Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương: Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa

25 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 8379)
04. Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương: Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần I
SỰ THỌ GIỚI, HỆ PHÁI VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI TĂNG ĐOÀN

Các Nữ Tu Sĩ Phật Giáo Tây Phương
Hiện Tượng Mới Trong Truyền Thống Cổ Xưa
BHIKSHUNI THUBTEN CHODRON

Cách đây nhiều năm trong một hội nghị đa tôn giáo tại Âu châu, tôi đã được hỏi về đời sống của chư ni người Tây phương. Nghĩ rằng người ta chẳng quan tâm để hỏi về đời sống bình thường của tôi, nên thay vào đó tôi đã giảng một bài Pháp về việc rèn luyện tâm từ bi như thế nào. Sau đó, nhiều người đã đến gặp và nói, “Bài thuyết pháp của ni sư rất hay, nhưng chúng tôi thật sự muốn nghe về đời sống của chư ni Tây phương! Chư ni đã sống như thế nào? Chư ni có những khó khăn và thuận lợi gì?” Đôi khi không dễ dàng để nói về những điều đó. Khi nói về những khó khăn, sẽ dễ sinh ra phàn nàn, hoặc khiến người khác nghĩ là mình phàn nàn; còn kể về những thuận lợi, dễ sinh ra khoe khoang hoặc khiến người khác nghĩ rằng mình kiêu mạn. Dầu gì, bài tham luận này được viết theo quan điểm của một người đã thọ giới theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng chứ không hàm ý đại diện cho tất cả chư ni Tây phương.

Phật pháp đã làm rung động mạnh trái tim của những người Tây phương, những người đã chọn trở thành nữ tu sĩ Phật giáo Tây phương. Vì vậy, trái với sự mong đợi của văn hóa, của gia đình, chúng tôi rời bỏ công việc của mình, từ giã người thân để xuất gia làm nữ tu sĩ Phật giáo, và trong nhiều trường hợp, rời bỏ quê hương đến sống ở xứ người. Mấy ai can đảm làm những điều này để được tu theo Phật pháp? Chúng tôi không giống các nữ tu sĩ Á châu ở những chỗ nào? 

Nói chung là phụ nữ Á châu xuất gia khi họ còn là những thiếu nữ trẻ, dễ dạy, ít có kinh nghiệm cuộc sống, hoặc khi đã có tuổi, gia đình con cái đã trưởng thành, họ xuất gia đến sống ở chùa để tìm nguồn an ủi tâm linh hay thể xác. Trái lại, đa số các nữ tu sĩ Tây phương xuất gia khi đã trưởng thành. Nhiều người có học thức cao, có nghề nghiệp và thường đã có gia đình, con cái. Họ đem tài năng, sức lực vào chùa, đồng thời cũng mang theo các thói quen và những đòi hỏi đã được mài dũa qua bao năm tháng tiếp xúc với thế tục. Khi phụ nữ Á châu xuất gia, họ được gia đìnhcộng đồng hỗ trợ, và việc trở thành người tu luôn được xã hội chấp nhận, tôn kính. Ngoài ra, văn hóa Á châu chú trọng vào đoàn thể hơn là cá nhân riêng lẻ, do đó tương đối dễ cho người mới tu hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng trong chùa. Khi còn ở trong gia đình, họ ngủ chung với các chị em khác và được dạy là phải đặt hạnh phúc gia đình trên quyền lợi cá nhân, phải kính trọng, vâng lời cha mẹ và thầy cô. Ngược lại, các nữ tu sĩ Tây phương trưởng thành trong một nền văn hóa coi trọng cá nhân hơn đoàn thể, khiến họ có nhiều tính cách cá nhân hơn. Phụ nữ Tây phương phải có nhiều cá tính mới có thể trở thành nữ tu sĩ Phật giáo: gia đình trách móc họ từ bỏ công việc lương cao và không chịu có con. Xã hội Tây phương gán tội họ là những ký sinh trùng lười biếng, không chịu làm việc; và văn hóa Tây phương cáo buộc là họ đè nén sinh lý, lẩn tránh những mối quan hệ mật thiết. Người phụ nữ Tây phương nếu quá quan tâm đến những gì người khác nghĩ, sẽ khó trở thành một nữ tu sĩ Phật giáo. Người phụ nữ đã xuất gia theo Phật giáo thường có khả năng tự chu cấptự lực. Những phẩm hạnh, nói chung là rất giá trị, nhưng nếu thể hiện đến cực đoan, đôi khi khiến cho người phụ nữ có nhiều cá tính sẽ khó sống chung trong chúng. Đó là, nếu có một cộng đồng để sống trong đó.

Vì là thế hệ nữ tu sĩ Phật giáo Tây phương đầu tiên, nên chúng tôi thực sự là những kẻ sống không nhà. Ít có chùa ở Tây phương, nên nếu chúng tôi cần trú ngụ ở chùa thì thường phải trả tiền, vì chùa không có tiền. Điều này gây khó xử cho chúng tôi: làm thế nào mà một người xuất gia tuân giữ giới luật bao gồm đắp y, cạo tóc, không giữ tiền, không buôn bán, lại kiếm ra tiền?

Nhiều người Tây phương nghĩ rằng cũng có một tổ chức bảo trợ, giống như Nhà Thờ Thiên Chúa, cưu mang chúng tôi. Nhưng không phải như vậy. Vị sư phụ Tây Tạng của chúng tôi không cấp dưỡng tiền bạc cho chúng tôi, ngược lại trong nhiều trường hợp, ngài còn kêu gọi chúng tôi gây quỹ để giúp đỡ các vị tăng Tây Tạng, đang lánh nạn tại Ấn Độ. Một số nữ tu sĩ Tây phương có chút tiền tiết kiệm nhưng chúng nhanh chóng được tiêu thụ. Số khác có được bạn bè tốt và gia đình giúp đỡ. Một số khác nữa, vì hoàn cảnh phải hoàn tục, tìm việc làm trong các thành phố. Điều này gây trở ngại cho người xuất gia giữ giới và ngăn trở các nữ tu sĩ Tây phương trong việc học và hành pháp một cách miên mật - là mục đích chính để họ xuất gia

Vậy thì làm thế nào người ta được nhận vào chùa tu học? Một số nữ tu sĩ Tây phương chấp nhận ở lại châu Á càng lâu càng tốt. Nhưng họ lại gặp vấn đề hộ chiếu và ngôn ngữ. Các ni viện Tây Tạng thường lại quá tải, không có chỗ cho người ngọai quốc trừ phi họ trả tiền để ở trong các phòng trọ. Chư ni Tây Tạng học và hành lễ bằng tiếng Tây Tạng, việc học của họ bắt đầu bằng cách học thuộc lòng. Trong khi đa số các nữ tu sĩ Tây phương không biết tiếng Tây Tạng lại học bằng cách dịch kinh sang tiếng Anh. Thêm nữa, học thuộc lòng kinh điển bằng tiếng Tây Tạng thì họ không hiểu nghĩa. Họ muốn hiểu nghĩa lý của kinh để thực hành. Họ muốn học thiền và hành Pháp. Trong khi các nữ tu sĩ Tây Tạng thường lớn lên trong các gia đình Phật giáo và môi trường văn hóa từ nhỏ. Các nữ tu sĩ Tây phương đang tìm hiểu một tín ngưỡng mới, do đó họ có nhiều câu hỏi và vấn đề khác nhau. Thí dụ, trong khi một nữ tu sĩ Tây Tạng dễ dàng tin theo Tam Bảo thì nữ tu sĩ Tây phương muốn biết rõ Phật, Pháp, Tăng là gì và làm sao biết những điều đó có thực sự hiện hữu. Do đó, dầu ở ngay tại Ấn-độ, các nữ tu sĩ Tây phương cũng không hoà mình vào được các viện Phật học Tây Tạng truyền thống.

Nhiều nữ tu sĩ Tây phương được gửi tới làm việc trong các trung tâm Phật học ở các nước Tây phương, ở đó họ được chu cấp nơi ăn, chốn ở, và một ít tiền thù lao dành cho nhu cầu cá nhân, để bù đắp cho công việc họ làm tại trung tâm. Dầu ở những nơi đó, họ có thể học hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, nhưng đối với các nữ tu sĩ mới xuất gia thì cuộc sống ở đó khá khó khăn vì họ phải chung đụng với hàng cư sĩ. Giáo trình ở trung tâm được soạn ra cho các sinh viên bình thường, và vị la-ma trú xứ, nếu có mặt, thì cũng thường quá bận rộn với cộng đồng cư sĩ làm sao có thể giảng dạy cho một hay hai vị tu sĩ Tây phươngtrung tâm.

Chuyển Hóa Nghịch Cảnh Thành Thuận Duyên

Những khó khăn được mô tả bên trên cũng là thử thách cho việc tu tập. Người nữ tu sĩ cần tập trung vào giáo lý của đức Phật để giữ tâm thanh tịnh trong mọi hoàn cảnh. Vị ấy cần quán tưởng sâu xa về sự vô thường và sự chết cho đến vẫn cảm thấy an tịnh, dù thiếu thốn vật chất. Vị ấy phải quán chiếu về những điều bất lợi của việc bám víu vào tám pháp thăng trầm của thế gian, để những sự khen chê của người khác không ảnh hưởng đến mình. Vị ấy phải quán tưởng về nghiệp quả, ngỏ hầu chấp nhận những thử thách trên đường tu học. Và vị ấy cần phát tâm vị tha với mong ước sửa đổi được những tình trạng này, để người khác không phải chịu đựng giống như thế trong tương lai. Như vậy, những trở ngại của vị ấy là chất xúc tác cho việc tu học và qua tu tập, tâm của vị ấy được chuyển hóa, trở nên thanh tịnh.

Một trong những thử thách lớn nhất là sống độc thân ở các nước Tây phương, nơi mà vấn đề tình dục được phổ biến tràn lan trên các phương tiện truyền thông. Làm sao người ta có thể sống hạnh phúc khi mà văn hóa phương Tây phổ biến tình dục như là điều tốt đẹp của cuộc sống? Lại nữa, sự tu học là thầm kín. Để giữ giới, chúng tôi phải nhìn vượt lên trên những bề ngoài giả tạo. Chúng tôi phải hiểu sự trói buộc của tình cảm và tình dục đã ăn sâu vào tâm tư và giam giữ chúng tôi như thế nào trong vòng luân hồi. Chúng tôi phải hiểu bản chất của tình cảm và học đối mặt với chúng bằng những phương cách tích cực mà không cần người khác phải an ủi, vỗ về chúng tôi

Người ta hỏi chúng tôithăm viếng gia đình, bạn bè và có nhớ họ không. Nữ tu sĩ Phật giáo không phải là tù nhân. Chúng tôi vẫn có thể thăm viếng gia đình và bạn bè. Chúng tôi không ngừng quan tâm đến người khác chỉ vì chúng tôi đã xuất gia. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng chuyển hóa tình cảm mà chúng tôi dành cho họ. Đối với người bình thường trong cuộc sống thế tục, tình thương yêu thường dẫn đến sự bám víu, chấp chặt, một tình cảm phóng đại các ưu điểm của một người, khiến ta không muốn phải xa cách họ. Thái độ này khiến ta thiên vị - thích người mình yêu và ghét kẻ ta không yêu và trở nên bàng quang với những chúng sinh khác mà ta không biết.

Là người tu hành, chúng ta phải nỗ lực chống lại khuynh hướng này, thiền về tâm từ, bi, hỷ, xả để mở rộng cõi lòng, xem tất cả chúng sanh là người thân của mình. Càng rèn luyện tâm theo cách này, chúng ta càng ít bám víu vào người thân và càng thương yêu tất cả chúng sinh nhiều hơn, chỉ vì họ cũng giống như chúng ta, là những chúng sinh muốn hạnh phúc và tránh khổ đau. Cách mở rộng tâm như thế không có nghĩa là chúng ta không yêu mến cha mẹ mình. Ngược lại, thiền quán về ân đức của mẹ cha mở mắt cho chúng ta thấy tất cả những gì họ đã làm cho ta. Tuy nhiên, thay vì chỉ bám víu nơi cha mẹ, chúng ta cố gắng trải rộng tình thương cho tất cả chúng sinh. Niềm hỷ lạc nội tâm lớn lao sẽ khởi sinh khi chúng ta phát triển tâm xả và trải rộng tâm tới tất cả chúng sinh. Ở lãnh vực này, chúng tôi cũng vấp phải trở ngại - phải sống xa gia đình và bạn bè - là yếu tố kích thích sự phát triển tâm linh khi chúng tôi ứng dụng giáo lý vào đó. 

Nhiều hoàn cảnh lúc đầu thấy như bất tiện có thể trở nên có lợi. Chẳng hạn, các nữ tu sĩ Tây phương không nằm trong tổ chức tôn giáo Tây Tạng với hệ thống cấp bậc chỉ bao gồm chư tăng. Điều bất lợi này lại cho chúng tôi sự tự do để tổ chức tu tập. Thí dụ quy chế tỳ-khưu ni hay sự thọ đại giới của phụ nữ không bao giờ phổ biếnTây Tạng do sự khó có được con số tỳ-khưu ni cần thiết vì họ không thể vượt qua dãy núi Hy-mã-lạp-sơn như đã xảy ra trong các thế kỷ trước. Việc thọ giới sa-di ni thì có trong truyền thống Tây Tạng và được chư tăng cho phép. Dầu một số chư tăng trong đó có đức Đạt-lai Lạt-ma chấp nhận việc các ni theo truyền thống Tây Tạng được thọ giới tỳ-khưu ni từ các chùa Trung Hoa, các tổ chức tôn giáo Tây Tạng không chánh thức phê chuẩn điều này. Trong những năm gần đây, nhiều nữ tu sĩ Tây phương đã thọ giới tỳ-khưu ni từ các chùa theo truyền thống Trung Hoa và Việt Nam. Vì thuộc về cộng đồng Tây Tạng và có trách nhiệm đối với áp lực xã hội, các nữ tu sĩ Tây Tạng sẽ gặp nhiều khó khăn nếu họ làm giống như các nữ tu sĩ Tây phương. Như thế, việc không hoàn toàn hội nhập vào hệ thống tôn giáo Tây Tạng lại là điều có lợi đối với các nữ tu sĩ Tây phương.

 

Thọ Giới Xuất Gia

Để được thọ giới xuất gia thành nữ tu sĩ Phật giáo, người phụ nữ phải có kiến thức tổng quát về Phật Pháp và một ước nguyện mạnh mẽ, kiên trì muốn được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Người đó phải xin phép một vị thầy để được xuất gia. Theo truyền thống Tây Tạng thì đa số quý thầy là tăng sĩ, dầu có một số là cư sĩ. Hiện tại có rất ít bậc thầy là phụ nữ. Nếu vị thầy đồng ý, ông ấy sẽ sắp xếp buổi lễ xuất gia, nếu là thọ giới sa-di hay sramarenika, chỉ kéo dài vài giờ. Nếu sa-di ni trong truyền thống Tây Tạng sau này muốn thọ giới tỳ-khưu ni, vị ấy phải tìm vị y chỉ sư trong truyền thống Trung Hoa, Đại Hàn hay Việt Nam. Vị ấy phải đi đến tận chỗ, nơi lễ thọ giới sắp được tổ chức, và phải trải qua thời gian rèn luyện từ một tuần đến một tháng trước khi buổi lễ thọ giới thật sự được diễn ra. Tôi thọ giới sa-di ni tại Dharamsala, Ấn-độ vào năm 1977, và chín năm sau đó tôi tới Đài Loan để thọ giới tỳ-khưu. Trải qua chương trình rèn luyện một tháng bằng tiếng Trung Hoa đã là một thử thách và sau hai tuần thì tôi và một nữ tu sĩ Tây phương khác đã vui mừng khi vị y chỉ sư cho phép một vị ni khác dịch cho chúng tôi trong một số lớp học. Tuy nhiên, kinh nghiệm trong việc tu học để trở thành tỳ-khưu ni trong hai truyền thống Trung Hoa và Tây Tạng đã khiến cho việc tu tập của tôi được phong phú thêm và cũng đã giúp cho tôi thấy Pháp trong tất cả mọi truyền thống Phật giáo, dầu có sự khác biệt bề ngoài và những hình thức văn hóa mà mỗi bên sử dụng.

Sau khi thọ giới, chúng tôi phải được rèn luyện về giới luật nếu chúng tôi muốn giữ giới tốt. Một tân ni sư có thể thỉnh cầu một trong những vị thầy của mình giải thích về ý nghĩa của từng giới, làm gì thì bị coi là phạm giới và làm cách nào để sám hối lỗi lầm. Dầu một nữ tu sĩ Tây phương thường có thể nhận được sự rèn luyện về giới mà không gặp sự khó khăn nào, nhưng việc thiếu chùa dành cho các nữ tu sĩ có nghĩa là họ thường phải xao lãng sự tu tập mà các nữ tu sĩ sống chung trong một cộng đồng có thể có được. 

Là người tu sĩ, trách nhiệm đầu tiên của chúng tôi là phải sống giữ giới cho trong sạch. Giới luật không là một gánh nặng mà là một niềm vui. Nói cách khác, chúng tôi tự nguyện chấp nhận giữ giớichúng tôi biết rằng giới luật giúp chúng tôi trên bước đường tâm linh. Giới luật giải thoát chúng tôi khỏi hành động sai lầm, thiếu suy nghĩ. Sa-di ni giữ mười giới và được chia thành ba mươi sáu tiểu giới; các ni tâp sự giữ thêm sáu giới nữa; tỳ-khưu ni giữ 348 giới như đã được ghi trong trường phái Dharmagupta của tạng luật, có truyền thừa tỳ-khưu ni duy nhất hiện nay. Các giới được chia ra nhiều loại khác nhau, mỗi loại có phương cách tương ưng để đối phó với việc phạm giới. Các giới gốc quan trọng nhất và phải được giữ gìn cẩn thận để được làm người tu. Các giới này bao gồm không sát sanh, không trộm cắp, không hành dâm, không nói dối về việc đắc các pháp,… Nếu các giới này không được giữ trọn vẹn thì người phạm giới phải hoàn tục. Các giới khác nói về sự liên hệ trong ni chúng với nhau, với chư tăng, và với cộng đồng cư sĩ. Các giới khác nữa nói về cách ăn uống, đi đứng, y áo và chỗ trú ngụ. Phạm các giới này có thể sám hối bằng nhiều cách khác nhau tùy mức độ nặng nhẹ: có thể sám hối bằng cách thú tội với vị tỳ-khưu ni khác, sám hối trước chúng tỳ-khưu ni, hoặc phải từ bỏ vật sở hữu có dư hay có được một cách bất chánh…

 

Cuộc Sống Hàng Ngày

Giới luật tạo nên một nền tảng cho việc hành Pháp sâu xa hơn. Là người tu, chúng tôi muốn học và hành Phật Pháp để có thể chia sẻ với người khác càng nhiều càng tốt. Các nữ tu sĩ Tây phương sống trong nhiều môi trường khác nhau: đôi khi trong một cộng đồng - chùa hoặc các trung tâm Phật học - và đôi khi sống một mình. Dầu ở môi trường nào, một ngày của chúng tôi cũng bắt đầu bằng việc tụng kinh và hành thiền trước khi ăn sáng. Chúng tôi cũng làm những công việc cụ thể khác để sinh tồn và giúp đỡ người khác, kể cả công việc nhà. Buổi chiều chúng tôi hành thiền và các nghi thức tâm linh. Đôi khi phải hành thiền vài giờ với một thời biểu đầy kín việc là một thử thách đối với chúng tôi, nhưng vì việc hành thiền và tụng kinh là mạch sống của chúng tôi nên chúng tôi cố gắng hoàn thành những bổn phận đòi hỏi nhiều thời gian này. Khi công việc ở các trung tâm quá bộn bề hoặc có nhiều người cần giúp đỡ, thì chúng tôi thường phải rút bớt thời gian tu tập của mình. Tuy nhiên, làm như vậy gây nhiều hậu quả, vì nếu để chúng biến thành thói quen thì chúng tôi khó giữ giới luật của người tu. Vì thế, hàng năm chúng tôi dành ra vài tuần - hoặc vài tháng nếu có thể - trong thời gian bận rộn của mình cho việc chuyên tu để phát triển công phu tu tập của mình…

 

Vai Trò Của Tăng GiàTây Phương

Từ "Sangha" (Tăng đoàn/ Tăng già/ Tăng bảo) được dùng theo nhiều cách khác nhau. Khi chúng tôi dùng từ Sangha để nói đến một trong Tam Bảo, thì có thể là bất cứ ai - tu sĩ hay cư sĩ - miễn là người đó đã chứng được tánh Không của sự hiện hữu một cách trực tiếp. Sự chứng đắc rõ ràng về thực tại của vị đó khiến vị đó đáng để chúng ta nương trú vào. Trong cộng đồng Phật giáo truyền thống, thuật ngữSangha” (Tăng đoàn) nhằm chỉ một nhóm bốn hoặc nhiều hơn các vị tỳ-khưu đã thọ đầy đủ giới, và người tu sĩ là thành viên của tăng đoàn. Một vị tăng hoặc cộng đồng tăng được kính trọng không phải vì cá nhân họ đặc biệt, nhưng là vì các vị đã tuân giữ giới luật do đức Phật ban hành. Mục đích tối thượng trong đời họ là rèn luyện tâm bằng cách giữ giớithực hành giáo pháp.

Tây Phương, người ta thường sử dụng từ “sangha” một cách cẩu thả để chỉ bất cứ ai hay lui tới chùa. Người này có thể giữ hay không giữ ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Dùng chữ "sangha" (tăng) theo cách này dễ đưa đến hiểu lầm. Tốt hơn hết nên sử dụng nó theo truyền thống.

Cá nhân các nữ tu sĩ cũng rất khác biệt nhau, và bất cứ sự thảo luận nào về vai trò của hội chúng (tăng đoàn) phải lưu ý đến điều đó. Vì Phật giáo còn mới mẻ ở Tây phương, nên có nhiều người thọ giới mà không được chuẩn bị đầy đủ. Sau này một số người khám phá ra rằng cuộc sống của người xuất gia không phù hợp, nên bỏ lời thệ nguyện, ra hoàn tục. Số khác không thể giữ giới trong sạchchánh niệm của họ chưa phát triển vững, khiến họ dễ rơi vào tạp niệm. Do đó khi thảo luận về vai trò của hội chúng (tăng già), chúng ta phải kể đến những người bằng lòng với đời sống xuất gia, tinh tấn thực hành Pháp Bảo để đoạn trừ phiền não và sẽ là tu sĩ suốt đời.

Nhiều người Tây phương nghi ngờ sự lợi ích của Sangha (tăng già). Về mặt lịch sử, dầu cá nhân các tu sĩ đến từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng mọi người đều được tiếp nhận pháp học khi đã xuất gia, vì vai trò của hội chúng (tăng già) là để bảo trì giáo pháp cho thế hệ tương lai. Ngày nay, ở Tây phương, đa số có học vấn và có thể tham khảo Pháp bên ngoài hội chúng, hoặc nghe các nhà thông thái giảng về Phật giáo. Hơn nữa, trước kia chỉ có tu sĩ là có thể có thời giờ để toạ thiền trong thời gian dài để chứng đạt ý nghĩa của Pháp. Ngày nay người cư sĩ cũng có thể nghỉ việc trong thời gian dài để tu thiền. Dựa trên những sự thay đổi này trong xã hội, các cư sĩ có thể tự hỏi, “Vậy thì cần gì đến hội chúng? Tại sao chúng tôi không được coi là một hội chúng (tăng già) trong thời buổi hiện tại?”

Tuy nhiên, với kinh nghiệm của người là cư sĩ trước kia, và nay là tu sĩ, thì tôi nhận thấy có sự khác biệt giữa hai hạng người này. Đành rằng các cư sĩ có thể đảm nhiệm những công việc theo truyền thống chỉ dành cho tăng đoàn - đôi khi làm tốt hơn cả người tu - nhưng vẫn có sự khác biệt giữa người sống theo giới luật (tỳ-khưu ni có 348 giới) thì vẫn hơn người không giữ giới. Những giới luật này giúp ta từ bỏ các thói quen và các phản ứng tình cảm cũ. Một cư sĩ chọn sống ẩn dật, nếu mệt mỏi với sự tu hành cực khổ trong các khoá chuyên tu có thể dừng lại, rồi đi làm việc để hưởng đời sống sung túc. Một nữ giáo sư đại học có thể làm đẹp. Cô có thể tìm thấy mình qua mối liên hệ với chồng con hay bạn bè. Cô có thể từ bỏ một mối liên hệ nếu không được thoả mãn, đó là sự lựa chọn của cô. Cô có thể giảng về giáo lý Phật đà, nhưng cô hoà nhập trong xã hội, không ai có thể nhận biết cô là Phật tử hay tu sĩ. Cô không đại diện Pháp trước công chúng, nên cô có thể dễ dàng ứng xử không theo một khuôn phép nào cả. Nếu cô có nhiều tài sản - xe hơi đắc tiền, quần áo đẹp - và phơi mình trên bãi biển thì cũng không ai thắc mắc gì về những điều này. Nếu cô khoe khoang về sự thành công của mình và chê trách kẻ khác khi bị thất bại thì cũng không sao. Nói tóm lại, sự bám víu của cô trong việc thoả mãn nhục dục, và vào lời khen, tiếng chê được coi là bình thường, và không ai, kể cả bản thân cô, muốn thắc mắc về chúng.

Tuy nhiên, đối với người tu thì khác. Người nữ tu sĩ đã đắp y, cạo tóc nên bà và người chung quanh đều biết bà đang sống theo giới luật. Điều này giúp bà rất nhiều trong việc loại trừ tham, sân khi chúng phát khởi trong cuộc sống. Nam giới biết rằng bà đang giữ đời sống độc thân, nên cư xử với bà khác biệt. Họ và bà khi gặp gỡ, không có chuyện tán tỉnh như trai gái thường tình và cả hai tự chế ngự hành vi nếu như có sự lôi cuốn giữa hai người khác phái. Người nữ tu sĩ không quan tâm đến áo quần hay vẻ bề ngoài của mình. Việc đắp ycạo tóc giúp người ấy thoát khỏi những sự bám víu này, đem lại sự bình đẳng, đồng nhất khi chung sống với các bạn đạo. Chiếc y và giới luật giúp người nữ tu sĩ ý thức về hành động hay nghiệp và kết quả của chúng. Vị ấy dùng thì giờnăng lực để quán chiếu về tư tưởng, lời nói, hành động sao cho có lợi ích cho mình và cho người. Như vậy, dù có ở một mình nhưng sức mạnh của giới giúp vị ấy có nhiều chánh niệm để chống lại những tư tưởng bất thiện. Nếu vị ấy cư xử không đúng phép với kẻ khác, thì thầy tổ, bạn đồng đạo và các cư sĩ sẽ lập tức phản ứng. Việc giữ giới của người tu mang đến nhiều lợi ích cho cuộc đời của họ, mà người không giữ giới sẽ khó lòng hiểu được. Vì thế, thật sự có sự khác biệt giữa cách sống của một học giả Phật tử hay người cư sĩ sống ẩn dật và các tu sĩ. Một nữ tu sĩ vừa xuất gia không lâu đã thổ lộ - dầu trước kia bà là một Phật tử thuần thành trong nhiều năm - rằng trước khi xuất gia bà không hiểu làm thế nào mà bà có thể cảm nhận hay xử sự khác đi sau khi xuất gia. Tuy nhiên, sau khi xuất giangạc nhiên về sức mạnh của sự thọ giới: cảm giác nội tại của một hành giả và sự chánh niệm về các hành vi của bà đã thay đổi đáng kể sau khi thọ giới…

 

Sự Đóng Góp Của Nữ Tu Sĩ Tây Phương

Nhiều người Tây phươngthiên kiến rằng các tu sĩ là những người xa lánh xã hội, không đóng góp gì cho xã hội được tốt hơn. Họ nghĩ rằng các tu sĩ đã trốn tránh trách nhiệm vì không thể đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Điều này không đúng với sự thật. Nguyên nhân căn bản của những vấn đề của chúng ta không phải là các hoàn cảnh bên ngoài, mà chính là những trạng thái tâm bên trong - các thái độ dính mắc vào tham, sân và si. Chúng không biến mất khi chúng ta đắp y, cạo tóc và sống trong chùa. Chừng nào chúng ta chưa thể loại bỏ chúng thì chúng theo ta đến bất cứ nơi nào. Như vậy, làm người xuất gia không phải là cách trốn tránh vấn đề. Đúng hơn là nó khiến ta phải soi xét lại mình kỹ hơn, vì chúng ta không còn có thể tìm quên trong những tiêu khiển như uống rượu, dùng các chất say, đi mua sắm và đi giải trí. Người tu sĩ nguyện loại bỏ cái gốc của khổ đau chính trong tâm họ và cũng hướng dẫn cho người khác làm như vậy. 

Dầu người tu sĩ dành nhiều thì giờ cho việc tu tập, nhưng họ có những đóng góp giá trị cho xã hội. Thứ nhất, giống như tu sĩ của các tôn giáo khác, nữ tu sĩ Tây phương cũng sống đơn giảntrong sạch hầu làm gương cho kẻ khác. Bằng việc tránh tiêu dùng một cách phí phạm hay xan tham, các người tu sĩ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ có thể sống giản đơn và bằng lòng với những gì mình có. Thứ hai, bằng cách hạn chế những khuynh hướng tiêu dùng, người tu sĩ bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai. Và thứ ba, bằng cách sống độc thân, người tu đã hạn chế sinh sản, do đó giúp ngăn chận sự gia tăng dân số! 

Bằng cách thuần hóa "tâm vượn" của mình, các nữ tu sĩ có thể hướng dẫn người khác phương cách thực hành. Khi người khác biết cách thực hành thì họ sẽ sống vui hơn, có quan hệ tốt đẹp hơn, tâm họ ít lo âu hơn và ít sân hơn. Trao truyền giáo lý của đức Phật để loại trừ các phiền não bên trong và giải quyết được những xung đột với kẻ khác là sự đóng góp vô giá mà các nữ tu sĩ có thể mang đến cho xã hội…

Các nữ tu sĩ Tây phương không bị gò bó vào một số áp lực trong các xã hội Á châu. Thí dụ chúng tôi có thể dễ dàng tiếp nhận giáo pháp từ nhiều vị thầy thuộc nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Chúng tôi không bị bó buộc vào các quan niệm lỗi thời từ các thế kỷ xa xưa về các truyền thống khác, chúng tôi cũng không chịu áp lực xã hội là phải trung thành với các truyền thống Phật giáo quốc gia giống như các nữ tu sĩ Á châu. Điều này cho chúng tôi có nhiều tự do trong lãnh vực giáo dục và giúp chúng tôi có thể tiếp nhận cái tốt nhất trong nhiều truyền thống Phật giáo. Nó cũng cải thiện khả năng giảng dạy cho người khác, và đẩy mạnh đối thoại và hoà hợp giữa nhiều truyền thống Phật giáo

Các nữ tu sĩ Tây phương có nhiều khả năng giúp đỡ cộng đồng Phật giáo. Một số là giảng sư, số khác dịch các giáo lý truyền miệng và văn bản, số khác nữa tham dự các khoá tu thiền dài hạn, tạo ra những tấm gương hành Pháp miên mật. Một số nữ tu sĩ làm cố vấn giúp đỡ các hành giả vượt qua khó khăn trên đường tu tập. Nhiều người, nhất là phụ nữ, cảm thấy thoải mái khi thảo luận về những vấn đề riêng tư hay tình cảm với chư ni hơn là chư tăng. Một số nữ tu sĩ làm việc trong các nhà giữ trẻ, nhà nuôi người bệnh sắp chết hay trong các cộng đồng tỵ nạn của quốc gia họ và nước ngoài. Một số nữ tu sĩ là nghệ sĩ, văn sĩ, y sĩ hay giáo sư đại học. Một số nữ tu sĩ chỉ làm việc hậu cần; họ là những lao động chủ yếu nhưng vô hình, sự làm việc quên mình của họ giúp các trung tâm Phật học và các thầy tại trú xứ có thể phục vụ công chúng…


Thành KiếnKiêu Mạn

Người ta thường hỏi chúng tôi có bị phân biệt đối xử vì là nữ giới. Dĩ nhiên là có! Phần lớn các xã hội trên thế giới đều do nam giới làm chủ, nên các xã hội Phật giáo cũng không phải là một ngoại lệ. Thí dụ, để tránh sự khởi tâm trong tình dục, các nữ và nam tu sĩ phải cư trú và ngồi cách biệt với nhau. Vì nam giới theo truyền thống phải là thủ lãnh trong phần lớn các xã hội, và vì số tăng đông hơn ni nên chư tăng thường được nhận những chỗ ngồi và cốc liêu thích đáng hơn. Trong xã hội Tây Tạng, chư tăng được học cao hơn chư ni, nên được kính trọng hơn trong xã hội. Hơn nữa, vai trò tiêu biểu của phái nữ trong tôn giáo cũng hiếm. Ngoài ra, cộng đồng cư sĩ - kể cả nhiều phụ nữ Tây phương - cũng thường cúng dường đến các tăng nhiều hơn là các ni. Tăng đoàn đã có truyền thống nhận tứ vật dụng như: thực phẩm, chỗ ở, thuốc men và y áo, dưới dạng phẩm vật cúng dường từ cư sĩ, trong lúc chư ni gặp nhiều khó khăn trong việc được sự rèn luyệngiáo dục phù hợp vì họ không thể tự trang trải các chi phí sinh hoạt, và phải bỏ nhiều thì giờ, không phải cho việc tu học, mà trong việc tìm kiếm những phương tiện khác để có tiền thu nhập. 

Trong khi các nữ tu sĩ Tây phương cũng phải đối diện với những hoàn cảnh tương tự, nhưng họ thường tự tin, quả quyết hơn và thường tìm cách để chuyển những điều bất lợi thành có lợi cho mình. Do số lượng nam và nữ tu sĩ Tây phương còn ít, nên họ được huấn luyện chung, được học cùng nhau, do đó các thầy cũng chia đều trách nhiệm cho cả hai nhóm tu sĩ. Tuy nhiên, khi tham dự các sự kiện Phật giáo ở châu Á, thì các nữ tu sĩ Tây phương không được đối xử giống như các nam tu sĩ Tây phương. Điều thú vị là người châu Á không để ý đến điều này, vì ưu tiên dành cho tăng đã là điều hiển nhiên nên vấn đề không được đặt ra. Đôi khi tôi được hỏi về sự phân biệt đối xử giữa tăng và ni, nói chung, và nữ tu sĩ Tây phương nói riêng. Tôi không thấy việc bàn cãi về những điều này có ích lợi gì. Đối với tôi thì chỉ cần ý thức được thói quen phân biệt và hiểu được cái gốc văn hóa của nó là đủ rồi, như vậy nó không thể ảnh hưởng đến lòng tự tin của tôi. Rồi tôi cố gắng giải quyết vấn đề theo hướng tích cực. Đôi khi tôi hỏi một cách lễ độ; lúc khác, trước hết thì tôi tìm cách đạt được lòng tin, rồi sau đó lòng tôn kính của người khác. Tuy nhiên, trong mọi tình huống tôi đều sử dụng tâm từ…

Đối với cá nhân tôi, với tư cách là một nữ tu sĩ, việc phải giữ nhiều giới hơn chư tăng không hề là một vấn đề. Giới luật càng nhiều, càng nghiêm khắc, thì chánh niệm của tôi càng được cải thiện. Sự tăng trưởng chánh niệm giúp nhiều cho việc tu tập của tôi và giúp tôi tiến bộ trên con đường đạo. 

Tóm lại, các nữ tu sĩ Tây phương chắc chắn có nhiều khó khăn, nhưng cũng chính những khó khăn này có thể thúc đẩy họ tiến trên đường đạo hạnh. Những phụ nữ có khuynh hướng và khả năng thọ và giữ giới, đang trải nghiệm một vận mayhạnh phúc đặc biệt qua việc tu tập tâm linh. Qua công phu tu tập trong việc chiến thắng vượt lên lòng tham, phát triển tâm từ, và nhận thức được bản thể tuyệt đối của sự vật, các nữ tu sĩ có thể làm lợi lạc cho nhiều người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34220)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16804)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22837)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12979)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21840)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22058)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14820)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23434)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23981)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23520)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17065)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19278)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26914)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14337)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13788)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14668)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17282)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12596)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13771)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10335)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14609)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17136)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12472)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12635)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10302)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28626)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10637)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11066)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16824)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15718)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13289)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11277)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12964)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19241)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12183)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28467)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 9999)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21412)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12750)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17771)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26066)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11643)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10798)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22642)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11983)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10560)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11343)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11479)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant