Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi

28 Tháng Năm 201200:00(Xem: 25462)
Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi


LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ÚC ĐẠI LỢI

(History of Buddhism in Australia)

 Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

 

lich_suMục Lục

 

Lời người dịch. TT Thích Nguyên Tạng
Lời giới thiệu. HT Thích Huyền Tôn
Lời giới thiệu. HT Thích Như Ðiển
Lời giới thiệu. TT Khantipalo Thera
Chương 1: Những chiếc bình trống
Chương 2: Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952
Chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956
Chương 4: Trồng sen trên tảng đá: 1956-1971
Chương 5: Những Người Đánh Trống Pháp 1971-1975
Chương 6: Bờ bên kia: 1975-1988

Phụ lục:

- Phật Giáo tại Úc
- Đại Hội Khoáng Đại Kỳ IV...
- Tu Viện Quảng Đức trên đất Úc
- Đôi nét về tác giả và dịch giả

 

 

Lời thưa của người dịch


TT Thích Nguyên Tạng


Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc. Cuốn sách này theo dõi quá trình hình thành của Phật Giáo từ giai đoạn sơ khai vào thế kỷ 19, đến khi những Hội Phật Giáo đầu tiên được thành lập vào đầu thập niên năm mươi của thế kỷ 20;các phong trào học Phật của người Úc và sau đó là những người tị nạn đến từ châu Á. Giống như một bức tranh lịch sử, không chỉ nói về những người Phật tử bình thường tại xứ sở Nam Bán Cầu này, cuốn sách đã hấp dẫn hơn với những nhân vật lập dị, những kẻ giả danh, những người nổi tiếng và các bậc thánh thiện.

Paul Croucher, tác giả tập sách, sinh năm 1961, sinh trưởng ở Sydney, lần đầu tiên tiếp xúc với sách Phật GiáoLão Giáo trong thời gian làm việc ở một tiệm sách vào năm 1979. Tuy chú tâm vào Thiền học nhưng các vị Thầy đầu tiên của ông lại là Lạt Ma Tây Tạng, đó là Lạt Ma Geshe Nyawang Leyden và Lạt Ma Yeshe. Năm 1983, ông viếng thăm Nhật Bản, Thái Lan, và những nơi có người Tây Tạng lưu vong ở miền Bắc Ấn Độ. Từ năm 1984, ông nghiên cứu lịch sử Á Châu và học tiếng Nhật ở đại học Monash (Melbourne). Những quan tâm khác của ông là chơi bóng squash, đi dã ngoại và đọc sách của Henry David Thoreau (1817-1862), một nhà văn Mỹ thuộc phái tự nhiên. Hiện tại ông đang sống tại Melbourne và viết luận án tiến sĩ về lịch sử Thiền Tông.

“Lịch Sử Phật Giáo Úc Đại Lợi” được xuất bản tại Sydney vào năm 1989, với gần 150 trang, bao gồm sáu chương: chương 1: Những chiếc bình trống; chương 2: Cứ như là từ một xứ khác: 1910-1952; chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956; chương 4: Trồng sen trên tảng đá: 1956-1971; chương 5: Những người đánh trống Pháp 1971-1975; và chương 6: Bờ bên kia: 1975-1988.

Như vậy, tập sách “Lịch sử Phật Giáo Úc” chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ lúc khởi nguyên đến năm 1988, tất nhiên từ năm 1981, Phật Giáo Việt Nam đã có mặt tại xứ sở này, và ít nhiều, Paul Croucher đã ghi lại những gì mà ông biết được, cảm nhận được về Phật Giáo Việt Nam, kể ra cũng rất lý thú. Nhưng thôi, đó là chuyện sẽ được đề cập ở chương cuối của tập sách.

Tôi được đạo hữu Kerry Trembath và Swee Beng Toh, Thư Ký của Hội Phật Giáo New South Wales trao tặng cuốn sách "Buddhism in Australia 1048-1988”, nguyên tác Anh ngữ của tác giả Paul Croucher vào đầu tháng 4 năm 1998 ngay sau khi tôi đặt chân đến nước Úc. Trước đây, tôi từng liên lạc thư từ với đạo hữu Kerry Trembath từ đầu những năm 1990 khi nghiên cứu đề tài “Phật Giáo Thế Giới”, lúc ấy đạo hữu Kerry Trembath đã cung cấp nhiều tài liệu quý báu về Phật Giáo Tây Phươngđặc biệtPhật Giáo Úc Châu, chúng tôi đã viết một bài ngắn về Phật Giáo Úc Châu đăng trên Đặc San Giác Ngộ vào năm 1996 (xem bài này ở phần phụ lục cuối sách). Năm 1998, nhờ sự bảo lãnh của bào huynh là Thượng tọa Thích Tâm Phương, tôi đến Úc theo diện Minister of Religion (Nhà Truyền Giáo), được đạo hữu Kerry Trembath mời đến Sydney thăm trụ sở của Hội Phật Giáo New South Wales, tại đây tôi đã có dịp tiếp xúc và nói chuyện với đạo hữu Graeme Lyall, là một Phật tử lão thành người Úc và được xem là một chứng nhân sống của lịch sử Phật Giáo của xứ Úc này, ông là đệ tử quy y Tam Bảo của Ni Sư người Mỹ Dhammadina vào đầu thập niên 50. Giờ đây ông đã 80 tuổi, nhưng vẫn cống hiến hết sức mình cho Phật Giáo, ông hiện đang giúp Hòa Thượng Tịnh Không phổ biến kinh sách tiếng Anh miễn phí cho hệ thống thư viện cộng đồng trên toàn liên bang Úc Châu. Đạo hữu Graeme Lyall vốn là người sáng lập và là cựu Chủ tịch của Hội Phật Giáo New South Wales. Ông từng gieo duyên xuất gia làm Sa Di (Samanera) ngắn hạn với Hòa Thượng Dhammananda ở Kuala Lumpur, Malaysia vào năm 1984. Hiện nay ông đang là Chủ tịch Hội Phật Đà New South Wales, Chủ tịch Quỹ Giáo dục Đại Học Phật Giáo và là một nhân viên Tuyên uý Phật Giáo làm việc thiện nguyện tại các trại giam ở tiểu bang New South Wales. Tôi rất vui mừng vì đã có duyên gặp những nhân vật có công trong việc đóng góp cho sự phát triển Phật Giáo tại Úc Đại Lợi. Trong cuộc gặp gỡ ông Graeme Lyall lần này, hai vị chánh phó thư ký Kerry Trembath và Swee Hin Toh đã gởi tặng tập sách “Buddhism in Australia 1048-1988” và yêu cầu tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt để giúp cho cộng đồng người Việt, vốn là một trong những cộng đồng sắc tộc đông đúc nhất tại Úc, hiểu biết thêm về quá trình hình thành và phát triển của Phật Giáo tại xứ sở này.

Tôi bắt đầu dịch tập sách này từ đầu năm 2000 nhưng mãi đến nay mới hoàn tất. Sở dĩ việc dịch tập sách này kéo dài hơn mười năm, vì trong khoảng thời gian đó tôi đã ưu tiên cho các tác phẩm khác như Phật Giáo Khắp Thế Giới, Chết và Tái Sanh, Pháp Ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không, Sức Mạnh Của Lòng Từ...; Một lý do khác là vì tác phẩm lịch sử này có phần khô khan và cách viết của tác giả dễ bị hiểu lầm cũng như dễ làm mích lòng người đọc, nhất là những người không có cảm tình với Phật Giáo, khi đọc tác phẩm này sẽ có phần khó chịu khi tìm thấy những giai đoạn thăng trầm của Phật Giáo Úc, những phe nhóm, hội đoàn của người Úc da trắng xung đột, chống báng nhau. Âu cũng là thói thường của nhân thế. Dịch giả có lúc muốn bỏ ngang dịch phẩm này, nhưng bỏ thì thương, vương thì tội, cuối cùng đành phải cố gắng tiếp tục đi tới trang cuối của tác phẩm. Vì là một tác phẩm lịch sử nên phản ánh sự thật những giai đoạn khó khăn của lịch sử mà bất kỳ giáo hội nào, quốc gia nào cũng không thể tránh khỏi, mong độc giả hoan hỉ không chấp mắc, chỉ nên đọc lịch sử Phật Giáo Úc để soi chiếu bản thânsinh hoạt hiện tại của mình, cố gắng không đi vào vết xe đổ của lịch sử. Ðó là mục tiêu dịch phẩm này ra đời.

Chân thành cảm ơn Đạo Hữu Kerry Trembath và Swee Beng Toh, Chánh Phó Thư ký Hội Phật Giáo New South Wales đã gởi tặng tập sách tiếng Anh này.
Chúng con chân thành cảm tạ Hòa Thượng Thích Huyền Tôn,
Tăng Giáo Trưởng GHPGVN Thống Nhất Hải Ngoại tại ÌL-TTL, người có công soạn thảo Hiến Chươngthành lập Giáo Hội PGVN Thống Nhất tại Úc Ðại Lợi vào đầu thập niên tám mươi, và là một chứng nhân của những thăng trầm PGVN tại đất nước này, đã viết lời giới thiệu thứ nhất cho tập sách. Chúng con cũng xin cảm tạ Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, đã duyệt lại bản thảo và viết lời giới thiệu thứ hai cho tập sách trong thời gian Hòa Thượng về giảng dạy tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 11 tại Victoria. Người dịch cũng xin chân thành cảm tạ bào huynh, TT Thích Tâm Phương đã tạo mọi thuận duyên cho công việc nghiên cứu dịch thuật trong một thập niên qua.

Dịch giả cũng xin ghi lại nơi đây lời tán dương công đức của Quý Phật tử gần xa đã đóng góp tịnh tài để ấn tống tập sách này.

Xin chắp tay nguyện cầu cho Chánh Pháp được trường tồn, chúng sanh được an lạc. Nguyện cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ, Cha Mẹ nhiều đời của chúng ta sớm tái sinh về cõi giới an lành.

Melbourne, mùa Phật Đản 2636, Tây lịch 2012

Dịch giả cẩn chí
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

Mời xem toàn bộ tác phẩm - pdf


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20844)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19152)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40354)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21164)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40947)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24012)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22969)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17753)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26789)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33494)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28714)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17407)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38246)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31097)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24391)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19384)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17816)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22863)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17328)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16005)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17937)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20020)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29238)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12687)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14434)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
(Xem: 34220)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant