TUỆ SỸ ĐẠO SƯ
Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1
Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2002
Tái bản lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006
Một Khía Cạnh Của Vấn Đề Nhân Quyền Tại Việt Nam:
Tham Nhũng Là Một Quốc Nạn
Thích Tuệ Sỹ
(Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã được Hội Phát Triển Việt Nam mời với sự can thiệp mạnh mẽ của Liên Hiệp Âu Châu, Chính phủ và Quốc hội Hòa Lan nhưng không được Hà Nội cho phép xuất ngoại)
Kính thưa quí vị,
Hân hạnh kính gởi đến quý vị một vài ý nghĩ phiến diện về những điều đè nặng
tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở
đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với các cộng đồng quốc tế,
đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành tôi trở thành bản
cáo trạng dành cho những nguời tự cho có quyến xét xử tôi và phán xét những người
đã hành động theo lương tâm. Tiếp theo, sự can thiệp đã khiến cho Nhà nước Cộng
sản Việt nam phải tuyên bố trả tự do cho tôi. Nhưng nhiều người bạn tù của tôi
vẫn còn bị khổ trong các trại tù. Trong số đó có nhiều nguời bị giam cầm gần 25
năm, vuợt quá thời hạn mà luật Hình sự của Nhà nước Việt nam quy định đối với
việc thi hành các bản án giam giữ có thời hạn.
Ở đây, tôi cũng xin bày tỏ sự cảm kích sâu xa đối với các cộng đồng Việt nam hải
ngoại đang đấu tranh cho một nuớc Việt nam trong sáng và tự do. Tôi cũng xin gởi
lời cảm ơn đến các nhân sĩ Hà lan, trong tình cảm nhân loại, đã trực tiếp can
thiệp với Chính phủ Việt nam cho tôi được sang thăm viếng đất nuớc Hà lan, để
có thể có điều kiện tự do hơn nói lên tiếng nói thầm lặng mà đã một phần tư thế
kỹ bị bóp nghẹt.
Trong những năm gần đây, trước cả khi tôi được lịnh phải rời khỏi nhà tù để trở
về chùa, có rất nhiều đồng bào ta từ nước ngoài về thăm và càng ngày càng chứng
kiến những đổi thay được nói là đáng khích lệ. Khích lệ theo chiều hướng nào,
còn tùy theo cách nhìn mỗi người. Riêng tôi, tôi không có được may mắn là chứng
nhân trực tiếp trước những thay đổi của đất nước, mặc dù tôi đang sống trong
lòng quê Cha đất Tổ. Đó là điều tốt hay xấu, cũng còn tùy cách nhìn của mỗi người.
Mặc dù không có cái may như nhiều đồng bào sau khi sống tự do 15, 20 năm ở nước
ngoài về thăm quê, thấy được những đổi thay từ trên thượng tầng, thấy được sự
giàu sang của đất nước qua những tiện nghi vật chất từ các khách sạn năm sao
dành cho cán bộ cao cấp và khách nước ngoài, từ những tiếp đón niềm nỡ và linh
đình của các nhân vật thuộc thượng tầng xã hội, với những đặc quyền xã hội mà
điều kiện chính trị dành cho, nhưng tôi có cái “may mắn” khác - nếu cho đó là
may mắn - được sống chung trong một thời gian rất dài với thành phần được xem
là “cặn bã”õ của xã hội. Chính từ xã hội gọi là cặn bã ấy tôi đã chứng kiến những
đổi thay trong nhà tù như là ảnh chiếu của những “đổi thay to lớn” của đất nước.
Sự chứng kiến cũng đơn giản và dễ hiểu thôi. Cũng như người ta chỉ cần nhìn vào
rác rưới phế thải được dồn ra sân sau mà có thể biết những thứ đã được tiêu thụ
ở sân trước. Chúng tôi, một số người từ lâu đã được học tập để thành thói quen
suy nghĩ số phận dân tộc từ những đống rác, đã tự mình đặt thành nhiều câu hỏi
cho lương tâm nhân loại, cho ý nghĩa tiến bộ của xã hội loài người, và trên tất
cả là một câu hỏi lịch sử: đất nước đã thấm bao nhiêu xương máu của bao nhiêu
thế hệ ông cha và bè bạn để dồn lại thành những đống rác như thế; những đống
rác càng ngày càng to phình lên một cách khủng khiếp.
Việt nam đang là một đống rác khổng lồ. Đó không phải là ý nghĩ riêng của tôi,
mà là nhận xét của nhân vật cao cấp nhất của đảng CS Việt nam. Đây không chỉ là
ý nghĩa kinh tế. Nó bao trùm tất cả mọi khía cạnh đời sống: văn hóa, chính trị,
và cả tôn giáo. Vậy thì, một câu hỏi cần phải được đặt ra cho những ai còn có
chút tự trọng dân tộc: tại sao một dân tộc luôn luôn tự hào với truyền thống bốn
nghìn năm văn hiến, bỗng nhiên để cho đất nuớc mình trở thành một đống rác, kho
chứa tất cả những gì xấu xa nhất của nhân loại văn minh" Nguyên nhân từ
đâu và do ai"
Trong gần muời lăm năm trong tù, điệp khúc tôi phải thường xuyên học tập để ca
ngợi tính can đảm của đảng CS Việt nam: “Cán bộ làm sai, đảng trị. Đảng làm
sai, đảng sửa.” Tôi cũng thường xuyên trả lời: đó không phải là sự can đảm, mà
là thái độ cai trị khinh dân; xem dân như là vật thí nghiệm cho những tư duy
không tưởng, học thuyết viễn vông của mình.
Tôi cũng thường xuyên bị học tập rằng, chính sách đoàn kết dân tộc của đảng là
làm cho “dân tin đảng và đảng tin dân.” Tôi cũng thường xuyên trả lời: làm cho
dân tin đảng; đó là điều tất nhiên và dễ hiểu thôi vì có đáng tin thì người ta
mới tin được; vì đảng cần được dân tin tưởng để tồn tại, dù chì là tin tưởng giả
tạo. Nhưng “đảng tin dân” có nghĩa là thế nào" Nếu đảng không tin dân thì
đảng xử lý dân như thế nào" Câu trả lời thực tế: Cả nước trở thành một nhà
tù vĩ đại.
Ngày nay, khi không còn ở trong nhà tù nhỏ như mười lăm năm trước nữa, tôi
không còn có điều kiện để được lên lớp chính trị. Tôi hy vọng đảng CS Việt nam
không còn có cái can đảm như xưa, để thử nghiệm học thuyết của mình thêm nhiều
lần nữa; và cũng không thi hành chính sách “đại đoàn kết” như xưa để dân có thể
sống tự tại mà không bị đảng nghi ngờ.
Mặc dù có những thay đổi lớn nhìn từ góc độ nào đó, nhưng thực tế tôi biết chắc
rằng có một điều không thay đổi. Đó là: đảng CS vẫn tự coi mình là ân nhân của
dân tộc và do đó có độc quyền quyết định số phận của dân tộc (mà là ân nhân hay
là tội đồ gì thì quần chúng và lịch sử trước mặt sẽ phán xét). Đó là điểm khác
biệt với các chế độ chuyên chính lừng danh trong lịch sử. Đây cũng chính là
nguyên nhân của một trong những điều mà các đảng viên bảo thủ cho là “rác rưới
tư bản.” Điều đó là nạn tham nhũng. Bởi vì, quan liêu, hách dịch, thái độ kẻ cả
ban ơn, vừa là bản chất và vừa là dưỡng chất của tệ nạn tham nhũng của Việt nam
hiện nay.
Mọi tội phạm xảy ra đều do một bên gây hại và một bên bị hại. Trong tham nhũng,
mới nhìn thì không có ai bị hại một cách rõ ràng. Trước mắt, người đưa hối lộ
và người nhận hối lộ đều nhận được những điều lợi nhất định. Như vậy người bị hại
chính là quần chúng, không đủ đặc quyền để tham gia nhằm hưởng lợi trực tiếp từ
nạn tham nhũng. Nghĩa là những thành phần cùng khốn của xã hội chẳng có gì để
cho nên chẳng nhận được gì nên vì vậy họ trở thành nạn nhân. Tính cá biệt của nạn
tham nhũng ở Việt nam hiện tại là do thái độ ban ơn của những kẻ có chức quyền
đối với “thần dân” dưới sự cai trị của mình.
Tham nhũng ở Việt nam không chỉ là thỏa thuận song phương để dành những hợp đồng
kinh tế béo bở. Nó ø bòn rút xương tuỷ của nhân dân; những người cùng khốn phải
còng lưng lao đổng để có tiến đóng thuế.
Tham nhũng là gốc rễ của các tệ nạn xã hội khác. Vì nó tổ chức, bao che và nuôi
dưỡng chúng. Nó xói mòn mọi giá trị đạo đức truyền thống. Bảo vệ hay phát huy
văn hóa dân tộc trên cơ sở đó chỉ là lá chắn cho tệ nạn tràn lan mà thôi.
Tôi nói, tham nhũng là sân sau của quyền lực. Bởi vì chính những người dân cùng
khốn,mà tiếng nói luôn luôn bị áp chế bằng sự dọa nạt, là những người bị trấn
áp bởi bạo quyền chuyên chính khối liệt nmhất, nhưng cũng lặng lẽ chịu đựng nhất.
Đó là những chứng nhân cho mặt trái của tham nhũng và quyền lực; nạn nhân trực
tiếp của tất cả sự áp chế của nó đối với giá trị nhân phẩm.
Có lẽ tôi muốn kể lại đây một câu chuyện thương tâm, để chúng ta hiểu phần nào
bản chất tham nhũng trong một chế độ thường tự hào là không có người bóc lột
người. Chuyện xảy ra trong trận lụt vào cuối năm vừa qua.
Tại xã Hương thọ huyện Hương trà tỉnh Thừa thiên có một gia đình nghèo khổ sống
lênh đênh trên một chiếc đò. Khi cơn lụt ập đến, gia đình này là duy nhất có
ghe ở địa phương miền núi này, do đó đã vớt được trên 80 người khỏi chết chìm.
Sau nước rút, thỉnh thoảng có vài phái đoàn đến cứu trợ. Các gia đình khác đều
nhận được cứu trợ. Chỉ trừ gia đình anh. Lý do: không có hộ khẩu, vì lâu nay
gia đình này nghèo quá phải sống “vô gia cư” phiêu bạt trên các sông suối nên
không có hộ khẩu thường trú. Dân làng biết ơn anh, xin chính quyền địa phương cấp
hộ khẩu cho. Nhưng thiếu điều kiện nhập hộ: gia đình anh không có đủ 400.000 đồng
VN để hối lộ. Khi các Thầy của tôi lên cứu trợ, dân làng tự động đến tường thuật
vụ việc để các Thầy giúp đỡ. Các Thầy giúp đủ số tiền, nhưng với điều kiện phải
dấu kín nguồn gốc. Vì sẽ còn nhiều vấn đề rắc rối khác.
Điều tôi muốn nói ở đây không phải nhắm đến tệ nạn tham nhũng. Mà là nhân cách
của gia đình nghèo khốn ấy; và thái độ chịu đựng sự bất công một cách thầm lặng
đáng kính phục. Dù sống dưới mức tận cùng khốn khổ, anh vẫn giữ vẹn giá trị
nhân phẩm của mình. Làm ơn cho nhiều người, nhưng không kể ơn để được đền bù.
Chỉ có dân làng biết ơn và tự động đền đáp. Nhưng dân ai cũng nghèo khổ và lại
gặp hoạn nạn như nhau, lấy gì chu cấp cho nhau"
Khắp cả đất nước này, có bao nhiêu trường hơp như vậy" Đó là những sống ở
sân sau củqa quyền lực, sống trong bóng tối của xã hội. Nếu họ không lên tiếng,
ai biết họ ở đây. Nhưng họ lại không lên tiếng. Vì không thể, hay vì không muốn"
Do cả hai. Điều mà quý vị biết rõ là tôi đang nói chuyện ở đây cũng chỉ là cách
nói “lén lút, qua mặt chính quyền.” Tôi chưa biết ngày mai của tôi ra sao, khi
những điều tôi nói không làm hài lòng Đảng và Nhà nuớc.
Hoàn cảnh đất nước Việt nam như thế cho nên dân ta phải chịu quá nhiều đau
thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói riêng, mà xã hội Việt nam truyền
thống rất tôn trọng, điều tủi nhục lớn nhất là họ không thể thay những người
dân thấp cổ bé miệng nói lên một cách trung thực tất cả những uất ức, những khổ
nhục mà họ phải chịu. Bởi vì, tại Việt nam ngày nay những người có thể nói thì
ngòi bút đã bị cong; những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ gãy.
Nhưng, tôi biết rõ một điều, và điều đó đã được ghi chép trong lịch sử: trí thức
chân chính của Việt nam không bao giờ khiếp nhược.
Trân trọng kính chào qúy vị.
Tu Viện Quảng Hương,
Sài Gòn, Việt Nam,
ngày 13 tháng 5 năm 2000.