Đi
dọc dòng sông Phật giáo: NHỮNG MỸ
TỤC và NÉT BÍ ẨNHUYỀN ẢO
TRÊN
ĐẤT NƯỚC CHÙA VÀNG
Đạo
Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản
sắc dân tộc, tính cáchcon người, nghệ thuật kiến trúc,
tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người
Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng
vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh
huyền ảo bằng những công trìnhtôn giáo rải rác khắp nơi,
làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần
diễm lệ...
Tục dán
vàng lên tượng Phật
Trong
các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn
mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng
mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó
là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi
lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng
tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tạiđộc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết
sứcđặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên
tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng,
tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo
vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba
chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng
chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán
vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc
dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng
liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người
liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng
chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng,
lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn
lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng
vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng,
giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu,
thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực
mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.
Chúng
tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của
họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và
“siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như
dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên
nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch,
làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá
bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau:
loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức
tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại
“cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tạiđộc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại
“siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng
Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”.
Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu
mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất
là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy
tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy
cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng
2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng
2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để
được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh
nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán
được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ
lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng
giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng
cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được
đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng,
phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong
suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ
rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành
một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.
Nghề
đúc tượng và tạc tượng Phật
Cảm
giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu
cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ.
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không
ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc
tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những
xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm
một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức
tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình
cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn
theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc
thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động
từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá
thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những
phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng
Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài
cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng
Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn
vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồchiêm ngưỡng hàng
chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng
ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm
chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là
đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các
xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt
hàng duy nhất là tượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không
hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm
vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở
đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực
sự sinh động.
Những
pho tượng niết bàn khổng lồ
Ưu
thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được
kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng
lớn như ở Myanmar thì quả thậtchúng tôi chưa hề thấy
ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ
báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú
ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài
nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng
kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta
đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phậtniết bàn được
coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:
-
Tượng Phậtniết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế
tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ
Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc
rất tôn sùngđạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà
cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn
người tới dâng lễ và chiêm bái.
-
Tượng Phậtniết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon)
cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ
bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn
tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất
Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt
dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm
944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kínhsinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức
tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ
thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới
năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây
nhà để thờ.
Lại
còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng
vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được
hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m
xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh
phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc.
Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không
chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm
đam mêcuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.
Đường
lên đỉnh núi đá vàng thiêng
Biết
chúng tôiquan tâm nhiều tới nền văn hóaPhật giáo suốt
chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các
bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng”
ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi
hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới
đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe
chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên
tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc.
Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác
của biết bao Phật tửhành hương, vì đây là vương quốc
của voi, tê giác, hổ, báo, sư tử và ác thần. Ven đường
đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những
người xấu số và cầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh
núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật,
vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với
rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm
cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m.
Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi,
sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên
Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi
cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang
hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức
tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thaixuất hiện. Chúng tôihoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực
kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc
mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt
bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao
gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn
tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với
hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây
hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong
tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành
kínhchiêm báiĐức Phật ở mọi nơi mọi chốn trong khuôn
viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.
Đối
tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến
trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh
bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu
bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận
với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ
là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng
chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn
tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở
dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tửliên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó,
nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ
xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế
của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban
chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền
trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên
dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một
vùng rừng núi bao laxung quanh với hàng loạt đền đài Phật
giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một
cảm giácmơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc
mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng
tôiquyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận
hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên
đường.
Tam
giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam
giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ
nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới
195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất
của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ
hai là trung tâmTam giác vàng. Đó là một khu vực có đường
kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên
giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa
Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn.
Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu
gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu
hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của
cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấugiang hồ, của
các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế
biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun
Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương.
Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập
vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa
hơn nhiều do cố gắnghợp tác triệt phá ma túy của 4 chính
phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một
khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một
viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng
là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn
kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia
bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế
giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có
hai chuyến đi tới khu vực trung tâmTam giác vàng vào các năm
2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây
số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có
20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây
số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng
tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới
tận ngã ba biên giớitức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là
vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng
vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám
thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở,
lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần
đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ
chủ yếu của Tam giác vàng hiện ratrước mắt, bên bờ hữu
của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa
nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa
ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “
Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa
là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa
lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc
nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung
đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn
là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng,
dòng sông hoang dã mới trở lạithanh bình rồi mất hút vào
những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm
rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy
tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ
hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ
con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất
hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm.
Thì ra sức sống lương thiện và từ bi của đạo Phật vẫn
kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng
lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không
có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn
cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai
lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào
lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng,
trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế
giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những
Phật tửhiền hòa với những tâm hồnthánh thiện, hiển
hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô
hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ
tới: Chân dungTam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên
giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng-
Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông.
(Tạp
Chí Văn Hoá Phật Giáo)
Đạo
Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản
sắc dân tộc, tính cáchcon người, nghệ thuật kiến trúc,
tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người
Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng
vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh
huyền ảo bằng những công trìnhtôn giáo rải rác khắp nơi,
làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần
diễm lệ...
Tục dán
vàng lên tượng Phật
Trong
các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn
mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng
mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó
là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi
lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng
tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tạiđộc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết
sứcđặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên
tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng,
tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo
vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba
chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng
chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán
vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc
dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng
liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người
liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng
chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng,
lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn
lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng
vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng,
giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu,
thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực
mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.
Chúng
tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của
họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và
“siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như
dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên
nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch,
làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá
bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau:
loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức
tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại
“cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tạiđộc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại
“siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng
Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”.
Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu
mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất
là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy
tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy
cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng
2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng
2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để
được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh
nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán
được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ
lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng
giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng
cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được
đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng,
phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong
suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ
rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành
một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.
Nghề
đúc tượng và tạc tượng Phật
Cảm
giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu
cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ.
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không
ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc
tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những
xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm
một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức
tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình
cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn
theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc
thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động
từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá
thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những
phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng
Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài
cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng
Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn
vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồchiêm ngưỡng hàng
chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng
ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm
chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là
đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các
xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt
hàng duy nhất là tượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không
hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm
vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở
đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực
sự sinh động.
Những
pho tượng niết bàn khổng lồ
Ưu
thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được
kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng
lớn như ở Myanmar thì quả thậtchúng tôi chưa hề thấy
ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ
báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú
ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài
nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng
kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta
đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phậtniết bàn được
coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:
-
Tượng Phậtniết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế
tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ
Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc
rất tôn sùngđạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà
cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn
người tới dâng lễ và chiêm bái.
-
Tượng Phậtniết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon)
cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ
bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn
tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất
Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt
dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm
944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kínhsinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức
tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ
thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới
năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây
nhà để thờ.
Lại
còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng
vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được
hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m
xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh
phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc.
Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không
chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm
đam mêcuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.
Đường
lên đỉnh núi đá vàng thiêng
Biết
chúng tôiquan tâm nhiều tới nền văn hóaPhật giáo suốt
chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các
bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng”
ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi
hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới
đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe
chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên
tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc.
Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác
của biết bao Phật tửhành hương, vì đây là vương quốc
của voi, tê giác, hổ, báo, sư tử và ác thần. Ven đường
đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những
người xấu số và cầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh
núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật,
vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với
rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm
cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m.
Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi,
sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên
Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi
cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang
hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức
tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thaixuất hiện. Chúng tôihoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực
kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc
mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt
bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao
gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn
tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với
hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây
hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong
tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành
kínhchiêm báiĐức Phật ở mọi nơi mọi chốn trong khuôn
viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.
Đối
tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến
trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh
bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu
bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận
với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ
là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng
chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn
tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở
dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tửliên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó,
nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ
xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế
của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban
chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền
trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên
dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một
vùng rừng núi bao laxung quanh với hàng loạt đền đài Phật
giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một
cảm giácmơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc
mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng
tôiquyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận
hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên
đường.
Tam
giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam
giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ
nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới
195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất
của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ
hai là trung tâmTam giác vàng. Đó là một khu vực có đường
kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên
giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa
Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn.
Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu
gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu
hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của
cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấugiang hồ, của
các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế
biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun
Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương.
Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập
vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa
hơn nhiều do cố gắnghợp tác triệt phá ma túy của 4 chính
phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một
khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một
viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng
là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn
kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia
bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế
giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có
hai chuyến đi tới khu vực trung tâmTam giác vàng vào các năm
2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây
số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có
20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây
số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng
tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới
tận ngã ba biên giớitức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là
vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng
vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám
thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở,
lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần
đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ
chủ yếu của Tam giác vàng hiện ratrước mắt, bên bờ hữu
của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa
nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa
ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “
Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa
là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa
lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc
nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung
đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn
là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng,
dòng sông hoang dã mới trở lạithanh bình rồi mất hút vào
những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm
rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy
tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ
hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ
con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất
hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm.
Thì ra sức sống lương thiện và từ bi của đạo Phật vẫn
kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng
lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không
có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn
cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai
lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào
lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng,
trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế
giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những
Phật tửhiền hòa với những tâm hồnthánh thiện, hiển
hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô
hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ
tới: Chân dungTam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên
giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng-
Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông.
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô sốphương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đếntâm bình thường này.
Các phần lý thuyết và thực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận raquả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốtthời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sửPhật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
Những ảnh hưởngtích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ratác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểuý nghĩa và nguyên nhân của sự đau khổ...
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâmdũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệ và nâng đỡ cho các ngươi.”
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
Mùa xuânđồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫnvô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minhtruyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chất và tâm linh, của đất nước Tây Tạng...
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
Nay nhìn lại, tôi nhận ranếp sống nhà chùa là nếp sốngtình thương và trí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
Anh đã từng xót thương, như tựxót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức PhậtThích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại họcẤn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
Phật Giáohiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền việnTrúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
Phật phápquảng đạivô biên, bình đẳngviên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiếncon người một phương châmgiải thoátchân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
Đối với Phật tửViệt Namchúng ta nhất là những người theo truyền thốngđại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
Thuở xưa, khi Đức Phậtthuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biếtrõ ràng về bốn sự thậttrong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổ và cách sống an vui hạnh phúc...
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trìgiải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phú và thiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồThiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộquay vềquy ngưỡng Phật Ðạo...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.