- 01. Cần một tấm lòng
- 02. Tâm Như Bất thối qua Viên Giác
- 03. Thầy ơi! Sáng giá chùa làng
- 04. Thử bàn về hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang
- 05. Một cái nhìn về thơ Mặc Giang
- 06. Giao cảm
- 07. Nào Có Ra Đi
- 08. Tiếp chuyện với nhà thơ Mặc Giang
- 09. Quê hương muôn thuở
- 10. Ngược gió hương bay
- 11. Tạ ơn người
- 12. Rộng mở nguồn tâm
- 13. Tình Dân Lạc Việt - Tấm Lòng Bậc Đại Thiền Sư
- 14. Hóa Thân
- 15. Hãy bước ra khỏi Vỏ Ốc Mặc Cảm
- 16. Quê Hương Nguồn Cội
- 17. Bến đỗ bình yên
- 18. Hoa song đường
- 19. Một nguồn thơ bất tuyệt
- 20. Lòng Thành
- 21. Mở cửa nguồn tâm
- 22. Sự dàn trải tài tình, nét tinh anh sáng tạo trong"Quê hương còn đó"
- 23. Không bán thơ
- 24. Đọc Nhịp bước đăng trình và Mở cửa nguồn tâm
- 25. Đọc Thơ Mặc Giang “Thấy tưởng Thường, nhưng Hay, Lạ và Đặc Biệt !”
- 26. Đôi Lời Tâm Sự
- 27. Duyên thơ kỳ ngộ
- 28. Thơ Mặc Giang như những dòng sông
- 29. Tìm hiểu bút hiệu Mặc Giang, thi sĩ Mặc Giang và "chất hoa" trong thơ Mặc Giang
- 30. Thấm đậm trong lòng dân gian
- 31. Vài cảm nghĩ về mẹ nhân đọc tập thơ "Hoa Song Đường"
- 32. Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu nghệ thuật
- 33. Khơi dậy sóng tâm tư
- 34. Từ đó khai hoa
- 35. Hành Trình Quê Mẹ
- 36. Mặc Giang không bán thơ đâu
- 37. Nguồn gốc hình tượng rồng Việt trong kiến trúc mỹ thuật chùa tháp
- 38. Gõ cửa giọt không
- 39. Cuộc thi viết online "Mùa hè quê tôi" năm 2008
Một cái nhìn về thơ Mặc Giang
Không Nguyện
(Các vế, câu trong ngoặc kép “”, nhưng ngay trước và sau nó không nêu xuất xứ, cũng là thơ Mặc Giang).
Bàn về thơ của thi hào Mặc Giang, tôi không muốn học đòi cách nói như cụ Võ Đình Cường đã tả trong Ánh Đạo Vàng là “đời Ngài là một biển cả, mà múc nước con chỉ có hai bàn tay”; mà chỉ nói đơn giản, thi phẩm của nhà thơ Mặc Giang là rừng thiêng uy linh bát ngát thẳm sâu, mà tôi là kẻ lạc lỏng ngơ ngác gom nhặt từng ngọn lá lưa thưa. Đem sở học mình để bàn thơ Mặc Giang thì như nhìn trời qua cuộn giấy vo tròn trên tay. Điều thúc giục đằng sau ấy là vì muốn viết cho con cháu Hùng vương; với di sản được kết tinh bằng tâm hồn trí huệ và lòng nhiệt thành của Cha Anh, chúng ta phải nâng niu giữ gìn, cho dù chỉ bằng những giọng tiếng yếu ớt hay bàn tay èo uột dờn xanh. Bằng không, thì có lẽ mẹ Âu Cơ sẽ nhỏ lệ nhạt nhòa trên vách đá oằn lịch sử thời gian, cha Long Quân sẽ tủi mặt khóc thầm giữa non sông gấm lệ.
Trong cái nhìn hun hút tận đầu mạch nguồn, trong tư duy thẩm sâu chắt lọc của những tri âm không lời nhưng vô tận, Mặc Giang muốn chỉ rõ, chúng ta mãi mang máu lệ tổ tiên và hồn sông núi Việt Nam. Chính vì vậy, nên mỗi câu mỗi lời của thi sĩ Mặc Giang đều trên cơ sở hướng vọng về tình thương, tài bồi nhân tính kim cổ cho con người Việt Nam, nhằm xây dựng một giá trị nhân văn, giá trị thẩm mỹ và giá trị triết lý đạo đức vĩnh hằng; và để những áng thi ca của sự dốc hết tâm hồn và trí huệ bình sinh ấy mãi như vang vọng trên hành trình không bao giờ chùn bước, quay hướng hay rẽ lối. Và mục tiêu tối hậu của thi nhân Mặc Giang là chuyển tải vào cuộc đời những giá trị bất biến vừa hiện thực vừa siêu thực, để chúng mãi mãi là đại diện cho đặc hình của giá trị ngữ ngôn ngữ bất hủ trên dòng chảy của đời sống hữu thể sống động này, mãi mãi là nơi ký thác tạo tựu tâm linh, tâm hồn và trí huệ cho bao mảnh đời khổ vui. Tất cả thể hiện ra làm sao trong toàn bộ tác phẩm cuộc đời của thi nhân Mặc Giang, đó là nội dung khiên tốn mà người viết muốn trình bày.
1. Nhân sinh quan
Quan niệm, quan điểm về bản chất hay nguồn gốc con người và vạn hữu, là thuộc triết học hoặc siêu hình học, đã có minh sư hiền triết trình bày dưới nhiều quan điểm và dạng thức khác nhau. Tùy mức độ trí tuệ nhận thức của loài người, mà quan niệm đó được nhìn nhận đánh giá thông qua những giá trị khác nhau.
Trong dòng sống không thể hình dung đâu là khởi thủy này, sự xuất hiện mỗi tư tưởng, vừa được xem là sự tiếp thu một cách sâu sắc, thông minh, biết phân tích và sáng tạo về triết lí nhân sinh, nhưng cũng vừa là một tư tưởng đột phá tuyệt siêu. Tư tưởng đại diện trong một thời đại nhất định nào đó, tuy được xem là sự thống nhất hài hòa của xưa và nay, tiền bối và hậu bối; thế nhưng giá trị sau cùng vẫn chính tùy thuộc trí tuệ sắc sảo nhạy bén, biết suy tư và chiêm nghiệm một cách thông minh, sắc bén, thuần chính. Từ góc độ này để nhận định đánh giá một tư tưởng lớn, thì dù muốn dù không cũng phải khẳng nhận rằng, tư tưởng thơ Mặc Giang đã chiếm một vị thế ổn định sáng giá trong dòng tư tưởng viên dung giữa triết lí hiện sinh và triết học tư biện. Xuyên qua ngòi bút kiều diễm, lời thơ thống thiết như đang chắp cánh bay vào cuộc sống để cải tạo cuộc đời của ông, chúng ta sẽ có cơ hội có được cái nhìn, cách nghĩ cuối cùng độc lập khách quan đối với tư tưởng thơ Mặc Giang.
Qua thơ ông, ta thấy cái gọi là vạn hữu vũ trụ có mặt từ thuở hồng hoang, hay kiếp sống con người lan trải rộng dài trên vạn nẻo đường luôn trong trạng thái diệt sanh, sanh diệt nhanh hơn dòng thác lũ. Sống và chết, chết và sống là những cõi đời vô định phiêu lưu. Xưa nay, những biến cố hải chấn, địa chấn và bao tai họa khác làm hàng ngàn hàng vạn người “mới ngày nào những ân tình trìu mến, mới ngày nào những bịn rịn chia xa” đột ngột đi vào cõi chết đến não lòng, thì ai cũng sẽ thấy:
Sống và chết, không kịp chia tích tắc
Có khi chết một cái ào, tím ngắt
Có khi chết một cái ào, im re
Có kinh chết, một cái ào nín khe
Thật mơ hồ, trông còn hơn mộng mị
(Bảo vệ hành tinh xanh)
Sự biến chuyển từ mạch sống hân hoan trong dệt mộng ươm đời hạnh phúc, đến cái chết kêu ông xanh không thấu, gọi bà dày không hay như thế, đúng còn hơn cả chiêm bao. Trong thế giới đối đãi, mộng thì không phải thực, mà thực thì không phải mộng, nhưng giờ thì không thể phân ranh xẻ giới. Vì “chết thật tình mà nghe sao vô lí,… mới đó mà trôi về một cõi lãng quên, mới đó mà lung linh mờ cát bụi”. Triết lí về vô thường biến hoại ở đây khiến ta ý thức được, “trong hội ngộ đã sẵn mầm chia li…”. Đồng thời với ý thức này, người ta càng thấu biết “trong tích tắc, biết bao nhiêu sự chết, chứ đâu cần một đêm với một ngày…”
Hình ảnh thân thiết gần gũi sau chết chóc li tan, là hiện trạng chua chát phủ phàng, khiến con người thêm chán ngán về sức mạnh của vô thường, là hình ảnh một chiều nào đó:
Đi trong nghĩa trang chợt nhìn nấm mộ
Nắp quan tài vỡ một lỗ tan hoang
Nhìn vào trong tôi rún rấy bàng hoàng
Một đầu lâu với xương khô vụn vỡ
…Nấm mộ kia một thời nào kiếp trước
Nắm xương tàn còn sót lại phôi phai
(Vào cửa tử tôi tìm về cõi chết)
Lối nhìn nhận, quan niệm sâu xa thống thiết về lẽ sống như thế, biết đâu có ai đó trong cõi Diêm phù ngộ tưởng là cái nhìn thiếu lạc quan, buồn tẻ thê lương; sao không thả mộng hồn say phách tán cho chuỗi ngày hoan lạc dương gian, mà lại trầm ngâm với nỗi buồn não nề cõi chết. Đâu không biết rằng, trốn chạy, phớt lờ, không đủ nghị lực đối diện sự thật muôn đời, khiếp sợ đến nỗi không dám nhìn, không muốn bàn, mất tiết khí chí dũng trong đời mới là bi quan. Tội nghiệp, và xót xa biết bao !!!…
Trong cái gọi là “sống và chết gảy cung đàn bất tận” hay là “tử sinh hai nhịp vơi đầy, cung đàn sống chết còn đây vô thường” ấy, là có cơ hội để con người tiếp xúc với triết lý trong dòng sống chết luân lưu. Đó là tiếng chuông báo động về luân hồi. Ý thức, ý niệm về luân hồi là một trong những nét son về triết lí hiện sinh nổi bật trong thơ Mặc Giang. Trình bày về ý này, Mặc Giang nói :
Khi dòng sinh đã bắt đầu chuyển mạch
Thì dòng tử mở ra một cõi đi về
Hoặc
Khi cõi sinh hiện ra thêm một vệt
Thì cõi tử lại trống mất một ô
(Tôi bước đi giữa đôi bờ sinh tử)
Mặc Giang chỉ ra, sống và chết chẳng phải hai cõi riêng rẽ phân thù sai khác, mà tương quan mật thiết bất khả phân. Nó là một vòng tròn khép kín liên tục; ngay khi mạch sống mới bắt đầu hé nụ, thì mầm chết đã kết trái trên cánh hoa tàn. Để có một chúng sanh thọ thai ở nơi này, thì trước phải có một chúng sanh ở chỗ khác qua đời. Trong Vạn Hữu Trường Ca, phần Ma Quỷ thân thương, Mặc Giang tả : “Kìa em bé vừa sinh ra đó, trên dương gian bỏ xó một người. Em cười mở mắt sáng ngời, đã tan hồn phách của người trần gian.” Em bé quỷ con mới sinh ra đó, không ai lạ mà chính là tái sinh thoát kiếp của một linh hồn của kiếp người. Tác giả lại khẳng định thêm :
Sáu nẻo xuống lên là chi nhỉ !
Bốn loài sinh tử tợ chiêm bao !
Xa xưa như mới hôm nào !
Ngày mai mờ mịt cớ sao đón chờ ?
(Vạn hữu trường ca)
Trong mạch tử sinh luân hồi, toàn là những kiếp thác thai bất định; hôm nay là người, nhưng mai kia là kiếp sống thay hình đổi dạng trong mạch tương lưu giao cảm của kiếp hữu tình. Con người sau khi chết không nhất định tái sanh trở lại làm người, mà tái sinh xoay chuyển vào sáu cõi bốn loài, bởi con người không phải là chúng sanh duy nhất. Do đó có thể kết rằng “tử là điểm ngừng mà sinh là tinh ba xuất phát, linh tri đó ứng tùy một thân khác, chiêu cảm cùng vạn hữu khứ lai”, và vì khi “đã đi thì không phải là hai, nhưng khi đến là hai chứ không phải một, như một bản trường ca tương tục âm thanh nhiều nốt…”. Chết chỉ là đánh dấu bước ngoặc chuyển tiếp trong dòng sống luân lưu vô tận, còn linh tri hay linh hồn tiếp tục trong một đời sống mới, như mặt trời tuy lặn nơi này nhưng thực tế đang mọc ở nơi kia. Thì ra “giữa tử sinh có sợi dây vô hình kì diễm, như bản trường ca sinh tử vô cùng.”
Thế nên, chết là một hiển nhiên đau thương ngàn đời hiển hiện, nhưng chỉ là huyễn hữu như giấc mộng phù du, vì “lang thang từ kiếp luân hồi, mà không thật có có luân hồi cưu mang, vẽ lên lối dọc đường ngang, lối dọc biến mất lối ngang không về, tử sinh sinh tử lí hề!”. Cả nhân gian sinh tử luân hồi thống khổ mà chỉ như một trò hề, nhưng sau hiện tựơng sống chết ấy là cái không từng sống chết.
Triết lý về sống chết của nhà thơ Mặc Giang cho chúng ta hiểu rõ, hai bờ sống chết là trên cùng một mạch tương thông, mà ở đó đâu còn nghe tiếng gõ nhịp của thời gian, giá trị thời gian không thể thiết lập. Theo Mặc Giang, ý niệm sanh và tử chỉ là danh từ của tương quan đối đãi trong những giả định về thời gian. Xuyên qua đó, nhà thơ cũng đã chỉ ra, trong hiện tại cũng có mặt xa xưa, và trong xa xưa cũng vốn đeo bòng cái hiện tại sống động này đây, và tương lai càng không thể thiết lập và minh định. Thông qua chuỗi luân hồi sáu nẻo, Mặc Giang cho chỉ chúng ta nhận thức được triết lý về thời gian theo Kim Cang Kinh, là “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” Ý thức được sự tương quan giữa ba khoảng thời gian ấy, là cơ sở để chúng ta càng hiểu rõ:
Mồ hoang như ảnh ảo huyền
Thân như bèo bọt người thuyền phiêu du
Từ trong vũ trụ thâm u
Em như điểm sáng thiên thu vẫn còn
(Vô tình thăm mộ hoang Bé Thơ)
Em ơi ! buồn khóc mà chi, tiếc thương mà chi ! nấm cô mộ lạnh lùng đến tàn nhẫn ấy, nào phải hình hài đích thực của em, nó chỉ là “ảnh ảo huyền”, em vẫn còn mãi giữa thuyền đời vô tận đó nghe em! Tôi đã thấy rồi, em ra đi lang thang từ ngàn xưa và cho đến cả mai sau. Do đó nên biết tuy là “đường sinh tử đã mòn lối cũ, nẻo hợp tan đã phủ bao lần, bụi mờ rũ bóng phong trần”, nhưng em và tôi vẫn chưa hề sống hay chết, vẫn là “trăng sao chưa nhạt, phù vân chưa nhòa.” Đây hẳn là sự tương quan giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa hữu hình và vô hình…. Trong sanh diệt, tồn tại cái không từng sanh diệt; đó là chân thể bất biến, là linh tri vĩnh hằng. Sống và chết có mặt trong nhau, là sự tương quan :
…Sông với nước chung đôi một bóng
Nước với sông một bóng chung đôi
Trăm năm cũng chỉ một đời
Nghìn năm cũng chỉ một lời nước sông.
(Vạn hữu trường ca)
Lìa sông thì đâu còn nước, không nước thì sao có thể thành sông; sông nước chỉ là hai khái niệm được thiết lập trên trục tương quan đối đãi; thực chất là một quan hệ đẳng thức. Trong sinh diệt có cái bất sinh diệt, trong ra đi đã có sự hứa hẹn trở về, và trong cõi đi về đã có sẵn ngày biệt li. Qua trình bày triết lý về dòng sinh mệnh, Mặc Giang chỉ ra, không cần phải né tránh cái chết, và đi tìm cầu sự sống, vì cả hai vốn có mặt trong nhau, vốn có quan hệ “sông với nước chung đôi một bóng, … sông đã có cớ chi nhớ nước, nước đã hòa một thể cùng sông.” Hiện tượng sóng đào bọt bèo phập phều của sông không vốn không tách rời bản tánh bất biến của nước. Cái hạn hữu sinh diệt sinh diệt theo thời gian và ý niệm, nào có cách biệt với cái bất sinh diệt.
Vậy nên chớ khi sinh ra mới bảo là có, chớ khi chết rồi mới nói là không, vì “có từ thuở hồng hoang mờ ảo, có không không có lưu linh vậy mà.” Nên nếu bảo rằng không, thì phải không ngay lúc ra đời. Nếu nói có thì phải ngay khi không. Ý niệm về “có- không”, không nên để bị đánh lừa bởi thế giới hữu hình, vô hình, hay bởi kiến văn giác tri thường thức. Mặc Giang còn chỉ rõ thêm, “sinh là lúc từ không ra có, tử là thời từ có ra không, có không một thể tương đồng, duyên còn ta có đến không ta về”. Vì “có không một thể tương đồng”, nên chớ khi sanh mới nói là có, khi chết rồi mới nói là không. Cả hai đều vần vũ có mặt trong nhau. Hiểu được vậy, cũng chính là lúc ta huênh hoang hát lời ca trên đồng hoang sinh tử:
Từ trong cát bụi tử sinh
Ta xin nhớ lại bóng hình của ta
Từ trong tỉnh mộng đêm qua
Ta xin nhớ lại quê nhà xưa nay
(Ta đây, hiện hữu vô cùng)
Do thông suốt lẽ sinh tử, nên nơi đây, thi nhân chỉ rõ thêm, lặn hụp chơi vơi trên từng nhịp bước tử sinh như sự chuyển tiếp của sóng mòi, như cát bụi hư nát phủ mờ dòng sông, thế nhưng bản tánh chân thân chưa từng biến chuyển đổi thay. Ra đi biền biệt trong dặm trường tử sinh, nhưng ta nào có ra đi, mà đã và đang trở về với ngôi nhà chân thể. Thế nhưng trở về mà thật sự đâu có trở về, vì có ra đi bao giờ đâu mà trở về; ngôi nhà quê hương xưa ấy vốn ở ngay trong mọi sinh linh. Từ đó, sẽ vang vọng “tiếng hát chưa tan” :
Tôi đi từ chỗ không đi,
Luân hồi không đến ngại gì có không
Tôi đi pháp giới rỗng không,
Tôi về vạn hữu hằng còn hiện ra
(Sắc không mỉm nụ vô cùng)
Tại đây, quan niệm về nhân sinh và vạn hữu của thi hào Mặc Giang đã đưa chúng ta đi sâu thẳm hun hút tận cùng của lối về tĩnh lự, để phóng cái nhìn sâu thẳm vào diệt sanh của dòng đời, vào hữu hạn của kiếp người. Con người lù lù một đống ấy vì không thật có, nên nói rằng sinh ra từ chỗ không sinh, mà chết đi cũng chẳng phải đi vào cõi lung linh ảo huyền. Đi hay về, sống hay chêt, chỉ trên cùng một mạch tương thông lưu cảm, nào có ngại gì “có” với “không”. Pháp giới còn đó nhưng lại hằng rỗng không, vạn hữu rỗng không nhưng không khi nào không hiện hữu. Từ trong hữu thể mà thấu đạt vô thể, từ trong hữu cùng mà thấy rõ vô cùng, nhà thơ lại dẫn chúng ta trên lộ trình đi về “nguyên sơ, còn đó bóng hình” :
Vỡ toang, chấn động ba ngàn
Mười phương thế giới chưa tràn chân lông
(Ta đây, hiện hữu vô cùng)
Cả vũ trụ mênh mông, cả càn khôn trong mười phương thế giới khôn cùng như thế, nhưng lại nhét chưa đầy chân lông. Theo chiều hướng tư duy thông thường, sẽ thấy thật qúa vô lý, nghịch biện, làm cho choáng voáng, vo đầu bóp trán. Thế nhưng nhà thơ Mặc Giang chẳng phải chỉ nói rõ sự thật muôn đời, chân lí vĩnh hằng đó sao. Ba ngàn cõi nước và mười phương thế giới chỉ là có ở hiện tượng phù phiếm huyễn hóa, như hoa đốm trong hư không, bởi lý thể nó là không. Nhờ “không” mà thiên hà đại địa và con người có mặt. Lìa “không” thì ngay một vi trần cũng không thể tựu thành. Pháp giới tuy thiên hình vạn trạng, nhưng thực chất không thể nắm bắt và khái niệm. Do đó “mười phương thế giới chưa tràn chân lông” chính là triết lý “sắc chẳng khác không, mà không cũng chẳng khác sắc”. Tuy như thế, nhưng thực ra nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ chẳng phải dừng lại ở chỗ minh định sự không khác nhau giữa không và sắc, mà chính đang triển khai tư tưởng biện chứng về mối quan hệ tương tức tương nhập, mở ra một “cõi đi về” trong vô thỉ vô chung, đó là “sắc tức là không”, và “không cũng tức là sắc”. Đó chính là thông điệp của “pháp huyền vi có mặt từ nhịp bước vạn đường… có với không thật ra chỉ một chữ, không với có thật ra chỉ một lời”. Từ đây, nhân sinh quan của nhà thơ như nhắn gởi cho nhân loại hiện tại này và mai sau khúc ca chứng đạo bay vào cát bụi của kiếp người, là “đã không thì mấy cũng vừa, có thì một điểm cũng thừa mà thôi”
Thông qua nguyên lí sắc không ấy, thi nhân đã mang lại cho con người cái nhìn triệt để tận cùng huyền vi. Con người và vũ trụ vạn hữu chỉ sanh diệt còn mất trong thế giới hiện tượng, còn bản thể thì chưa từng sanh hay diệt, đến hay đi... Chính nó tự tiêu dung trong những phạm trù khái niệm đối lập. Thế giới và nhân sinh vốn tồn tại từ vô thỉ, nhưng cũng chính là vừa xuất hiện ngay trong đương niệm. Tất cả vạn hữu trải dài trong vô tận, không ngằn mé, nhưng cũng chỉ là nhét chưa đầy chân lông cọng tóc mà thôi. Chúng ta thấy rõ rằng, trong quan niệm về nhân sanh vạn hữu, nhà thơ Mặc Giang đã vo tròn đơn vị không gian và thời gian thành một khối “nhất chân”, không tìm đâu ra, nhưng không đâu mà không có; không đâu không có nhưng lại là mất hút tự ngàn xưa và chưa từng lên tiếng bao giờ.
Ngay khi nói “sắc chẳng khác không”, là thâm ý Phật Tổ đã mốn nói “sắc tức là không” rồi. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại đưa ra luận thuyết về sự tương quan giữa sinh tử và không sinh tử, giữa hiện tượng và bản thể, hay nhân sinh là vô thường biến chuyển, luân hồi, khổ đau, không thực có. Mục đích tối hậu mà nhà thơ Mặc Giang, chính là muốn chỉ ra, muốn thắp sáng cho cuộc đời là nguyên lí duyên khởi của sự vật; đó là một chuỗi móc xích liên hệ vô cùng, cái này có nên cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì mang tính duyên khởi, nên vô ngã vô thường khổ đau và luân hồi. Vì duyên khởi nên tánh vạn pháp là không. Tánh của vạn hữu là không là vì duyên khởi.
Nhờ sự chiếu rọi của ánh sáng duyên khởi, con người mới hiểu rõ, sinh tử sở dĩ có mặt là do sự khơi đông của sơ niệm vô minh, là sự khơi ngòi của tiến trình luân hồi và khổ đau. Cho nên nói rằng vô minh là cái bất giác đầu tiên trong tiến trình duyên khởi của dòng sống. Mà những gì được vận hành dưới nguyên lí duyên khởi thì không thật. Nên vô minh không có cái ngã tồn tại biệt lập, vì vậy có thể chuyển hóa. Chỉ khi nào chuyển hóa hay chấm dứt vô minh, mới chấm dứt mọi tiến trình sống chết. Vậy, đưa ra cái nhìn về sự tương quan giữa bản thể và hiện tượng của dòng sinh mạng con người, nhà thơ Mặc Giang muốn không những chỉ có chỉ ra cho con người hiểu rõ bản chất dòng sống là duyên sinh, không có một cái ngã độc lập, mà còn muốn nói rằng, trần gian là hoàn toàn có thể cải tạo chuyển hóa, khổ đau có thể chuyển thành an lạc.
Từ những gì đã đề cập khái quát sơ lược trên, chúng ta thấy nhà thơ Mặc Giang có cái nhìn thẩm thấu, trầm thống, sâu sắc về những giá trị vĩnh hằng và khiếm khuyết của nhân sinh. Cái nhìn này đương nhiên đã được sàng lọc qua sự phân tích hợp lý, thực nghiệm, kinh nghiệm sâu dày của con tim và khối óc. Con tim đã từng rung lên từng nhịp đập yêu thương cuôc đời, khối óc đã bao kiếp rồi thẩm thấu liễu tri những vụn vỡ thành hoại của dòng sống. Từ đó, cho chúng ta càng thấy rõ, nhân sinh quan của ông hơn lúc nào hết, cần được tư duy phân tích một cách chín chắn, siêu việt những giá trị khoa học thường thức, để đi đến tiếp nhận như không khí và hơi thở. Nếu không, thì những giá trị quý báu chân thực về quan niệm nhân sanh sẽ đi vào hư ảo méo mó, rỗng không và tụt hậu.
Có được cái nhìn về nhân sinh và vũ trụ như thế ấy, không biết tự lúc nào, đã tạo nên một Mặc Giang hiên ngang đầy nghĩa khí, đã “nện một khèo, ứ nự, giáng một búa, thất kinh… hỏi làm chi vũ trụ”, rồi chụp bắt tầng không trong bàn tay, để mà “gom ông trời một bọc, gom trái đất một bao, như đời tôi một túi”. Và đã tuệ tri ,“tay cầm chuỗi hạt chưa lần, Long Hoa đã hiện, Linh Sơn chưa tàn.” Vậy phong thái sống cụ thể đối trước cuộc đời, với còn mất vinh nhục ra làm sao, thiết nghĩ, chỉ cần tìm hiểu hướng sống vài chí khí, nghĩa tiết thể hiện trong vài thi phú tuyệt tác của Mặc Giang, thì cũng bổ ích cho thế đạo nhân tâm lắm rồi ! không thì chẳng phải đáng tiếc lắm sao!
2. Hướng sống
Như chúng ta đã biết, thơ là kết tinh tinh hoa của tâm hồn, là tiếng nói trung thực và rung động chân thành của nhịp đập cảm xúc. Trong Linh hồn hay yếu tính thi ca, học giả Nguyễn Thế Đăng nói: “bao giờ thơ cũng là lời thể hiện sự sáng tỏ của một con người trước tực tại… Thi sĩ là sứ giả, là người mang lời nói của Đạo và lời nói ấy hẳn là một thông điệp. Thi sĩ là người chăn dắt cái vô hình vô tướng. Nuôi dưỡng cái vô hình là làm xuất lộ nó trên bình diện hữu hình của ngôn ngữ, đó là sứ mạng của thi sĩ xét như là thiên sứ, như là nhà tiên tri ”. Rõ cho thấy Thế Đăng giúp chúng ta hiểu rõ thêm giá trị bất hủ của nội hàm và ngoại diên của thi ca hay.
Với những đặc tính nêu trên của thi ca, càng cho chúng ta thấy rõ tiếp xúc với thi phẩm và Mặc Giang, cho chúng ta nhận ra được diễn biến tâm tư qua biểu đạt ngôn từ như một thần lực trong thơ với con người đích thực của thi nhân là một nhịp hòa điệu. Để rồi, cốt cách thể hiện trong thi phẩm, càng cho chúng ta hiểu nhiều hơn, sâu hơn về thái độ và một hướng sống chí thiện.
Giữa biển đời quay tít mù khơi, giữa vật lộn bon chen trong dòng sống hoa lệ, khổ đau, thành bại nhục vinh, đổi thay của thời cuộc và ấm lạnh tình người, thi nhân đã nện những bước chân vững chắc, đầu ngẩng cao hướng về phía trước, đôi mắt sáng ngời nhìn tới tận trăng sao.
Bước đi trong đời giữa bốn mùa hoa lá, giữa gió nắng mênh mông đong đầy cát
bụi dặm trường, chúng ta bắt gặp ngay hình ảnh của một người phiêu du vô định,
trước phiền toái của thế sự, thì biết “quên đi cho cạn ưu phiền, bỏ đi cho
sạch đảo điên cuộc đời…” Đó cũng là hình ảnh anh khùng đang ngao du cùng khắp
thiên hạ. Bên cạnh những người “giàu sang, phú quý, keo kiệt, bòn chài”, là
hình ảnh được ngòi bút phóng khoáng của thi nhân Mặc Giang mô tả:
…….Ngủ khắp nơi đâu chẳng phải là nhà
Giàu có quá ta, chẳng có chi mà dư thấy bà
… Đâu tham lam, nhỏ mọn, hẹp hòi, ích kỉ
…Danh lợi, quyền uy, đem nhét một bồn binh
Bỏ trong túi tanh hôi, ôm mối sầu vạn kiếp
Lâu lâu móc ra coi, nó kêu đồ oan nghiệt….
Người khùng “tội nghiệp” !!! khó có tỉnh nào theo cho kịp, hiếm trí nào sánh cho ngang, bởi khùng mà khiến trời đất nghiêng mình, gà tàng mà làm “ngân hà xao xuyến tiếc hơn thua !!!”. Khùng để thấy rõ danh lợi quyền uy đã trở thành đồ phế liệu tanh hôi, nên cho vào một xó như đôi dép bỏ; nhỏ mọn, ghét ganh, tật đố … quẳng một gánh cho trôi sông. Đó cũng chính là thái độ “lợi danh rao bán không mua, ngàn vàng ế ẩm dư thừa mà thôi.”
Không biết cốt cách ấy đã tạo ra sự phóng khoáng “đi khắp đất đâu nơi nào có cửa”, hay chính thái độ xem “ngủ khắp nơi đâu chẳng phải là nhà” đã phác họa nên người khùng ấy, rồi hát tặng nhân gian lời xình xoàng: “tôi bước đi trời cao điểm tựa, tôi bước đi đất rộng tương lân, trời xanh không vướng đầu trần, đất màu chẳng vướng bước chân dặm dài.” Mây với nước cái nào có trước? nếu nói một trong hai rơi vào trước hoặc sau, thì lập luận chỉ là một vòng xoáy li tâm. Bước đi mà “đầu không vướng trời, chân không vướng đất” ấy, là hệ qủa của con người đích thực của tác giả; hay chính phong thái ấy đã tạo tựu chân nhân của tác giả, thật vi tế, khó mà quan niệm cho được. Trong thước đo thời gian để đặc định về hiện hữu giữa con người chân nhân và phong thái, thì đó là bước chân dung dị bình thường nhưng rất đỗi phi thường. Trước, trong và sau khi đạt được phong thái thong dong, thi nhân đều đã chiêm nghiệm được “lợi danh, là một bãi phù du lầy lội. Cuộc đời, là một bãi nhiễm thể phù sinh, trôi bồng bềnh những cặn bã nhục vinh, và bầm dập những rong rêu thành bại ”. Đồng thời, tại đây chính tác giả cũng âm thầm thức tỉnh thế nhân, “công danh giàu sang như mây nổi, năm tháng đời người tợ tên bay” (HT Thanh Từ dịch, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, sanh tử nhàn nhi dĩ)
Xem nhục vinh, lợi danh, thành bại đều là thứ lầy lội cặn bả rong rêu, khiến “anh khùng thế kỉ ”--- khùng mà mở ra một chân trời cao rộng đi về “viễn xứ”, khùng “chẳng có chi mà dư thấy bà” ấy chẳng biết làm chi ngoài :
…Góp nhặt lá vàng trên những con đường sỏi đá quanh co
Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ ngáy kho kho
(Tôi chỉ là một ông thầy tu).
Tuy rất bình thường, nhưng nếu làm việc này lại là người “chẳng có chi mà dư thấy bà”, thì lại siêu thường. Phải chăng đây là phong thái “đói thì ăn chừ cơm tùy ý, mệt thì ngủ chừ nào có quê hương… Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ, khát uống no chừ thang tiêu dao.” (HT Thanh Từ dịch, TTTS ngữ lục, phóng cuồng ca). Những món như cơm tùy ý, đất hoan hỉ, thang tiêu dao, vì siêu thực, nên không tìm đâu ra, nhưng cũng không ngoài cái thực, nên không đâu là không có. Ở đây, tác giả lại vì “đốt bếp lên hâm chẳng có lò”, nên ăn uống như là việc vào rừng không động lá, vào biển không quậy sóng, dọc ngang cùng khắp mà chẳng rơi vào “có” “không”. Đây hẳn chính là lúc chúng ta bắt gặp một người mà :
Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ
Đưa không nhận, đẩy không cho
Đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt
(Tôi chỉ là một ông thầy tu)
“Kinh luân trống rỗng, lúa thóc thủng bồ” là cái nghĩa khí phi thường của đấng trượng phu. Nếu nói đủ thì chỉ cần một chữ cũng đã đủ, nếu không đủ thì ngàn vạn lời cũng là trống không. Đó cũng có thể là gia tài kếch sù nhưng nhìn không thấy, không thấy nhưng lại sờ sờ trước mắt, đổ hoài không đầy, lấy mãi không cạn. Nên không thèm nhận, mà chẳng cần cho. Khi tác giả ung dung trên con “đường không đến, nẻo không đi, không thêm không bớt”, là lúc:
Cõi trần gian, an lành, xáo trộn, vẫn bỉnh bơ !
Lòng thế nhân đãi bôi, hờ hững, con cóc khô !
(Tôi chỉ là một ông thầy tu).
Người ta thường đảo điên choáng voáng trước khen chê, nguyền rủa, được mất, thịnh suy… Mặc Giang xem nó chỉ là trò huyễn hoặc, là con cóc khô. Sự an nhiên, điềm tĩnh trước những nóng lạnh tình đời này càng khắc họa rõ chân dung một hiền sĩ trí dũng, đúng là : “như tảng đá kiên cố không lung lay trước gió; cũng vậy, người trí bất động trước bình phẩm khen chê của thế gian”. (kinh Pháp Cú, câu 179 ). Đạt được sự điềm nhiên tĩnh tại này, cũng chính là muốn bảo với thế nhân:
Đó là mới thật thâm sâu
Tiểu nhân, quân tử, trước sau khác gì
Trăm năm một cuộc cười khì
Cười như tùng bách xanh rì trăm năm
(khôn chết! dại chết ! biết sống)
Thế đó, cuối cùng rồi thông minh tài trí anh hùng, ngu si dại dột đều chỉ một nấm mồ. Cho nên, đối với Mặc Giang, cuộc đời với bao biến cố tang thương, bao vùi dập hư vinh nổi trôi ấy chỉ là một cuộc cười khì, cái cười của tâm hồn đồng điệu với hiền Thánh, xót xa thương cảm cho cuộc đời. Đó là cái cười vang tận không gian, vượt thời gian để đi vào vĩnh hằng, nên cái cười ấy trở thành cười như tùng bách xanh rì trăm năm. Không biết tự bao giờ, cái cười đơn sơ thường hằng ấy đã vang tiếng nói của “tao nhân mặc khách trong trời đất”, đó chính là tiếng nói tận chiều sâu thăm thẳm tâm linh hay chính là thái độ hướng sống tích cực hơn:
Ngao du sơn thủy cho cùng khắp
Để tặng nhân gian một nụ cười
(Chia chung NỤ CƯỜI)
Và bây giờ trong mỗi bước chân ngao du cùng khắp sơn thủy, hay trong lối sống như Trần Tung là “gió mát trăng thanh sanh kế đủ, non xanh nước biếc nếp sống đầy” ấy, là cái cười của đầu nguồn mạch Tào Khê, chảy xuyên qua dòng lịch sử, hòa vang trên cao xa, nhưng lại quyện lấy hồn sông núi quê hương, thỏ thẻ thì thầm với mỗi cá thể trong dòng đời. Bấy giờ ở đó là hình ảnh của một người du thủ không nhà, nhưng không đâu chẳng phải là nhà; chính vì đã tự xác định, “cuộc đời tôi, một cuộc đời viễn mộng, bước phiêu du, như khúc rẽ dòng sông, đi đi mãi giữa đất trời lồng lộng, đi cho cùng điếm cuối cũng như không.” Mỗi bước chân phiêu du là bước chân đi về vô định, không quay trở lại như khúc rẽ của dòng sông; đi mà như chưa từng ra đi, là phong thái trượng phu nghĩa khí, lúc nào cũng an vui tĩnh tại. Đó cũng chính là cuộc sống “chẳng cần cửa tía, chẳng cần rừng, rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm.” (HT Thanh Từ dịch, TTTS Ngữ lục, viếng Đại sư Tăng Điền), tức không màn phố thị giàu sang lòe loẹt hào nhoáng, cũng không thiết chốn rừng rậm tĩnh mịch, mà tâm vẫn an nhiên trầm tĩnh. Rồi từ đó tác giả tiến thêm một bước khẳng định:
Cuộc đời tôi, đi nhưng không cần đến
Mỗi thời không chỉ là điểm dừng chân
(Bức lụa ngân sương)
Hướng sống chân chính là sống với tinh thần đi để mà đi, chứ không phải đi để mà đến. Đi để mà đi là bước đi ổn định, không ước vọng ngày mai, không tìm cầu quá khứ, biết sống trọn vẹn với hiện tại; vì theo Mặc Giang, “cái hôm qua, không là của hôm nay, cái ngày mai chỉ là một bến đợi”. Nếu cho rằng có một đích đến, là tự giam hãm mình trong thành trì của bước hãm tiến bộ tâm linh, tự nhốt mình trong lâu đài tự mãn. Nếu đi để mà đến, là tâm trạng “vì không biết, nên âu lo, sợ sệt; vì không thông, nên hoảng hốt chẳng yên”, không phải là tâm thái “đường thênh thang, ta cứ bước thong dong, Cứ vui sống và hòa reo vạn hữu” của phong độ đi để mà đi.
Thế rồi, từ bước chân đi mà không cần đến, khiến kẻ không nhà đi không biết mệt mỏi vào đại tạo vô cùng, thoải mái như cánh chim giữa trời không:
Tung cánh gió, nhấc mình xa điểm tựa
Bổng lưng trời, xé từng khoảng không gian
Vượt mênh mông, cỡi sóng lướt mây ngàn
Trong bất bận, tôi lù lù lao tới
(Đại bàng tung cánh gió)
“Tung cánh gió, Bổng lưng trời, lướt mây ngàn” là hình ảnh cụ thể chân thực, thân thiết nhất về một cánh chim rong chơi không biết mỏi mệt giữa thú vui non nước điệp trùng. Hình ảnh này khắc họa sự không vướng kẹt vào tình đời, không bị ràng buộc bởi thế gian lụy phiền như danh vọng quyền bính, hay không gian thời gian. Tâm hồn thênh thang, không bị khống chế vùi dập trói buộc bởi cảm xúc hay ảo ảnh trần gian này, là sự hòa điệu nhất quán với phong thái :
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
(HT Thanh Từ dịch,TTTS Ngữ lục, phóng cuồng ca)
Thênh thang của đất trời không vướng, thong dong của mây ngàn trên đỉnh Thượng thừa đã vẽ nên một tâm hồn đầy nhiệt huyết, nhiệt thành, mạnh mẽ, tự tin, biết rong chơi trong một phương cõi ngoài phương cõi, không phải là không phương mà là một phương cõi không phương, để ngàn đời mây trắng vẫn trên con đường xưa, nước trong lành vẫn chảy mãi trên lối về hoang sơ. Rồi nơi chốn ngao du không nơi chỗ ấy, thi nhân: “giữa khung trời vạch một nét đường ngang, cuối góc biển chắn một lằn lối dọc”. Đây là hào khí của một đạo phong vượt lên mọi hệ lụy phàm tình, nhưng không phải tìm lên chốn non cao núi biếc, bỏ mặc những khổ đau thường tại của nhân sinh; mà vẫn ngồi yên đâu đó để thấy để lắng nghe tiếng khóc than, tiếng trào dâng tự đáy lòng của mọi cảnh đời vùi dập.
Tại đây, con người du thủ, con người phiêu bạt ấy âm thầm xác định, mỗi lần đến và đi, đều chỉ là mỗi cuộc hành trình của người khách độc hành, của những “sân ga không đến không đi”, của “Bến xe không đỗ… cứ lững thững đến đi nhưng không phải là nhà”. Nên trong từng cuộc hành trình ấy, không cần ai chào ai vẫy, không hẹn không thề, và chỉ cần rung khúc nhạc không tiếng, gảy cây đàn không dây mà thôi. Để cuối mỗi cuộc hành trình, con người phiêu du tư lự với chính mình rằng, “cuộc đời tôi, một giấc mơ ! mượn thân hư huyễn trôi bờ tử sinh. Cuộc đời tôi, một bóng hình ! mờ mờ nhạt nhạt lung linh dặm trường” là đại diện cho tâm hồn tri thức Việt Nam trong việc xác định phong thái và mụch đích sống.
Con người của tụ hội tất cả tiết khí chí dũng nêu trên, ngao du trong bốn phương trời như cánh đại bàng vút đi mạnh mẽ thế đó, nhưng thực ra, mỗi chuyến ra đi cũng chính là sự trở về quấn quýt lấy rừng đước và tổ ấm ngày xưa. Con người du thủ ấy thong dong tĩnh tại trong mỗi cuộc hành trình, nhưng chính trong mỗi cuộc rong chơi giữa bốn mùa đắp đổi ấy, đã chuẩn bị tư lương cho sự trở về. Trở về để “khua âm vang khúc nhạc lên đường, ngân tình dài muôn vạn yêu thương”, hay là “dùng tình thương làm một bản trường ca, dùng hiểu biết làm nhịp cầu chuyển hóa”. Để hoàn thành sứ mạng chuyển tải tình thương này, người trong cuộc chơi không mơ mộng cao xa, mà chỉ Tâm nguyện bình thường là:
Tôi xin vào trong ngõ kẹt
Nhìn trông mảnh tối cuộc đời
….Tôi xin vào nơi hẻm hóc
Nhìn trông cuộc sống âm u
Tôi xin vào chốn mịt mù
Nhìn trông mảnh đời đau khổ
(Đừng có mãi hoàng hôn và đêm tối !)
Hai tiếng “Tôi xin”, hàm nghĩa tôi không cao vọng, không mơ ước, không thề thốt, không lên giọng, mà chỉ mong những gì tối thiểu nhất, đơn giản và khiêm tốn nhất. Chỉ cần được vậy là thỏa nguyện rồi, đời tôi không cần gì nữa. Đi vào trong hẻm hóc, ngõ kẹt, nẻo đơn côi, hay chốn mịt mù ở đây, chính là sự cảm thông sâu sắc, vỗ về, an ủi xót thương cho sự gian lao vất vả, kém may mắn, khốn khổ bất hạnh của những những mảnh đời như: người mắt Cườm, người cùi, em bé mồ côi, thân phận người mù, em bé nhà nghèo, em bé cơ cùng, người nghèo, người khuyết tật, người câm, người điếc, người mù, người mua bán ve chai, người phu cầu đường, người xây mộ, người tiều phu, người phu quét đường, người phu khuân vác, người cạo mủ cao su, người phu hầm mỏ, người bán hàng rong, người lính chiến, người nông dân, gia đình bất hạnh, người phế nhân, trẻ thơ quê nghèo khốn khó, miền quê, vùng sâu, miền nước mặn đồng chua....
Những nỗi khổ niềm đau, ước vọng, buồn thương, chán chường tủi nhục, hay những tâm sự về nỗi tuyệt vọng, tan nát rã rời tự thầm kín đáy lòng của những mảnh đời này đã được thể hiện rõ nét sinh động dưới ngòi bút của nhà thơ Mặc Giang. Mổ xẻ, phân tích trạng thái tâm tư tình cảm của những nẻo đời thương tâm gian khổ, kém may mắn, đắng cay, bất hạnh, nhưng tác giả dường như không phải viết về họ, mà như đang nói với chính mình. Đây là sự hóa thân đặc biệt tài tình. Nhờ đó mà tác giả đã lột tả tận cùng ngõ ngách của những tâm hồn băng giá thê lương, đã sống trọn vẹn, nhập cuộc với mỗi cảnh đời đau khổ. Và như thế, mỗi một nẻo đời đều sẽ có cảm giác là thi nhân đang xót thương, chia sẻ, đang an ủi vỗ về, hiểu biết cảm thông sâu sắc, và đang đối thoại với chính mình. Chắc chắn họ sẽ cảm thấy ấm lòng hạnh phúc nhiều lắm, vì đã tìm được tri kỉ cho đời mình, đời có một tri kỉ là đủ lắm rồi!
Hướng sống thong dong tĩnh tại, phóng khoáng, cảm thương mọi nẻo đời cô độc, đắng cay, bất hạnh, khiến người du thủ từng có mặt trong những cuộc hành trình vô tận ấy chẳng màng gì cao xa, mà chỉ mong và làm những gì nhỏ nhoi tầm thường bình dị nhất mà thôi, con người phiêu bạt nói với chính mình rằng:
Người đi cao vọng hơn thua
Tôi về nước mặn đồng chua lúa vàng
… Người đi công toại bao nhiêu
Tôi về tô vẽ nhiễu điều giá gương
Người đi cho thõa đường trường
Tôi về ôm mộng bình thường tình quê
… Người đi thỏa chí hùng anh
Tôi về vá viú mái tranh hoen mờ
(Hai nẻo cùng đường)
Tại đây, thêm một bước khẳng định tâm hồn hay hướng sống của tác giả. Khi thiên hạ leo đồi vinh quang thành tựu, tỏ mặt nở mày với đời, thì Người từng xem danh lợi “quyền uy, mòn đá cụi cũng lung lay”, từng “ngao du cho hết cõi đời ” ấy chỉ cần trở về ấp ủ nước mặn đồng chua quê nghèo, nâng niu bồi đắp tình thương đồng loại (tô vẽ nhiễu điều giá gương), trân qúy tình quê. Rồi chỉ “vá víu mái tranh hoen mờ” mà thôi. Ôi! ước nguyền, chủ trương khiêm tốn đơn sơ nhưng rất đỗi cao sang, hiếm ai làm nỗi, vì chẳng ai chịu và thỏa mãn cuộc đời “tôi xin muôn kiếp bóng hình nhỏ nhoi” ấy cả.
Phát được lời thệ nguyện dung dị bình thường mà phi thường ấy , là vì “Người về” cảm thấy: “đi—về, một vạch nối liền, về—đi, không cách có phiền ngại chi”. Người đi và tôi về chỉ trên cùng một trục lộ thẳng tắp, chạy dài đến tận cùng không gian và thời gian, rồi sẽ gặp nhau đâu đó trên quê hương muôn thuở. Cũng là bởi cảm nhận sâu sắc rằng, “sá gì kẻ ở người đi, đa mang như thế, tuyệt kỳ nghe chưa.” Bấy giờ trên phố xá hoa lệ, hay trên đường quê nghèo sỏi đá quanh co, Người đi hay về đều tự tại thong dong ấy ngỏ lời nhắn gởi bội phần thân thiết :
Tôi muốn nhìn bóng đèn mờ le lói
Để thấy những vùng heo hút âm u
……Tôi nhắm mắt để nghe trong tiếng khóc
Của những con người mỏi mắt kêu thương
Của những con người trong cảnh thê lương
Thử đến đó làm sao ta sống nỗi !
(tôi nhắm mắt thu mình căn gác nhỏ)
Đó là những gì thấy và nghe được từ trong rung động của con người phiêu bạt khi thu mình căn gác nhỏ. Cái nhìn cái nghe bằng linh cảm linh tri của cội nguồn chiều sâu tâm thức này, hoàn toàn hòa nhịp với mỗi bước chân đơn côi, mỗi hơi thở nặng nề, mỗi ánh mắt mỏi mòn trông đợi ngày mai của con người trong “những bản làng sương gió mịt mù, của những con người trong cảnh thê lương”. Trong lần hội ngộ không hạn cuộc thời- không này, Mặc Giang có nói chi với con người khốn khó đói nghèo ấy đâu, mà chỉ thì thầm tỏ bày tâm tình : “tôi muốn về thăm lại quê xưa, ngồi yên đâu đó một chiều mưa, để nghe quạnh quẽ hồn cô lữ, lệ sử điêu tàn gởi giọt mưa”. Chẳng biết lúc nào, người lữ khách độc hành ấy đã tự khẳng định giá trị của giọt thương trong cõi phù sinh, là “lệ sử điêu tàn gởi giọt mưa”. Nước mắt khóc cho những cảnh đời hẩm hiu của tôi là những giọt khô lăn dài trên dòng sử Việt, chảy dài đến tận ngày mai. Nó tuy tan tụ mong manh, nhưng lại như mưa móc tưới tẩm bao nỗi buồn đau của những tâm hồn lạc bước bâng quơ trên đường dài hút bóng, không bến không bơ, ngập tràn sầu hận, tủi nhục, thống khổ, đắng chát, chua cay, đoạn trường….
Khi đã xác định được những giá trị thường hằng trong cõi vô thường ấy, thì thi nhân Mặc Giang chỉ lập nguyện từ tốn khiêm cung:
… Không như cây lá sum xuê
Thì làm hoa dại mân mê lối mòn
…Không như tàu lớn ra khơi
Thì như thuyền nhỏ đưa người qua sông
(Khôn chết, dại chết, biết sống)
Hễ mang lại lợi ích thiết thực cho đời, cho dù chỉ là những gì tầm thường nhỏ nhặt nhất, thì con người chí khí này vẫn người tình nguyện tiên phong, chứ không chịu vòng tay ngồi ngó. Rõ ràng Mặc Giang không để thẹn với non sông, xấu hổ là con cháu Lạc Hồng vì không xứng danh với tiết tháo của quân tử trượng phu, vì đã hiểu rĩ thế nào là làm trai chí hướng xông trời đất. Do đây, con người đi thênh thang trên hành trình du thủ trong thế giới ba ngàn này, đã lập nguyện rộng lớn:
Người vào Hoa tạng người chơi
Ta vào sinh thử cho đời bớt đau
……Người thương cây cỏ lá hoa
Ta thương bốn loại trong nhà thê lương
Người thương diệu hữu chơn thường
Ta thương muôn vật trên đường phù sinh
(Ta đi, một cõi phù sinh hiện về)
Trong cõi không, cõi vô sắc, Người làm việc của Người; trong cõi hữu sắc, tôi làm việc của tôi. Chỉ đơn giản và âm thầm thế thôi. Tại đây, ta càng thấy, thì ra, con người phóng khoáng dọc ngang trời đất, tưởng như thờ ơ quay lưng với đời ấy, lại tình nguyện đi hun hút giữa gió chướng mây ngàn, để mang yêu thương đến với tận cùng ngõ ngách đời khốn khổ đau thương. Từ đó, giữa không gian bao la và thời gian vô cùng, chúng ta bất chợt bắt gặp hình ảnh :
Cây đa còn đứng đầu đình
Cành mai trước ngõ nghiêng mình trổ bông
(Ta đi, một cõi phù sinh hiện về)
Cũng chỉ tại những gì Tôi làm trong cõi hữu hình này tuy không như Người, nhưng chính động cơ tác ý đã nói hộ rằng, tôi và Người đâu phải hai thể riêng nhau, mà chỉ là một, là quan hệ “hai chiều chạy dọc bờ đê, dòng sông chuyển hóa chưa hề tồn sinh.” Cho nên, một cách tự nhiên, trong im lặng của trời đất, trong sự chuyển giao vần vũ của bốn mùa và càn khôn vạn vật, đã xuất hiện hình ảnh nghiêng mình của cành mai. Mai là biểu tượng của tinh anh thuần khiết và chí dũng, dám ngạo nghễ tự hào khoe mình trước giang sơn mỗi khi đông về hay hạ đến; và cố nhiên khi trổ bông, thì càng làm cho chim sa cá lặn, nhật nguyệt thẫn thờ. Thế mà bây giờ ngay cảnh khi khai hoa, nó đành phải khiêm cung nghiêng mình, vì mai thẩm thấu được điểm khác biệt nhưng lại đồng nhất giữa Người và tôi, hay chính là kiêng nể hành động dấn thân và phong thái của người trong cuộc ngao du tràn gian ấy, phải vậy chăng !
Nói tóm lại, qua thơ Mặc Giang, chúng ta thấy rõ phong cách và hướng sống đặc biệt; đó là sự không cố chấp, xem khắp nơi đều là quán trọ, xem thường danh lợi phù phiếm, bình thản bất động trước khen chê đãi bôi của người đời, không bàng hoàng thảng thốt, thong dong tĩnh tại giữa non nước mây ngàn, quan tâm cảm thông thân thiết những mảnh đời bất hạnh, lập nguyện cống hiến cho con người và xã hội những gì mình có thể, cho dù chỉ đơn giản và nhỏ nhoi nhất… Đó là sự tương giao hài hòa đặc biệt giữa tình và lí, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa hình thể và phi hình thể. Phong cách và hướng sống bình dị nhưng cao thượng, viên dung và siêu việt này, ảnh hưởng mạnh mẽ đến những tâm hồn sâu lắng biết suy tư của người Việt Nam.
Và tư tưởng lớn còn thao thức vò võ và vạch cho con người Việt Nam phương cách hành xử, nên hình ảnh quê hương luôn là tiếng đồng vọng trong tâm hồn, như mở ra một phương trời đi về miên viễn của tình cảm gắn bó quyện hòa, tương lân, đắp xây và tô bồi.
3. Quê hương nguồn cội
Với Mặc Giang, hướng về quê hương với bao nỗi lòng thân thiết vó võ âu lo, mong ngóng đợi chờ hy vọng, chính là ý hướng cải tạo cuộc đời, là khiến hành xử lương tri thánh thiện, nhằm kiến tạo một xã hội an bằng tốt đẹp hơn, mở ra cho thời đại một hướng đi mới. Về phương diện này, Mặc Giang có những dòng thơ với nội dung có ý nghĩa triết lí, ý nghĩa nhân bản sâu sắc cô đọng, có sức chinh phục cảm hóa lòng người hơn bao giờ cả.
Liên quan đến ý thức hệ đầu tiên được hình thành qua yêu thương trân quý nguồn mạch nòi giống, nên thơ Mặc Giang có giá trị ý hướng kiến lập đạo đức chân chính. Đó là ý thức sâu sắc thâm thiết về hai mối đại quan hệ, là giữa nhà thơ với tấ cả người Việt, giữa mọi người Việt với nhau.
Đầu tiên, do Mặc Giang luôn mang những ý thức và rung động sâu xa về nguồn cội Việt Nam, nên trong những thi phẩm tuyệt tác nói về đất nước Việt Nam nòi giống Tiên Rồng qua năm ngàn năm lịch sử oai hùng, Mặc Giang thường biểu hiện một tâm trạng vừa tự hào nhưng lại vừa buồn tủi, vừa vui mừng lại vừa đau nhức, vừa trầm ngâm nhưng lại vừa hùng tráng.… Hình bóng và chất liệu quê hương Việt Nam, hậu duệ của Hùng vương Văn Lang, không biết tự bao giờ đã trở thành tiền đề, thành chất xúc tác để thi nhân sống, lên tiếng và hành động.
Ý thức về nguồn cội Việt Nam, cũng chính là xác định mối quan hệ giữa con người Việt Nam. Trong Quê hương nguồn cội, Mặc Giang âm thầm nhắn gởi nhắc nhủ cho đàn em mai sau :
Em sinh tại quê hương, tôi sinh vùng đất khách
Dù xa xôi cách biệt, nhưng là người Việt Nam
Em máu đỏ da vàng, nhìn tôi đâu có khác
Tóc em đen óng mượt, tóc tôi chẳng lạ gì
Không gian ngăn cách nào có nghĩa gì đâu. Có ngăn cách gì đi nữa, cũng không ngăn được tình người Việt nam không biên giới. Tại đây, Mặc Giang âm thầm nhắn gởi rằng, dù mặt em có biến dạng bởi những vết sẹo, sạm đen bởi phong trần bao nhiêu, tôi vẫn mãi nhận ra em; nhìn từ xa trong mưa gió mù khơi, tôi cũng nhận ra em. Cho dù ra đi giáp mặt cuộc đời trong muôn nẻo ngàn phương, nhưng chúng ta vẫn đồng cùng một nguồn cội. Không gì có thể thay đổi quan hệ của chúng ta. Tất cả đều mang trong mình giọt máu của một Mẹ Âu. Tác giả Mặc Giang còn muốn giải thích thêm cho đàn em là :
Cùng con cháu vua Hùng, à! thì ra chỉ một
Nhìn chữ S cong cong, Sao nghe đau vời vợi
Tôi từng nghe tiếng gọi, dân tộc Việt yêu thương
Dù xa cách dặm trường, tình yêu thương chỉ một
Giang sơn gấm vóc chúng ta đã bồi đắp biết bao mồ hôi xương máu của các cha anh từ thuở dựng nước cho đến hôm nay. Cho nên bây chừ chúng ta cảm nghe :“một nắm xương khô nghe lòng da diết, một giọt máu đào thấm nhuận non sông”, cho nên biết được “một mảnh dư đồ chữ S cong cong, là tinh hoa tiết liệt qua nhiều thời đại”.
Năm ngàn năm lịch sử nhục vinh thành bại, đã biết bao lần chất chồng xương núi máu sông. Do vậy, nhìn giang sơn một cách ý thức và sâu sắc, chúng ta càng tự hào bao nhiêu, thì lại càng nhức nhối, đau vời vợi bấy nhiêu. Chỉ chừng ấy thôi, không cần giải thích, cũng đủ cho ai cũng thấy biết được ý thức hệ về tình quê hương tình dân tộc của hồn thơ Mặc Giang. Nhà thơ đã mở ra cho chúng ta lối về quê hương nguồn cội chỉ có một mà thôi, đó là lối về của yêu thương, yêu thương vô điều kiện, không mang tính tạc thù ước lệ, không đòi hỏi yêu sách bất kì điều gì. Chỉ cần gặp nhau cho dù chưa từng quen biết, chúng ta cũng có thể ôm choàng lấy nhau mà khóc, rồi cùng nhau ôn lại “dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng, Thuở dựng cờ khai tổ quốc giang san”; kế đến cùng khóc cười mà hát điệp khúc: “tình quê ca khúc nẻo đường, em reo ca khúc quê hương muôn đời ”
Nhà thơ còn đưa chúng ta hiểu sâu rằng, tự hào và niềm đau vốn đan xen trong nhau, trong nụ cười đã có những giọt nước mắt canh thâu. Bởi :
Nhìn quê hương anh nghe nhiều cay đắng
Nhìn cội nguồn tôi thấm những niềm đau
……Mẹ nằm đó, mặt lệ nhòa, không nói
Cha trầm ngâm trắng phếu bạc mái đầu
(Sông bến cũ, mái nhà xưa ấm lạnh)
Niềm cay đắng của anh, nỗi đau thương của tôi, nhòa lệ trong im lặng của Mẹ và dáng điệu trầm ngâm bạc đầu của Cha, đều là cùng trầm thống về quê hương, về con người Việt Nam cùng chung máu đỏ da vàng, cùng tránh phong ba qua vách chắn của Trường Sơn, cùng uống nguồn nước ngọt ngào của Thái Bình. Nhưng tại sao Mẹ Cha Âu Lạc lại buồn đau khi đất nước đã có một lịch sử oai hùng, có đàn con cháu đề huề sinh ra từ một bọc? Phải chăng vì đàn con của Mẹ ứng xử với nhau theo cách mà Mẹ không muốn, theo cách mà cha nào có dạy bao giờ.
Cùng dòng sữa Mẹ dưỡng nuôi, cùng tiếng ru hời Cha ấp ủ, lí đáng chúng ta hiểu và thực thi lời ca dao :“nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”; cũng còn chưa đủ, mà còn nên hiểu thêm:
Anh và tôi, đâu phải người xa lạ
Dù không quen, cũng gợi cảm tình người
Huống chi cùng sữa mẹ dưỡng nuôi
Sao để mẹ bạc đầu, không nói
Tiếng hồn thiêng, âm thầm khẻ gọi
Bước chân về bên cội rừng xưa
Tay nắm bàn tay, đừng nói, dư thừa !!!
Đưa mắt nhìn nhau ngậm ngùi ứa lệ
(Cuốn mộ bờ lau, bụi mờ bỏ lại)
Phải hành xử và nhìn nhau như thế, mới xứng danh là con của Mẹ, là niềm hi vọng của Cha. Bởi con đã thật sự nghe rõ mồn một âm ba của “gió lộng Trường Sơn núi rừng hùng vĩ, sóng bạc Thái Bình biển cả mêng mông”. Còn minh chứng hùng hồn rằng, con rất sợ cái cảnh “tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng, tóc mẹ trắng, xõa chiều dài lịch sử.” Thế nhưng giờ phần nhiều các con không mấy dễ thương; không những không “cùng dắt nhau về ngưỡng cửa yêu thương”, rồi “đưa mắt nhìn nhau ngậm ngùi ứa lệ”, mà còn kém hơn. Và cũng vì quên mất nghĩa núi tình sông, con của Mẹ thật tội nghiệp:
Đường cao rộng, lại đi về ngõ tắt
Lối thênh thang lại cắt xẻ dọc ngang
(An bình ơi, ngươi trốn mất ở đâu)
Gia tài của mẹ để lại đồ sộ lắm, đó là một Việt Nam là con đường cao rộng của tình thương, mong chúng ta vun bồi tình quê muôn thuở. Nhưng nhiều trong số các con lại hướng đến điều không nên; có lúc “cái chân thật biến giữa ngàn quan ải, cái giả danh lại phóng bổng trời xanh”. Bậc Thánh hiền đau lòng than: “trần gian chật hẹp người chen lấn, Tịnh đô thênh thang hiếm kẻ tìm”. Trần gian là biển sinh tử giập vùi, khổ lụy ê chề, là trái đắng não nuột, nhưng nào mấy ai chê, cứ dành sống và cho nhau điều không nên, cái không vui. Hèn gì Trịnh Công Sơn nói “bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt……”. Đi loanh quanh vòng vo mãi trên con đường ganh ghét đãi bôi, hoang tàn loang lở … thì quả mệt lắm. Bất giác, nào có biết sự xoay vần nhật nguyệt, hồn thiêng cội nguồn Việt Nam vốn trinh nguyên không thể hoen ố sắc màu. Con của mẹ, con của đất nước có lịch sử văn hiến năm ngàn năm, đã không đi tiếp con đường mang linh hồn của Mẹ, nặng nỗi niềm của Cha mà lại đi ngõ tắt, về ngõ hẽm quanh co như thế; cũng tại “bởi trần thế ngửa nghiêng dòng uế trược, bởi nhân tình lặn hụp bến sông mê”.
Thi nhân còn đau lòng hơn nữa là khi các con của Mẹ vì “chữ đức nhân đã mờ mịt trước đèn, chữ quân tử rải lên thềm băng giá”, nên thậm chí cố tình cho “đứt phanh tuột đà”. Trong Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế, Mặc Giang viết :
Chiều rũ bóng, rừng già ru cỏ dại
Bờ lau lách, ao tù, reo ếch nhái
……Trong ngõ tối, “dế mèn phiêu lưu kí”
Vạn vật gườm nhau, tha hồ đố kị
……Tình nhân thế, “ngàn cân treo sợi tóc”
Qủa là hình sắc âm thanh buồn tê dại mênh mang. Nỗi buồn da diết và ghê rợn nhất trong màn đêm dày đặc làm nát tan vụn vỡ không gian, là hình ảnh “dế mèn phiêu lưu kí”, là “vạn vật gườm nhau” rồi “tha hồ đố kị”. Có bóng tối, thì chúng xuất hiện; hễ những thứ này xuất hiện, là báo hiệu bóng đêm đã phủ mờ trong sương pha giá lạnh, chua chát não nuột. Rất tự nhiên, hai cảnh tượng này đã có trong nhau tự thuở nào, rồi tạo nên cảnh trạng nín thở “ngàn cân treo sợi tóc” của tình nhân thế.
Xót xa buồn tủi cho sự thật nhân tình, Mặc Giang thống thiết kêu gọi, này anh em, này chú bác…, nếu vậy thì quả là “uổng không một kiếp phù sinh, còn thua gỗ đá trêu mình thế nhân”. Đây chính là niềm đau khôn nguôi khiến Mặc Giang vò võ thao thức trằn trọc bâng khuâng, nhiều ngày đêm liền không ngủ. Khi bạn mất, Nguyễn Khuyến nói: “rượu ngon không có bạn hiền. Không mua, không phải không tiền, không mua”; nay Mặc Giang không ngủ, vì trầm tư trước sự vùi dập rách nát loang lỗ hoang tàn của quê hương. Trong kỉ niệm 60 đêm không ngủ, ông viết: “Ngọn hải đăng cho tàu về bến cảng, Ngọn sao đêm cho trời bớt âm u, Ngọn đèn pha cho sáng tỏa mịt mù, để làm chi mà sao tôi cũng có” chính là ý thức danh phận, trách nhiệm à vai trò của mình trong từng giai đoạn biến thiên đổi dời của dòng lịch sử. Đây cũng là cái hùng dũng nghĩa khí mà Nguyễn Khuyến nói: “đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Nếu không tài bồi nghĩa khí này, thì làm sao Mặc Giang lại tiếp:
…Hai ngọn đèn không cần phải châm dầu
Sáu mươi đêm cháy hoài không muốn tắt
…Tôi nằm yên, nghe đến từng hơi thở
Tôi đăm chiêu, nghe mềm cõi tâm tư
Giá trị trân quý ở đây là hiện tượng “không muốn tắt” của hai ngọn đèn, cho dù đã cháy đăng đẳng sáu mươi đêm. Ấn tượng sâu ở đây là “mềm cõi tâm tư”. Sáu mươi đêm không ngủ, mang nặng hình của nước; hai tháng trời thức trắng, mang nỗi niềm mặn đắng trên môi. Rồi từ đó, những dòng thơ tràn ngập triết lí sống và dạt dào tình thương đã thâm thiết mở ra cho đồng bào Việt Nam lối về tình tự quê muôn thuở. Đó là linh hồn của ngọn hải đăng, ngọn đèn trung thành thức trọn 60 đêm với thi nhân trong trầm tư mặc tưởng; với tha thiết dõi đợi giang sơn sẽ dần xa những bùn lấy tang hôi, để cùng nhau tự hào nâng niu từng ngọn núi con đê, dòng sông quê lỡ bồi phù sa, với “mọi nẻo hương quê, rung hồn lệ sử”.
Ai cũng biết đau thương, nhưng nào có mấy ai biết đi đúng hướng để hàn gắn đau thương. Người thơ Mặc Giang chỉ cho chúng ta nẻo đến tình thương :
Cùng sống trong một cõi trần gian
Sao không xây tình thương và sự sống
Mang từ tâm, xóa tan đi bao biến động
Mang tâm bi, trang trải những yêu thương
(tiếng gọi yêu thương)
Chủ ý nhà thơ là, chúng ta là con cùng một bọc trứng mẹ Âu sinh ra, không lí
do gì không yêu thương đồng loại; không lý do gì để “cùng một dòng máu sao mà
tệ bạc, cùng một màu da sao nỡ cam tâm” Tại đây, Mặc Giang cho chúng ta thấy,
là con người, thì không thể sống thiếu nhau. Cỏ cây vô tình hay đá núi lặng lẽ
vô tình cũng cần bàn tay hơi ấm con người, nên Cụ Trịnh Công Sơn có lời ca
:
Mưa vẫn mưa bay cho đời biến động
Làm sao em biết bia đá không đau ?
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
Vâng, hãy trang trải tình thương khắp cả, vì ngay sỏi đá cũng cần có tình thương, nó đâu phải vô tình, nó cũng biết đau như ai. Nó cũng cần có nhau. Giữa chúng có mối tương quan mật thiết. Giữa con người, cũng là một quan hệ tương sinh phức tạp, tế nhị: “Vì trông ngày, nên đêm dài đến rứa. Nếu không đêm, ngày có nghĩa gì đâu”. Trong tôi có anh, trong anh có tôi. Anh và tôi uống cùng sữa Mẹ Âu Cơ, thế sao anh và tôi lại nỡ nhẫn tâm với nhau. Tôi ngã nghiêng, thì chẳng phải anh cũng khó có thể đứng vững đó sao? và yêu thương cảm thông tôi, là anh đang vun bồi cho cây an bình của chính mình mà thôi !
Xác định sâu sắc giá trị và nhu yếu tình thương của vạn loại, trong Bước qua ngưỡng cửa dị đồng, Mặc Giang hướng dẫn chúng ta đường đến cùng tận đầu nguồn tình thương, là “bằng thân thiện, để cùng nhau nương tựa. Bằng nhịp cầu, để nối kết cảm thông.” Thân thiện và cảm thông, mới là chất liệu để chúng ta tiếp bước trên :
Dòng lịch sử, muôn đời, ta chung sống
Hồn quê hương, muôn thuở ta đắp xây
Tình anh em, mãi mãi, ta tiếp tay
Tình dân tộc, ngàn đời không lay chuyển
(ta bước đi trên quê hương ta)
Có một lịch sử oai hùng, hồn quê hương ngọt ngào đường mía lau như thế, thì anh em chị em phải đắp xây. Phải “tay trong tay, tình trong tình, máu trong máu”, để tình dân tộc ngàn đời không lay chuyển. Một nhạc sĩ nào đó viết về quê hương cũng khá cảm động “…quê hương, mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi, quê hương nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nỗi thành người.” Không hiểu, có nghĩa là không biết trân quý, xây dựng tình đồng loại, để “cho vạn vật nhân sinh hòa điệu sống.” Vậy thì thành thân mà không thành danh, thành khí mà không thành chất, thành hư mà không thành thực.
Ý thức, tự hào về dòng giống Rồng Tiên cao sang, xác định trách nhiệm với quê hương nòi giống, cũng chính là lúc mỗi chúng ta ý thức về sự có mặt trên cuộc đời là: “kiếp nhân sinh không nỡ tạc thù chiếu lệ, kiếp con người không lẽ sống chết thì xong”; mà phải trang trải tình người, phải thay đổi cách hành xử với người anh em cùng Mẹ; phải “đừng đem thương ghét chận đường thế nhân.” Để giúp sống cho ra sống, để cuộc sinh tử có “chút gì còn để cho nhau”. Nhà thơ Mặc Giang thêm lần nữa thống thiết nhắc nhủ đàn em:
Rồi một mai, cũng lăn vào cõi chết
Cọp để da, người để tiếng chiêm bao
(Nhân sinh tự thán)
Khi nói “trăm nay bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” là người xưa ngầm ý chỉ cho chúng ta hướng sống và hành động. Tại đây, thi nhân Mặc Giang cũng thế, ý thơ nói, không yêu quê hương nòi giống, đãi bôi, nguyền rủa,mắng nhiếc, vu khống hãm hại, bán đứng bán ngồi danh giá người khác…, thì chết danh tiếng vẫn còn mãi, còn mãi trong tâm tưởng tình cảm của con người, như thế sẽ “làm đau cho cát bụi hư hao, và làm đau cho sương pha giá lạnh”. Còn gì nhức nhối hơn thế nữa !
Mặc Giang chân thành thiết tha kêu gọi anh chị em, ngay bây giờ hãy xây dựng lập trường và hướng sống đích thực là:
Vì con người, nếu ta còn nước mắt
Vì nhân sinh, nếu ta còn chút tư lương
Nước mắt kia xin nối lại tình thương
Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế!!!
(Máu chảy về tim, rung lòng nhân thế)
Máu chảy về tim, lá rụng về cội, nước đổ về nguồn, vừa là cái lẽ tất yếu, vừ làm lời khuyên thống thiết của nhà thơ: cho dù sống đến tàn hơi cuối cùng, cũng phải sống vì con người, vì nhân sinh. Bấy giờ chúng ta sẽ “cùng bước chân, đừng có nói năng gì....Tan hết rồi những niềm đau cay đắng”. Rồi chúng ta cùng “dệt nên một mái, bếp lửa nhà tranh. Em, tôi và anh. Ngọn lửa thêm hồng, Việt Nam trời đông, quê hương ta đó !” Nhờ vậy, mà chúng ta biết nâng niu trân qúy từng dải đất ngọn núi quê hương. Từ đây, ta tình nguyện “xin cho nhau nụ cười, đã gượng gạo từ lâu.” Nụ cười tô thắm tình thân, có sức mạnh mở ra cho dòng sử Việt trang sách mới.
Nhìn chung, ý thức cải tạo cuộc đời, hay nỗi niềm quê hương của thi hào Mặc Giang là sự liên quán từ niềm tự hào con cháu Lạc Hồng, xác định mối quan hệ giữa những cá thể, xót xa trước những thất cơ lỡ bước của nhân thế, vạch ra cho thế hệ đàn em hướng sống mới trọn vẹn với niềm tin yêu đắp xây.
Tư tưởng và triết lý vốn không mang tính thi ca, nhưng thi ca của bút lực vô song (là làm thơ mà như không làm) lại mang tư tưởng và triết lý sâu xa. Xây dựng giá trị tư tưởng, ý hướng phục vụ cuộc đời từ một nhân sinh quan đặc biệt, một hướng sống tích cực sáng chói, một ý hướng cải tạo đạo đức cuộc đời qua thi ca, Mặc Giang đã thành công rực rỡ. Cả ba yếu tố này vừa là tiền đề, vừa là kết quả, nó thống nhất và bổ sung tạo dựng lẫn nhau. Có ý kiến cho rằng “mỗi tư tưởng của một nhà thơ chắc chắn chứa đựng tiềm năng vô cùng trọng đại, như năng lực tiềm ẩn trong một cục than đá hay một tế bào sống, vô cùng vi tế, không thể cân lường, nhưng thật sự hùng mạnh” (Ouspensky, “Tertium Organum”, trang 125). Cũng cùng với mô típ tư duy này, trong Linh hồn hay yếu tính thi ca, học giả Nguyễn Thế Đăng có đoạn: “Một bài thơ đúng nghĩa là một thông điệp về sự sống, do đó hình thức và nội dung bài thơ là một cơ thể sống. Nó là một tập hợp những vật thể có ý nghĩa, những tương quan sống động; nó là một đời sống thu nhỏ, tinh chất, phản ánh chính những quy cách của đời sống. Thơ là sự thu gọn của đời sống đang hoạt động, cả ánh sáng, bóng tối, nụ cười và nước mắt, mãn nguyện và thất vọng…., do đó nó cũng có những quy luật sống động như chính những nguyên lý tạo ra đời sống… Thi ca được gọi là sáng tạo vì nó mang được sự sống, ý nghĩa của thực tại đang sống động trước mắt chúng ta. Thi sĩ là người có khả năng phát hiện ý nghĩa của đời sống và diễn đạt ý nghĩa ấy ra, truyền thông cho người người khác biết. Thi sĩ là nhà tiên tri về đời sống là vì thế.” Đứng từ góc độ này để kết luận đúc rút giá trị hiện thực và siêu thực trong thơ Mặc Giang, cho ta thấy thi phẩm ấy mãi mãi là linh hồn sức sống, là tiềm năng ý hướng, là nguồn mạch để tác giả và người tiếp xúc thơ ca Mặc Giang luôn cảm thấy linh hồn và trí huệ mình như đang trên đỉnh thăng hoa, mãi đi về với thong dong trời xanh mây trắng, và mãi như như bước chân vang dội trên hành trình trở về với suối nguồn bình an.