Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đuốc xưa vẫn sáng

28 Tháng Ba 201200:00(Xem: 15059)
Đuốc xưa vẫn sáng
ĐUỐC XƯA VẪN SÁNG
Nguyên Cẩn

blankNgọn lửa của tự dodân chủ

Thế giới hôm nay đang dậy sóng. Từ Tuynisie sang đến Ai Cập, Lybia, Yemen, Barhain…, những làn sóng người biểu tình không ngừng nổi lên, có nơi đã biến thành bạo lực, thậm chí nội chiến. Con người ta, nói như một nhà văn, không chỉ sống bằng bánh mì mà còn cần đến cả bầu không khí tự do để thở, để sống và để được làm người. Bao lâu tiếng nói con người còn bị vùi dập, bao lâu quyền được sống của con người còn bị chà đạp, chừng ấy người còn tranh đấu, đòi hỏi sự công bằng phải được thực thi. Ngọn đuốc sống Mohamed Bouazizi đã khởi đầu thắp lên trận chiến vì công lý ấy và nó đã thành công khi khích động hàng triệu con tim nhân loại đang khát khao… được sống đàng hoàng trong một đất nước dân chủ và nhân bản… Chúng ta tự hỏi trong cuộc đấu tranh ấy, tôn giáo đóng vai trò gì – người hỗ trợ tinh thần hay kẻ dẫn dắt vô hình? Chúng ta nên biết những nhà lãnh đạo đang bị phản kháng hôm nay đã có thời là… người hùng của nhân dân của họ như Mubarak, như Gadaffi… khi họ chiến đấu vì lý tưởng của tổ quốc; nhưng rồi quyền lực, sự lạm dụng, lòng tham và tư lợi đã khiến họ u mê và xa rời quần chúng, rơi vào vòng xoáy vô minh, gây ra bao nhiêu bất công lầm than trong xã hội. Họ đã phản bội lý tưởng ban đầu của họ, phản bội lại cuộc cách mạng do chính mình dẫn dắt…

Ngọn đuốc của Phật pháp trên thế gian

Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ. Không phải ngẫu nhiên mà Albert Einstein nhận định:

Nếu có một tôn giáo nào trong tương lai thỏa mãn được yêu cầu khắt khe của triết học – khoa học ủa nhân loại thì đó chính là Phật giáo”. Tinh thần dân chủ của Phật giáo được thể hiện ngay cả trong niềm tin. Chúng ta vẫn nhớ lời kinh Kalama: “Hỡi người Kalama, không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì phong tục truyền lại như thế; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì lời đồn đãi như vậy; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ước đoán như vậy; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vẻ bề ngoài; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì thành kiến của mình; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được; không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vị tu sĩ thốt ra dnày đã được người ta kính trọng từ trước. Tuy nhiên , khi tự các người hiểu rằng: những điều này không hợp luân lý; những điều này đáng bị khiển trách; những điều này bị các bậc thiện trí thức cấm đoán; nếu thực hiện những điều này sẽ bị phá sảnphiền muộn, thì hẳn các người phải từ bỏ không làm điều ấy. Còn khi tự các người hiểu rõ rằng: những điều này hợp luân lý; những điều này không bị khiển trách; những điều này đã được các bậc thiện trí thức tán dương; nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc, thì hẳn các ngươi sẽ hành động đúng như vậy”.

Phật giáo còn dân chủ cả trong phương pháp và nguyên tắc tu học của Tăng già. Người Phật tử khi hành lễ không cầu xin ân huệ hay phước báu trên cõi đời như lời kinh dẫn: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”. Nhận thức ấy khiến, người Phật tử hiểu rằng “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm điều ô nhiễm; chỉ có ta tránh điều tội lỗi; chỉ có ta gội rửa cho ta; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta; không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch” (Kinh Pháp Cú). Thế nên Phật di huấn rằng: “Các con hãy tự thắp đuốc soi đường lên mà đi”. Tất cả nói lên sự giác ngộ tự tâm, không mong cầu tha lực.

Phật giáo còn dân chủ trong sinh hoạt Tăng già, thể hiện qua những việc sau:

a- Trong giáo đoàn, không có việc phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ học vấn… Khi xuất gia thì vua quan hay quý tộc cũng bình đẳng với thường dân. Thật vậy

Hầu như không có bất cứ một sự hạn chế nào cho người xuất gia, không có giai cấp, giới tính bị hạn chế, điều mà rất phổ biến vào xã hội thời đó. Nam nữ ít nhất 15 tuổi đều được xuất gia… Phật sự ở các tự viện được điều hành bởi một cuộc họp thông lệ của các Tăng, với một hệ thống thủ tục chuẩn mực theo trật tự ,trong đó , mọi quyết định đều cần sự đồng thuận của Tăng chúng”.
(Luận văn Tiến sĩ – Thích Hạnh Đức – Buddhist Scocial Thought as represented in The Pali Suttapitaka – Bản Việt dịch : Vương Thị Minh Tâm).

Chúng ta có thể nhận ra khái niệm dân chủ và quyền bình đắng này trong các kinh Khởi Thế Nhân Bổn và kinh Trường Bộ.

b- Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, chúng ta có thể tìm ra nhiều thông tin về quan điểm chính quyền do nhân dân lãnh đạođiều hành bằng nguyên lý dân chủ, cụ thể qua lời dạy Đức Phật nói với ngài A-nan về bảy điều kiện giúp đất nước thịnh vượng, cụ thể là người Vajjians, để không rơi vào tay kẻ thù trong đó chúng ta cần lưu ý 3 điều đầu tiên là:

- Người Vajjians thường xuyên tổ chức các buổi họp cộng đồng và dòng tộc.

- Người Vajjians gặp nhau trong thân ái và tôn tạo tình thân ái, thực hiện công việc trong tình thân ái.

- Họ không ban hành điều gì mà chưa được thiết lập, không bãi bỏ điều gì đã ban hành, và hành động phù hợp với thế chế xưa đã được thiết lập… “Sự chuyển giao đáng kể đến với thế giới trong lời Phật dạy rằng không có nền dân chủ nào sống sót nếu thiếu sự hòa hợp của các thành viên trong hội đồng. Đó là lý do vì sao ý nghĩa chính trong Tăng già là sự hòa hợp”. (Thích Hạnh Đức, sđd)

c- Sau khi nói với quan thượng thư nước Ma-kiệt-đà về bảy điều kiện thịnh vượng cho đất nước, Người đi gặp các đệ tử ở thành Vương Xá và nói với Tăng chúng về bảy pháp bất thoái:

1- Thường xuyên hội họp Tăng chúng.

2- Sống hòa hợp.

3- Gìn giữ giới luật đã ban hành và không bãi bỏ những gì đã thiết lập.

4- Tôn kính các vị trưởng lão.

5- Không rơi vào ảnh hưởng của tham ái để dẫn đến tái sinh.

6- Vui sống an tịnh.

7- Tu tập chánh niệm tỉnh giác.

d- Pháp môn Lục hòa là nguyên tắc sống và sinh hoạt cho giới xuất gia cùng tu tập trong một ngôi chùa. Nó phá bỏ đặc quyền hay ranh giới giai cấp. Đức Phật dạy rằng: “Không có giai cấp trong một giọt máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn”.

Sử gia Ấn Độ Ramesh Chandra Majumdar gọi Đức Phật là vị Tổ của nền dân chủ bởi vì chính Người đã dựa trên cái gọi là truyền thống dân chủ trong nền chính trị Ấn Độ cổ xưa. Trong đó người ta được tranh luận cho điều phóng khoáng hơn là tuân theo sự phân loại chính trị theo những thể chế hẹp hòi. Chính vì tinh thần ấy mà ngàn xưa, việc bầu cử trong Tăng chúng đã được tiến hành vì “Vận động bầu cử mà duy trì giới luật mà không chia rẽ Tăng chúng. Những cuộc vận động như vậy được giới thiệu vì các Hòa thượng rất quan tâm về việc sống còn của sự nghiệp tôn giáo: mối bất hòa trong các thành viên là nỗi lo ngại lớn nhất của tất cả hội đồng và nước Cộng Hòa Ấn Độ” (THĐ –sđd ).

Thế là đã rõ, tinh thần dân chủ thắm đẫm trong giáo lý nhà Phật thể hiện trong tư duy, trong sinh hoạt, trong phương pháp hành trì tu học, trong quan điểm Nhân duyênNghiệp lực khi mà xã hội thế giới này đẹp hay xấu, vui hay buồn, hòa bình hay chiến tranh là do con người với tư cách là chủ thể từ ba nghiệp –thân, khẩu, ý mà ra…

Lý tưởng vẫn sáng ngời

Đi tìm hay xây dựng một xã hội lý tưởng vẫn là mơ ước ngàn đời của nhân loại, nhưng tại sao vẫn có lúc, có nơi cảm thấy tuyệt vọng trong cuộc hành trình đi tìm “miền đất hứa” ấy dù lý tưởng của cuộc cách mạng nào cũng cao đẹp và mang nhiều mỹ từ bay bổng: công bình xã hội, văn minh giàu đẹp… hay cụ thể hơn như “cơm no áo ấm, bánh mì và việc làm”…

Làm thế nào để có được một xã hội ấy, cái xã hội mà trong đó sự bình đẳng, tinh thần dân chủ và những quyền con người được tôn trọng, nơi mà tiến bộ đạo đứctâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm đến đời sống đạo đức, hôm nay vẫn còn là một thách thức ở phía trước, dù người ta có nhắm mắt cũng vẫn hình dung được những nét căn bản của nó.

Đó là một xã hội mà sự phân hóa giàu nghèo được thu hẹp, sự bình đẳng về cơ hội sống và làm việc được xác lập, người thiếu thốn, bệnh hoạn, già nua được giúp đỡ, trẻ em được nuôi dưỡng chu đáo, người người sống chan hòa trong tình thân ái, mang hạnh phúc và ánh sáng lại cho những kẻ đau khổ và lầm lỗi.

Trong xã hội ấy, Phật dạy cần thực hiện ba điều đạo đức sau đây: “tránh làm điều ác, tu tập điều lành và tịnh hóa tâm mình”. Đó cũng là một xã hộivăn hóa, biết ban bố phúc lợi đồng đếu cho mọi thành viên, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, giới tính và địa vị xã hội. Tóm lại, đó là một xã hội vận hành trên nền tảng nhân bản, mà vị tha là phẩm chất, hòa hợp là nguyên lý tồn tại, không có sự tranh chấp, xung đột giữa cá nhâncá nhân, cá nhânxã hội, giữa con người với môi trường thiên nhiên… một cuộc sống quân bình trên nhiều phương diện.

Đức Phật với tư cách là một nhà cải cách xã hội trong ý nghĩa đạo đức, đã không chấp nhận hệ thống xã hội dựa trên giai cấp của Bà-la-môn; không đánh giá một con người dựa trên vị trí xã hội khi họ sinh ra. Chính sự phát triển tâm linh hướng thiện và hướng thượng của con người làm cho họ trở nên đạo đức và chính động cơ xấu xaviệc làm cụ thể của con người làm cho họ trở thành một kẻ ác độc.

Mô hình xã hội lý tưởng của đạo Phật hay của bất kỳ nhà xã hội học nào cũng phải dựa trên sự bình đẳng, tính công minh và đạo đức. Những hình phạt hay pháp chế chỉ nhằm răn đe và uốn nắn con người sống tốt hơn, đẹp hơn, vị tha hơn… Nếu chỉ dùng hình luật, xã hội sẽ trở thành nơi cải huấn, trừng phạthiệu quả rất thấp vì sự tự giác đã biến mất; thay vào đó là thái độ luồn lách, đối phó, “khôn vặt”, và sự tiến bộ sẽ không đi kèm theo sự an lạc trong xã hội. Những nhà lãnh đạo, nhất là chính quyền, đều phải ý thức về điều này trong quá trình xây dựng tổ chức, cộng đồng, đất nước… Nơi nào sự bất công áp bức, mầm bất thiện còn tồn tại thì ngọn lửa đấu tranh vẫn có nguy cơ bùng lên, và đó chính là lời cảnh báo cho sự bất ổn tiềm tàng như mạch nước ngầm đang tuôn chảy. Chỉ có con đê hòa hợpcon đường nhân ái mới khiến mạch nước ấy chảy vào dòng sông hạnh phúc.

Ngàn năm qua, lý tưởng Phật vẫn làm ngọn đuốc sáng soi lương tri nhân loại và nhiều ngàn năm sau nữa, lý tưởng ấy vẫn là vĩnh hằng, bất biến!

(Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo 128)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20909)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19251)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40508)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21245)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41043)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24089)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23034)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17824)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20713)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33615)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20990)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28880)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12682)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25264)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19129)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17508)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25752)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18995)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18965)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29005)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18892)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33306)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31226)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18215)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24483)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19441)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17889)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23019)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18008)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32165)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17375)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17425)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16065)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18562)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20758)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18061)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20100)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14872)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20896)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15062)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15754)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12934)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14499)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14898)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12763)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14514)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
(Xem: 34360)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant