma... để làm phép tắc trao truyền giới pháp.

Và bản Bồ Tát Phạm Võng Giới Kinh, mãi đến khi Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajira) đến Trung Quốc năm 386-413, mới được phiên dịch.

Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, do Ngài Trúc Phật Niệm dịch vào đời Diêu Tần khoảng năm 317-419 TL.

Bồ Tát Địa Trì Kinh, Ưu Bà Tắc Giới Kinh, do Ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaksa) dịch vào đời Lương, khoảng 412 TL.

Bồ Tát Giới Nội Kinh, Bồ Tát Thiện Giới Kinh, do Ngài Cầu Na Bạt Na (Gunavarman) dịch khoảng 377-431 TL, Ngài còn dịch Tứ Phần Tỷ Khưu Yết Ma Pháp.

Nhờ nhiều thế hệ cao Tăng từ Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng hóa và phiên dịch kinh điển, làm cho trên mảnh đất này phát sinh những vị cao Tăng rất vĩ đại như Ngài Chu Sĩ Hành, đã xuất gia tu học, chuyên giảng dạy kinh "Đạo Hành Bát Nhã", và là vị cao Tăng đầu tiên tu học Ấn Độ vào khoảng 260-TL.

Ngài Đạo An (312-385), một vị danh Tăng đời Tiền Tần, học trò của Ngài Phật Đồ Trừng, 12 tuổi xuất gia, thông minh kỳ lạ, lớn lên thọ cụ túc giới, và có công lớn trong sự hoằng truyền Phật pháp.

Ngài đã làm bộ "Kinh Điển Mục Lục", phụ giúp các vị Phạm Tăng phiên dịch kinh điển, Ngài thường giảng dạy Kinh Phóng Quang Bát Nhã cho hội chúng, Ngài chú thích nhiều bộ kinh điển, định ra các Tăng chế như các pháp "Hành Hương, Định Tọa, Sáu Thời Hành Đạo,...thực hành pháp Bố tát và Sám hối".

Ngài dùng họ Thích là họ chung cho những người xuất gia, để nói lên rằng, nó có gốc rễ từ đức Thích Tôn.

- Tuệ Viễn (334-416), Ngài người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây, thưở nhỏ theo Nho học và Đạo học, năm 21 tuổi cùng với em là Tuệ Trì theo học Phật với Ngài Đạo An, Ngài là người rất thông minh và rất được Ngài Đạo An quý chuộng.

Sau khi trưởng thành, Ngài đến Lư Sơn để tu tậphoằng pháp, Ngài đã cho hai vị đệ tử là Pháp Tịnh và Pháp Vĩnh sang Ấn Độ để học về Phạn văn.

Ngài đã trước tác "Pháp Tính Luận, Sa Môn Bất Bái Vương Giả Luận, Đại Trí Độ Luận Sao,... Ngài là vị khai sáng "Bạch Liên Xã", tức là những người tu tập tịnh độ. Ở trong Bạch Liên Xã có những vị Tăng sĩ nổi tiếng như: "Tuệ Viễn, Tuệ Vĩnh, Tuệ Trì, Đạo Sinh, Đàm Thuận, Phật Đà Da Xá, Phật Đà Bạt Đà La,... và trong hàng cư sĩ có những vị nổi tiếng như: Lưu Trình Chi, Trương Dã, Chu Tục Chi, Trương Thuyên, Tôn Bính, Lôi Thứ Tôn,...".

 Như vậy, đến thời điểm này, Phật giáo không những có gốc rễ từ những hàng Tăng sĩ bản xứ mà còn ảnh hưởng đến hàng vua chúa quan quyền, và tầng lớp trí thức cũng như thứ dân của xã hội Trung Hoa bấy giờ.

Các vua chúa Trung Hoa như Phù Kiên đời Tiền Tần cho đến các vua Diêu Trành, Diêu Hưng đều nhiệt tình ủng hộ Phật giáo về mọi mặt.

Vua Mông Tốn thế kỷ V, đời Bắc Lương cũng rất hết lòng ủng hộ Phật giáo.

Tuy nhiên, Phật giáo từ khi truyền vào Trung Quốc đến thế kỷ V, không phải lúc nào cũng hưng thịnh và cũng có sự ủng hộ của vua chúa , mà trái lại Phật giáo cũng có lúc bị suy vi bởi những nhà vua bài xíchđàn áp Phật giáo như Cao Tổ Võ Đế nhà Tống (420-588 TL).

Nhưng đến đời nhà Lương thì Phật giáo thịnh hành, vua Lương không những là nhà ngoại hộthâm tín Phật giáo mà vua còn đem vương quyền và giáo quyền hợp nhất để trị dân.

Vua tự mình soạn ra bài văn "Đoạn tửu nhục" (chấm dứt sự ăn thịt và uống rượu) để quyết tâm tu trì.

Năm 517, vua ra lệnh cho nhân dân không được cúng tế quỷ thần bằng rượu thịt mà chỉ cúng tế bằng hoa quả.

Vào ngày 08 tháng 4 năm 519 lễ Phật Đản, vua lại phát tâm thọ trì Bồ tát giới tại chùa Thảo Đường với Ngài Tuệ Ước, sau đó các công khanh sĩ dân cũng noi gương mà thọ giới pháp cả mấy vạn người. Vua còn ra lệnh mở nhiều pháp hội ở nhiều nơi như: Vô Giá Đại Hội, Bình Đẳng Pháp Hội, Cứu Khổ Trai Đàn, Đại Pháp Hội... để thể hiện hạnh nguyện Bồ tát vậy.

Vua chú sớ kinh Bát Nhã và thường dạy kinh này cho các đình thần văn võ, sĩ thứ và kể cả Tăng sĩ nữa.

- Đời Tùy (581-618), sau khi thống nhất thiên hạ, Tùy Văn Đế lên ngôi, ngoài việc chăn dân vua hết sức phục hưng Phật giáo, xây dựng chùa tháp khắp nơi, hết lòng ủng hộ Tăng Ni tu họctruyền bá Phật giáo.

Trong sự nghiệp phục hưng Phật giáo, Vua nói: "Phật lấy chánh pháp phó chúc cho Quốc vương, Trẫm là Đấng nhân tôn, tuân theo lời phó chúc đó".

Năm 585, Vua phát tâm thọ trì Bồ tát giới với Sa môn Pháp Kính, sau đó Vua hạ lệnh xá ngục tù cho tất cả 24.900 người, giảm tội tử hình cho 3.700 người. Vua còn có lòng từ bi đối với các loài vật, ngày 15-6 là ngày sinh nhật của Vua, vào ngày đó Vua hạ lệnh cấm nhân dân không được giết hại súc vật.

Vua Tùy Văn Đế mất, Thái tử là Tùy Dạng Đế lên ngôi, kế nghiệp Vua cha trị nước, an dân và quảng bá Phật pháp, Vua đã thỉnh Ngài Trí Khải trao truyền Bồ tát giới.

Hết Tùy đến Đường (618-907), Phật giáo cực thịnh, các cao Tăng xuất hiện như Ngài Nghĩa Tịnh, Huyền Tráng, Đạo Tuyên... làm cho Phật giáothời đại này vô cùng rực rỡ.

Ngài Nghĩa Tịnh và Huyền Tráng đều là những nhà du học Ấn Độ và rất giỏi Phạn văn, các Ngài sau khi du học đã trở về nước phiên dịch kinh điển từ Phạn bản sang Hán, sự nghiệp phiên dịch của các Ngài rất là vĩ đại.

Cuối đời Đường, Phật giáo xuống dốc có nhiều lý do chính là do Tăng đoàn suy đồi, vì Tăng đoàn đã trở nên hỗn tạp, những vị chính tâm tu tập thì ít, nhưng những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu cá nhân thì nhiều, do đó Tăng đoàn không đủ đạo lực để nhiếp hóa những kẻ ngoại hộngoại đạo, nên đã đưa đến tình trạng Võ Tôn phế Phật (842).

Hết đời Đường đến đời Tống (960-1279), Phật giáo hưng thịnh trở lại, các bậc cao Tăng xuất hiện, Vua Tống Thái Tổ ra lệnh phục hưng Phật giáo, độ cho 800 đồng tử xuất gia, mời các danh Tăng về cung dạy đạo, cử 157 người đi Ấn Độ để cầu Pháp.

Đến đời Vua Tống Thái Tôn cũng tiếp tục phục hưng Phật giáo, vua phát tâm thọ trì Bồ tát giới.

Đến Vua Tống Nhân Tông, cũng rất thâm tín Phật pháp,Vua đã yêu cầu Ngài Pháp Hiền mở "Cam lồ pháp đàn" để thí giới.

Trong truyền thống giới đàn của Phật giáo Bắc Phạn và nhất là ở Trung Hoa, phần nhiều những giới tử cầu thọ cụ túc giới đều kèm theo thọ trì Bồ tát giới và nhiên hương ở đỉnh đầu để cúng dường Phật, nhằm nêu cao tinh thần thực hành Bồ tát đạo.

Sự hưng vượng hay suy vong của Phật giáotrung Quốc từ những triều đại trước và kể những triều đại sau Tống, yếu tố chính vẫn do tâm nguyện tu học của hàng Tăng sĩ và cư sĩkiên cốđạo hạnh hay không? Nếu tu học mà không có chánh tâm là tâm Bồ đề thì Phật pháp khó mà bảo toàn chứ đừng nói là hưng vượng.

Tóm lại, bất cứ thời điểm nào và ở đâu, các Tăng sĩ vừa là Bậc có đạo hạnh, vừa là Bậc có tâm huyết hoằng pháp, thì lúc đó và ở đó, Phật pháp không bị dứt tuyệt. Và hàng cư sĩ dốc lòng hộ đạo, thọ trì Bồ tát giới, thì dù Thiên Ma có cầu mong chánh pháp hủy diệt, chúng cũng hoàn toàn bị thất vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17293)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46365)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9566)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8746)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15779)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15404)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18196)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9568)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9605)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18368)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15591)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10884)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8873)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10385)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10163)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9335)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11423)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10042)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 22904)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9562)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17203)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 18955)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10127)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19360)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9417)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12252)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 11935)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19699)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12661)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13083)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14300)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32318)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12930)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11914)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20712)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40591)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10053)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9532)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 18953)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8800)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8289)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10432)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11656)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30600)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11459)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10417)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 15973)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25552)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10006)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant