Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi dọc dòng sông Phật giáo: Những mỹ tục và nét bí ẩn huyền ảo trên đất nước chùa Vàng

30 Tháng Chín 201000:00(Xem: 15105)
Đi dọc dòng sông Phật giáo: Những mỹ tục và nét bí ẩn huyền ảo trên đất nước chùa Vàng
Đi dọc dòng sông Phật giáo:
NHỮNG MỸ TỤC và NÉT BÍ ẨN HUYỀN ẢO
TRÊN ĐẤT NƯỚC CHÙA VÀNG
Đạo Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản sắc dân tộc, tính cách con người, nghệ thuật kiến trúc, tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh huyền ảo bằng những công trình tôn giáo rải rác khắp nơi, làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần diễm lệ...

Tục dán vàng lên tượng Phật

Trong các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tại độc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết sức đặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng, tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng, lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng, giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu, thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.

Chúng tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và “siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch, làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau: loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại “cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tại độc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại “siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”. Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng 2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng 2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng, phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.
 

Nghề đúc tượngtạc tượng Phật
Cảm giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ. Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồ chiêm ngưỡng hàng chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt hàng duy nhấttượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực sự sinh động.

tuong-phat-myanmar-content


Những pho tượng niết bàn khổng lồ
blankƯu thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng lớn như ở Myanmar thì quả thật chúng tôi chưa hề thấy ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phật niết bàn được coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:

- Tượng Phật niết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc rất tôn sùng đạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn người tới dâng lễ và chiêm bái.


blank

- Tượng Phật niết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon) cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm 944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kính sinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây nhà để thờ.

Lại còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc. Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm đam mê cuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.

Đường lên đỉnh núi đá vàng thiêng

Biết chúng tôi quan tâm nhiều tới nền văn hóa Phật giáo suốt chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng” ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc. Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác của biết bao Phật tử hành hương, vì đây là vương quốc của voi, tê giác, hổ, báo, sư tửác thần. Ven đường đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những người xấu sốcầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật, vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m. Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi, sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thai xuất hiện. Chúng tôi hoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành kính chiêm bái Đức Phậtmọi nơi mọi chốn trong khuôn viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.

blank

 
Đối tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tử liên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó, nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một vùng rừng núi bao la xung quanh với hàng loạt đền đài Phật giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một cảm giác mơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng tôi quyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên đường.

Tam giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới 195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ hai là trung tâm Tam giác vàng. Đó là một khu vực có đường kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn. Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấu giang hồ, của các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương. Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa hơn nhiều do cố gắng hợp tác triệt phá ma túy của 4 chính phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có hai chuyến đi tới khu vực trung tâm Tam giác vàng vào các năm 2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có 20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới tận ngã ba biên giới tức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở, lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ chủ yếu của Tam giác vàng hiện ra trước mắt, bên bờ hữu của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “ Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng, dòng sông hoang dã mới trở lại thanh bình rồi mất hút vào những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm. Thì ra sức sống lương thiệntừ bi của đạo Phật vẫn kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng, trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những Phật tử hiền hòa với những tâm hồn thánh thiện, hiển hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ tới: Chân dung Tam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng- Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông. 

(Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo)

Đạo Phật đã góp phần quyết định trong việc hình thành bản sắc dân tộc, tính cách con người, nghệ thuật kiến trúc, tạo hình cùng với bộ mặt tín ngưỡng của xã hội người Myanmar. Cũng chính đạo Phật đã tô điểm cho núi sông hùng vĩ, hoang dã và thơ mộng của đất nước này thêm lung linh huyền ảo bằng những công trình tôn giáo rải rác khắp nơi, làm cho nó vốn đã bí ẩn càng trở nên kỳ lạ và bội phần diễm lệ...

Tục dán vàng lên tượng Phật

Trong các ngôi đền có tượng Phật lớn (thường là cao ba, bốn mét trở lên), liên tục diễn ra một cảnh tượng lạ lùng mà chúng tôi chưa hề nhìn thấy ở bất cứ nước nào, đó là cảnh Phật tử dán vàng lá cực mỏng lên tượng. Mỗi lá vàng có kích cỡ 3cm x 3cm giá khoảng trên ba ngàn đồng tiền Việt. Vì lá vàng siêu mỏng nên nó không thể tồn tại độc lập mà phải được trải trên một miếng giấy hết sức đặc biệt. Bạn cầm miếng “giấy vàng” đó trên tay, áp mặt có vàng vào tượng. Vàng sẽ dính hết vào tượng, tay bạn chỉ còn miếng giấy không còn vàng. Người nghèo vào đền thường mua một, hai miếng; người giàu mua vài ba chục miếng như vậy. Cùng lúc bạn có thể nhìn thấy hàng chục người bao quanh bức tượng Phật khổng lồ để dán vàng. Vì tượng lớn nên người ta phải bố trí thang hoặc dàn dáo để Phật tử trèo lên thực hiện công việc thiêng liêng của họ. Tất nhiên, với hàng trăm hàng ngàn người liên tục dán như vậy, sẽ có hàng trăm hàng ngàn lớp vàng chồng đè lên nhau. Nếu khi dán không khéo, tay chạm vào tượng, lập tức có một lớp vàng mỏng dính vào da tay bạn, nhìn lấp lánh ánh kim hoàng. Thông thường về đêm khuya, khi vắng vẻ, người ta mới lấy khăn lau hết bột vàng trên tượng, giặt vào một chậu nước lớn. Vàng chìm xuống đáy chậu, thu hồi rồi đem tới xưởng, chế lại thành vàng lá cực mỏng như trước, kết thúc một chu kỳ.

Chúng tôi tới thăm một xưởng dát vàng thủ công. Công việc của họ là làm ra những lá vàng “mỏng”, “cực mỏng” và “siêu mỏng” để dùng vào nhiều công việc khác nhau, như dát vàng lên các bức tượng Phật bằng đồng, dát vàng lên nhiều bộ phận của một bức tượng Phật bằng cẩm thạch, làm thành những lá bồ đề bằng vàng cực mỏng, mỗi lá bán 5 đô la Mỹ. Độ mỏng của chúng hoàn toàn khác nhau: loại “mỏng vừa” là để dát lên các bộ phận của bức tượng Phật bằng cẩm thạch, không bao giờ bị bong ra. Loại “cực mỏng” để làm những lá bồ đề, có thể tồn tại độc lập, được bọc trong một lớp giấy bóng. Còn loại “siêu mỏng” chỉ để bán cho Phật tử dán lên tượng Phật như vừa kể. Cần phân biệt hai từ “dát” và “dán”. Loại mỏng vừa để cho thợ “dát” lên tượng, loại “siêu mỏng” để cho Phật tử “dán” lên tượng. Kỳ công nhất là loại “siêu mỏng”. Loại này tiêu thụ mạnh nhất. Hãy tưởng tượng một quy trình công nghệ: đầu tiên dùng máy cán vàng thật mỏng như tờ giấy, cắt thành miếng khoảng 2cm2 , dùng búa đập liên tục 1 giờ thành miếng 16cm2. Chồng 2.000 mảnh x 16cm2 đó lên nhau đập liên tục 5 giờ nữa để được 2.000 mảnh x 64cm2 rồi mới cắt ra thành những mảnh nhỏ, mỗi mảnh 9cm2 (3cmx3cm) để bán cho Phật tử. Giá bán được tính theo công thức: tiền vàng và tiền giấy đỡ lá vàng chiếm 20%, tiền công 80%, tiền lời 30%. Tổng cộng giá bán là 130%. Công nghệ làm giấy nền đỡ cho lá vàng cũng cực kỳ phức tạp: một loại tre đặc biệt được đem chẻ nhỏ ngâm nước 3 năm để biến thành bột, dát mỏng, phơi nắng rồi đập như vàng cho tới khi tờ giấy tre trong suốt có màu hơi vàng mới dùng được. Vì sức tiêu thụ rất lớn nên công việc dát vàng siêu mỏng đã trở thành một nghề thủ công truyền thống rất nổi tiếng ở Myanmar.

Nghề đúc tượngtạc tượng Phật
Cảm giác chung của chúng tôi là, ở đây đền chùa xây bao nhiêu cũng thiếu, tượng Phật tạc, đúc bao nhiêu cũng không đủ. Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch) và những xưởng đúc tượng Phật bằng đồng. Chúng tôi đã tới thăm một xưởng đúc tượng đồng, sản phẩm là hàng ngàn bức tượng Phật nhỏ từ nửa ký tới vài ba ký, cỡ trung bình cũng vài ba chục ký, lớn thì hàng trăm ký, loại cực lớn theo đơn đặt có khi nặng hàng chục tấn. Nhiều xưởng đúc thường tập trung trong một khu vực, một làng, hoạt động từ nhiều thế kỷ nay. Riêng nghề tạc tượng Phật từ đá thường tập trung lại thành phố, thành phường. Có những phố dài tập hợp hàng trăm xưởng sản xuất liên tục, tượng Phật bày đầy vườn, đầy nhà, tràn ra lề đường kéo dài cả cây số. Bạn có thể lang thang ở những “phố dài tượng Phật” như thế này cả ngày không chán, ngập chìm trong muôn vàn mẫu mã sản phẩm khác nhau, tha hồ chiêm ngưỡng hàng chục ngàn bức tượng Phật để chọn mua những bức ưng ý nhất. Tất nhiên có những bức nặng hàng trăm ký, thậm chí hàng tấn, hàng chục tấn thì chỉ đền chùa mới là đối tượng để tiêu thụ. Một đặc điểm chung của các xưởng đúc và tạc tượng này là hầu như chỉ có một mặt hàng duy nhấttượng Phật, các sản phẩm khác hoặc không hề có hoặc hoàn toàn không đáng kể. Chính vì chuyên tâm vào một loại sản phẩm như vậy nên các người thợ ở đây có một tay nghề rất cao, tạo ra những bức tượng thực sự sinh động.
Những pho tượng niết bàn khổng lồ
blankƯu thế của tượng nằm là người ta có thể chế tạo được kích cỡ lớn hơn hẳn tượng ngồi và tượng đứng, nhưng lớn như ở Myanmar thì quả thật chúng tôi chưa hề thấy ở đâu có trên tất cả các nẻo đường làm phim. Một tờ báo của ta đưa tin, bức tượng niết bàn trên núi Tà Cú ở Bình Thuận dài 49m, và cho đó là bức tượng nằm dài nhất Đông Nam Á. Khi sang tới Myanmar chúng tôi mới hiểu rằng kích cỡ tượng ở Tà Cú chẳng thấm vào đâu. Người ta đưa chúng tôi tới xem 2 bức tượng Phật niết bàn được coi là lớn thứ 3 và thứ 4 của Myanmar:

- Tượng Phật niết bàn ở Yangon dài 73m, cao 35m, được chế tác vào năm 1.107 theo trường phái Môn. Miền đất Nam bộ Myanmar xa xưa là vương quốc của người Môn, một sắc tộc rất tôn sùng đạo Phật. Người ta phải xây một ngôi nhà cực lớn, cao ngất để thờ tượng, đủ chỗ cho hàng ngàn người tới dâng lễ và chiêm bái.

blank

- Tượng Phật niết bàn ở Bagô (một bang láng giềng của Yangon) cũng là một xứ sở của người Môn. Thành phố thủ phủ bang này xưa là kinh đô của vương quốc Môn, hiện đang tồn tại một hoàng cung lộng lẫy và một chùa vàng 113m cao nhất Myanmar. Tượng Phật nằm ở đây dài 54,88m, cao 16m, khuôn mặt dài 6, 86m, mắt dài 1,14m do nhà vua Miga Depa cho xây dựng năm 944, chất liệu bằng gạch. Đây là bức tượng nằm cổ kính sinh động nhất hiện nay, đặc biệt là khuôn mặt hết sức tươi tắn và từ bi. Từ thế kỷ thứ XI, tác phẩm nghệ thuật này hoàn toàn bị bỏ hoang phế hơn 800 năm. Mãi tới năm 1852 một số nhà sư mới phát hiện, trùng tu rồi xây nhà để thờ.

Lại còn có 2 bức tượng niết bàn khác lớn hơn hẳn 2 bức tượng vừa kể trên. Đó là bức tượng dài 160m ở Mandalay được hoàn thành cách đây 8 năm, và một tượng khổng lồ dài 300m xây dựng suốt 18 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì thiếu kinh phí. Tất cả mọi tượng Phật nằm đều được xây đặc. Rõ ràng để có được những công trình lớn như vậy, không chỉ có tiền mà phải có một niềm tin mãnh liệt, một niềm đam mê cuồng nhiệt và lòng tôn kính thật sự chân thành.

Đường lên đỉnh núi đá vàng thiêng

Biết chúng tôi quan tâm nhiều tới nền văn hóa Phật giáo suốt chiều dài sông Mê Kông và các nước lưu vực của nó, các bạn Myanmar khuyên nên tới chiêm ngưỡng “Tảng đá vàng” ở trên độ cao 1.100m so với mặt biển tại miền rừng núi hẻo lánh của Bang Môn, miền Nam đất nước. Từ Yangon tới đó xe chạy phải mất nửa ngày đường. Tới chân núi, xe chúng tôi phải để lại rồi thuê xe tải chở cả đoàn lên tới độ cao khoảng 700m, đường đèo ngoằn ngoèo, cực dốc. Con đường nguy hiểm này từ xa xưa đã từng là nơi bỏ xác của biết bao Phật tử hành hương, vì đây là vương quốc của voi, tê giác, hổ, báo, sư tửác thần. Ven đường đèo còn thấy những miếu thờ để cầu nguyện cho những người xấu sốcầu an cho những khách bộ hành. Phong cảnh núi đồi vừa có dáng dấp Chùa Hương âm u nơi đất Phật, vừa hùng vĩ như những con đường đèo lên Đà Lạt, với rừng rậm vực sâu, suối nước và những ngôi chùa. Từ điểm cao 700m xe ngừng chạy để người leo bộ lên độ cao 1.100m. Đường leo bộ được đổ bê tông bằng phẳng, rộng rãi, sạch sẽ, có lan can bảo hiểm, đẹp hơn hẳn đường lên Chùa Hương của ta. Phần lớn du khách nước ngoài đều ngồi cáng vì không leo nổi. Riêng chúng tôi chỉ thuê người mang hành lý vì còn phải vừa đi vừa quay phim. Vừa lúc “sức tàn lực kiệt” thì chốn Thiên Thai xuất hiện. Chúng tôi hoàn toàn bị bất ngờ trước vẻ nguy nga tráng lệ, cực kỳ lộng lẫy và to lớn của cả một quần thể kiến trúc mênh mông trên đỉnh núi được trải rộng trên một mặt bằng lớn như sân vận động, dài tới vài ba cây số bao gồm đền đài, miếu mạo, tượng thờ, nhà hàng, khách sạn tọa lạc trên một mặt bằng lát gạch bông sạch bóng, với hàng ngàn Phật tử khói hương nghi ngút, tay cầm những dây hoa lài hoặc những bó hoa huệ thơm phức, ngây ngất trong tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh vang vang núi đồi, thành kính chiêm bái Đức Phậtmọi nơi mọi chốn trong khuôn viên rộng hàng chục hec-ta rực ánh chiều tà.

blank

 
Đối tượng chính được tôn thờ trong toàn bộ quần thể kiến trúc Phật giáo này chính là tảng đá vàng kỳ lạ chênh vênh bên mép vực, nằm nghiêng như sắp rơi xuống hẻm núi sâu bởi chỉ hơi dính mép núi. Diện tích mà tảng đá tiếp cận với mép núi chỉ chiếm 1,4% diện tích đáy của nó. Kỳ lạ là nó luôn ở tư thế “chuẩn bị rơi” như vậy đã hàng chục triệu năm, nhưng người ta lại hiểu là nó chỉ tồn tại từ khi có Đức Phật tới đây, nên rất thiêng. Sở dĩ gọi là đá vàng vì hàng ngày luôn có hàng ngàn Phật tử liên tục dán vàng lá mỏng lên toàn bộ bề mặt của nó, nhất là phần thấp nhất dễ với tới của tảng đá. Từ xa vài cây số chúng tôi đã nhìn thấy hình dáng và tư thế của nó. Màu vàng chói lọi của nó đã được ánh nắng ban chiều chiếu vào làm ánh lên một ánh kim kỳ diệu giữa nền trời xanh mây trắng bên trên và núi rừng xanh thẳm ở bên dưới. Từ chân tảng đá vàng có thể nhìn bao quát cả một vùng rừng núi bao la xung quanh với hàng loạt đền đài Phật giáo ẩn hiện lấp lánh dưới ánh mặt trời, tạo cho ta một cảm giác mơ màng, thoát tục, đặc biệt là vào những lúc mây trắng dưới chân lớp lớp trôi đi phủ kín núi đồi.
Chúng tôi quyết định lưu lại một đêm trên cõi Phật để tận hưởng cho hết cái cảm giác lâng lâng như ở chốn thiên đường.
Tam giác vàng huyền bí và những dấu ấn Phật giáo
Tam giác vàng lừng danh luôn được hiểu theo hai khái niệm: Thứ nhất, đó là một vùng lãnh thổ âm u rừng núi rộng tới 195000 km2, lớn hơn cả nước Campuchia, bao gồm phần đất của cả bốn nước Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái Lan. Thứ hai là trung tâm Tam giác vàng. Đó là một khu vực có đường kính khoảng vài chục cây số với tâm điểm là ngã ba biên giới Lào-Thái-Myanmar nơi con sông Maesai là biên giới giữa Thái Lan và Myanmar đổ nước ra Mê Kông từ bên hữu ngạn. Đoạn này bên tả ngạn Mê Kông là đất Lào, bên bờ hữu gồm đất Myanmar ở phía Bắc và đất Thái ở phía Nam. Hầu hết lãnh thổ Tam giác vàng trước kia là vương quốc của cây Anh Túc, là sào huyệt của đám thảo khấu giang hồ, của các thủ lĩnh quân sự nằm ngoài vòng pháp luật chuyên chế biến và phân phối thuốc phiện. Có những ông trùm như Khun Xa dưới trướng có tới 15 ngàn tay súng hùng cứ một phương. Đã từng có những nhà thám hiểm, những nhà báo thâm nhập vào đây rồi không trở về. Hiện nay tình hình đã sáng sủa hơn nhiều do cố gắng hợp tác triệt phá ma túy của 4 chính phủ sở tại. Tuy nhiên, việc biến Tam giác vàng thành một khu vực phi ma túy còn là một vấn đề nan giải, và là một viễn cảnh. Trong kịch bản phim Mê Kông ký sự, Tam giác vàng là một trường đoạn quan trọng bởi đây vừa là đoạn kỳ bí của Mê Kông vừa là một vùng đất luôn ở bên kia bức màn bí mật, không ngừng gợi trí tò mò của cả thế giới. Với tầm quan trọng đặc biệt đó, chúng tôi đã có hai chuyến đi tới khu vực trung tâm Tam giác vàng vào các năm 2003 và 2004. Sông Mê Kông chảy trên đất Myanmar dài 300 cây số, hoàn toàn nằm trong khu vực Tam giác vàng, trong đó có 20 cây số phía Bắc là biên giới với Trung Quốc và 280 cây số phía Nam là biên giới với Lào. Tháng 5 năm 2003, chúng tôi thuê thuyền đi dọc 150 cây số phần phía Nam cho tới tận ngã ba biên giới tức trung Tâm Tam giác vàng. Đây là vùng sông nước biên thùy hẻo lánh hoang vu, cực kỳ hùng vĩ và thơ mộng. Ngồi trên xuồng cao tốc lao như bay theo đám thác ghềnh lởm chởm giữa rừng núi Tam giác vàng hiểm trở, lòng dạ vừa bâng khuâng vừa thực sự hãi hùng. Đó là lần đầu tiên mà hình ảnh của miền đất Bang Shan - lãnh thổ chủ yếu của Tam giác vàng hiện ra trước mắt, bên bờ hữu của đoạn sông Mê Kông - được miêu tả trên sách báo vừa nên thơ vừa rùng rợn, vừa là thiên đường vừa là địa ngục đối với con người. Xin trích một đoạn ngắn: “ Sông Mê Kông đoạn chảy qua Tam giác vàng vừa là phúc vừa là họa. Dòng nước đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống vừa lẫn máu của những xác chết trôi lềnh bềnh. Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng có thể nổ ra những vụ xung đột, thường là đẫm máu, giữa các đám thảo khấu vốn là chân tay các lãnh chúa thuốc phiện. Ra khỏi Tam giác vàng, dòng sông hoang dã mới trở lại thanh bình rồi mất hút vào những khu rừng rậm về phía hạ nguồn…”. Vì tiếng gầm rú vang trời của xuồng máy nên chúng tôi không hề nghe thấy tiếng súng của bọn vận chuyển ma túy bắn nhau trên bờ hay tiếng chuông chùa ven sông, nhưng thỉnh thoảng trên bờ con sông hoang vắng, cả bên Lào và bên Myanmar, vẫn thấy xuất hiện những ngôi chùa thấp thoáng giữa rừng già xanh thẳm. Thì ra sức sống lương thiệntừ bi của đạo Phật vẫn kiên cường và bất tử. Đôi khi chúng tôi cho thuyền dừng lại trước một ngôi chùa Myanmar ở những đoạn sông không có những xoáy nước khổng lồ cuồng loạn để ngắm nhìn cảnh vật và có cảm giác như đó chính là chốn thiên thai lọt giữa miền đất quỷ. Mãi sau này khi thâm nhập sâu vào lãnh thổ Tam giác vàng huyền bí, chúng tôi mới hiểu rằng, trên miền đất lạ lùng này luôn tồn tại song song hai thế giới, tôn thờ hai triết lý sống trái ngược: một của những Phật tử hiền hòa với những tâm hồn thánh thiện, hiển hiện ngay trước mắt; và một là của thế giới ngầm, vô hình, tôn thờ đô la và bạo lực.
Kỳ tới: Chân dung Tam giác vàng- Ngôi chùa cổ giữa ngã ba biên giới- Tượng Phật bên sòng bạc- Xa lộ xuyên Tam giác vàng- Hai trấn biên thùy hẻo lánh- Những ngôi chùa ở Keng Tông. 

(Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14831)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17741)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18188)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14947)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13142)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21096)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32494)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15257)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12303)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12803)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27373)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12101)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34851)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17708)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11791)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12618)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14550)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32417)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19431)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12957)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14062)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14254)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15288)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14118)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14115)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11931)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53103)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11636)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13901)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13798)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20649)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14294)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13415)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13593)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34096)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16195)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14055)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14175)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13524)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15871)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13484)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22892)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27647)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13881)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24900)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13926)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31260)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13853)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15532)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14938)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant