Đi
dọc dòng sông Phật giáo: NHỮNG MỸ
TỤC và NÉT BÍ ẨNHUYỀN ẢO
TRÊN
ĐẤT NƯỚC CHÙA VÀNG
Đạo
Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản
sắc dân tộc, tính cáchcon người, nghệ thuật kiến trúc,
tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người
Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng
vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh
huyền ảo bằng những công trìnhtôn giáo rải rác khắp nơi,
làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần
diễm lệ...
Tục dán
vàng lên tượng Phật
Trong
các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn
mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng
mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó
là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi
lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng
tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tạiđộc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết
sứcđặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên
tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng,
tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo
vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba
chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng
chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán
vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc
dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng
liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người
liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng
chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng,
lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn
lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng
vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng,
giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu,
thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực
mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.
Chúng
tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của
họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và
“siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như
dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên
nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch,
làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá
bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau:
loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức
tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại
“cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tạiđộc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại
“siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng
Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”.
Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu
mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất
là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy
tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy
cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng
2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng
2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để
được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh
nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán
được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ
lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng
giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng
cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được
đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng,
phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong
suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ
rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành
một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.
Nghề
đúc tượng và tạc tượng Phật
Cảm
giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu
cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ.
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không
ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc
tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những
xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm
một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức
tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình
cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn
theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc
thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động
từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá
thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những
phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng
Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài
cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng
Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn
vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồchiêm ngưỡng hàng
chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng
ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm
chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là
đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các
xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt
hàng duy nhất là tượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không
hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm
vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở
đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực
sự sinh động.
Những
pho tượng niết bàn khổng lồ
Ưu
thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được
kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng
lớn như ở Myanmar thì quả thậtchúng tôi chưa hề thấy
ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ
báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú
ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài
nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng
kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta
đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phậtniết bàn được
coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:
-
Tượng Phậtniết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế
tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ
Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc
rất tôn sùngđạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà
cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn
người tới dâng lễ và chiêm bái.
-
Tượng Phậtniết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon)
cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ
bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn
tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất
Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt
dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm
944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kínhsinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức
tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ
thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới
năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây
nhà để thờ.
Lại
còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng
vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được
hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m
xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh
phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc.
Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không
chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm
đam mêcuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.
Đường
lên đỉnh núi đá vàng thiêng
Biết
chúng tôiquan tâm nhiều tới nền văn hóaPhật giáo suốt
chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các
bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng”
ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi
hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới
đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe
chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên
tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc.
Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác
của biết bao Phật tửhành hương, vì đây là vương quốc
của voi, tê giác, hổ, báo, sư tử và ác thần. Ven đường
đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những
người xấu số và cầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh
núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật,
vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với
rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm
cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m.
Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi,
sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên
Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi
cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang
hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức
tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thaixuất hiện. Chúng tôihoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực
kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc
mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt
bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao
gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn
tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với
hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây
hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong
tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành
kínhchiêm báiĐức Phật ở mọi nơi mọi chốn trong khuôn
viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.
Đối
tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến
trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh
bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu
bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận
với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ
là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng
chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn
tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở
dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tửliên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó,
nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ
xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế
của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban
chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền
trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên
dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một
vùng rừng núi bao laxung quanh với hàng loạt đền đài Phật
giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một
cảm giácmơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc
mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng
tôiquyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận
hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên
đường.
Tam
giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam
giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ
nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới
195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất
của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ
hai là trung tâmTam giác vàng. Đó là một khu vực có đường
kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên
giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa
Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn.
Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu
gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu
hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của
cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấugiang hồ, của
các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế
biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun
Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương.
Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập
vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa
hơn nhiều do cố gắnghợp tác triệt phá ma túy của 4 chính
phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một
khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một
viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng
là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn
kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia
bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế
giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có
hai chuyến đi tới khu vực trung tâmTam giác vàng vào các năm
2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây
số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có
20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây
số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng
tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới
tận ngã ba biên giớitức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là
vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng
vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám
thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở,
lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần
đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ
chủ yếu của Tam giác vàng hiện ratrước mắt, bên bờ hữu
của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa
nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa
ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “
Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa
là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa
lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc
nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung
đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn
là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng,
dòng sông hoang dã mới trở lạithanh bình rồi mất hút vào
những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm
rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy
tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ
hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ
con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất
hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm.
Thì ra sức sống lương thiện và từ bi của đạo Phật vẫn
kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng
lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không
có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn
cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai
lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào
lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng,
trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế
giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những
Phật tửhiền hòa với những tâm hồnthánh thiện, hiển
hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô
hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ
tới: Chân dungTam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên
giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng-
Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông.
(Tạp
Chí Văn Hoá Phật Giáo)
Đạo
Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản
sắc dân tộc, tính cáchcon người, nghệ thuật kiến trúc,
tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người
Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng
vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh
huyền ảo bằng những công trìnhtôn giáo rải rác khắp nơi,
làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần
diễm lệ...
Tục dán
vàng lên tượng Phật
Trong
các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn
mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng
mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó
là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi
lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng
tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tạiđộc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết
sứcđặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên
tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng,
tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo
vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba
chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng
chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán
vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc
dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng
liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người
liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng
chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng,
lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn
lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng
vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng,
giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu,
thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực
mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.
Chúng
tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của
họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và
“siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như
dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên
nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch,
làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá
bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau:
loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức
tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại
“cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tạiđộc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại
“siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng
Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”.
Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu
mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất
là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy
tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy
cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng
2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng
2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để
được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh
nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán
được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ
lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng
giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng
cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được
đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng,
phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong
suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ
rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành
một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.
Nghề
đúc tượng và tạc tượng Phật
Cảm
giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu
cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ.
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không
ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc
tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những
xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm
một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức
tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình
cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn
theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc
thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động
từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá
thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những
phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng
Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài
cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng
Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn
vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồchiêm ngưỡng hàng
chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng
ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm
chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là
đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các
xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt
hàng duy nhất là tượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không
hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm
vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở
đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực
sự sinh động.
Những
pho tượng niết bàn khổng lồ
Ưu
thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được
kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng
lớn như ở Myanmar thì quả thậtchúng tôi chưa hề thấy
ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ
báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú
ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài
nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng
kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta
đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phậtniết bàn được
coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:
-
Tượng Phậtniết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế
tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ
Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc
rất tôn sùngđạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà
cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn
người tới dâng lễ và chiêm bái.
-
Tượng Phậtniết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon)
cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ
bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn
tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất
Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt
dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm
944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kínhsinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức
tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ
thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới
năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây
nhà để thờ.
Lại
còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng
vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được
hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m
xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh
phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc.
Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không
chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm
đam mêcuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.
Đường
lên đỉnh núi đá vàng thiêng
Biết
chúng tôiquan tâm nhiều tới nền văn hóaPhật giáo suốt
chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các
bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng”
ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi
hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới
đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe
chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên
tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc.
Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác
của biết bao Phật tửhành hương, vì đây là vương quốc
của voi, tê giác, hổ, báo, sư tử và ác thần. Ven đường
đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những
người xấu số và cầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh
núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật,
vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với
rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm
cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m.
Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi,
sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên
Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi
cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang
hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức
tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thaixuất hiện. Chúng tôihoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực
kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc
mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt
bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao
gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn
tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với
hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây
hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong
tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành
kínhchiêm báiĐức Phật ở mọi nơi mọi chốn trong khuôn
viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.
Đối
tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến
trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh
bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu
bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận
với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ
là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng
chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn
tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở
dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tửliên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó,
nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ
xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế
của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban
chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền
trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên
dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một
vùng rừng núi bao laxung quanh với hàng loạt đền đài Phật
giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một
cảm giácmơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc
mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng
tôiquyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận
hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên
đường.
Tam
giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam
giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ
nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới
195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất
của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ
hai là trung tâmTam giác vàng. Đó là một khu vực có đường
kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên
giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa
Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn.
Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu
gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu
hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của
cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấugiang hồ, của
các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế
biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun
Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương.
Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập
vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa
hơn nhiều do cố gắnghợp tác triệt phá ma túy của 4 chính
phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một
khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một
viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng
là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn
kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia
bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế
giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có
hai chuyến đi tới khu vực trung tâmTam giác vàng vào các năm
2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây
số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có
20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây
số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng
tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới
tận ngã ba biên giớitức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là
vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng
vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám
thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở,
lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần
đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ
chủ yếu của Tam giác vàng hiện ratrước mắt, bên bờ hữu
của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa
nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa
ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “
Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa
là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa
lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc
nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung
đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn
là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng,
dòng sông hoang dã mới trở lạithanh bình rồi mất hút vào
những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm
rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy
tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ
hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ
con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất
hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm.
Thì ra sức sống lương thiện và từ bi của đạo Phật vẫn
kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng
lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không
có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn
cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai
lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào
lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng,
trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế
giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những
Phật tửhiền hòa với những tâm hồnthánh thiện, hiển
hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô
hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ
tới: Chân dungTam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên
giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng-
Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông.
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếu và báo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏiđịa ngục.
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràngsáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm khôngđiên đảo, là chân tâm.
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chất và tâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệtgiới thiệu về truyền thốngtu tập thiềnTứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng tanhận định được bản chấtcăn bản của chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăngđệ tửxuất gia của Phật đà là Tăng Bảo.
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thìnăng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ bi là đam mê cho tất cả.
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
Chúng ta có thói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khailòng tốt và tình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con ngườichúng ta.
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểmPhật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồisinh tử.
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời giancố gắngtìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gianbao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõtuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâmchúng ta...
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổ và hân hoan của nó.
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cáchtôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệvô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâmđại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
Tư tưởngvị tha mong đạt đượcgiác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểmvô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.