Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu của HT Thích Như Điển

31 Tháng Năm 201200:00(Xem: 8004)
Lời Giới Thiệu của HT Thích Như Điển

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ÚC ĐẠI LỢI

(History of Buddhism in Australia)


 Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Tu Viện Quảng Đức ấn hành 2012
flowerba

Lời giới thiệu

của Hòa Thượng Thích Như Ðiển

thichnhudienCuối năm 2011 và đầu năm 2012, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan tổ chức khóa tu học Phật Pháp kỳ thứ 11 tại Kyneton, thuộc tiểu bang Victoria, nằm cách thành phố Melbourne khoảng 120 cây số. Có trên 30 chư Tôn Đức và 385 học viên từ khắp các tiểu bang trên nước Úc về đây chứng minh tham dự, giảng dạy Phật Pháptham gia khóa tu. Đặc biệt lần này có trên 100 em thanh thiếu niên đã cùng với Ba Mẹ về đây tu học. Nhân cơ hội này tôi cũng đã đến đây tham gia với Giáo Hội tại Úc và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đã nhờ tôi đọc bản dịch cuốn sách “Lịch sử Phật giáo Úc Đại Lợi” do Thượng tọa dịch sang tiếng Việt từ tác phẩm tiếng Anh của tác giả Paul Croucher, đồng thời viết lời giới thiệu cho dịch phẩm này. Tôi đã nhận lời và đọc ngấu nghiến hơn 120 trang A4 đánh máy trong vòng hai ngày để có thể viết lời giới thiệu gởi đến quý độc giả.

Đọc hết 6 chương của tác giả Paul Croucher viết về Phật giáo nước Úc, tôi có những nhận định sau đây:

- Tuy tác giả không tự giới thiệu quyển sách này như là một luận văn cao học về Tôn giáo, nhưng người đọc cũng có thể tự hiểu ra rằng đây là một nấc thang cần thiết để tác giả chuẩn bị cho luận án Tiến sĩ của mình.

- Tác phẩm này đã giới thiệu một cách cặn kẽ, có tính cách khoa học về Tôn giáo, nhưng chỉ tiếc là tác giả nhìn ở khía cạnh thụ động của Phật giáo vào buổi bình minh, khi Phật giáo được truyền vào đất nước này chỉ mới gần 200 năm lịch sử. Trong khi đó mặt tích cực của Phật giáo Úc đã góp công được gì cho xã hội đa văn hóa này, thì tác giả Paul Croucher dường như đã cố tình làm ngơ. Ở phần cuối quyển sách có một vài đề nghị có thể giúp cho người đọc có một cái nhìn thực tế hơn, nhưng đây cũng chỉ là những dấu hiệu bước đầu thử thách của Phật giáo của người phương Tây tại xứ có đất đai rộng rãi này.

- Tác giả đã nói lên được cái nhìn của người da trắng đa phần theo đạo Phật, là những người bước ra khỏi ngưỡng cửa thần linh của Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành Giáo ở phương Tây và không nhập cuộc trực tiếp với giáo lý từ bi, trí tuệ của Phật giáo, mà phải qua Thông Thiên Học của Ấn Độ hoặc triết gia Krishnamurti là những dấu ấn ban đầu của Phật giáo tại xứ Úc này.

- Kế tiếp là những người đến từ Á Châu như: Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan và sau năm 1975 có các dân tộc khác di dân đến đây như: Việt Nam, Lào, Campuchia, Tây Tạng v.v… Người Trung Hoa mang vào xứ Úc tôn giáo đa thần, nặng phần cầu nguyện lễ bái, người Nhật từ năm 1828 đã có mặt tại xứ Úc này và họ là giống dân đã tiêu thụ được nguyên chất Thiền của Ấn Độ, Tích Lan; Vipassana trở thành Ch'an của Trung Hoa và đặc biệt là Zen của Nhật Bản. Zen không là một phép lạ, nhưng đây là sự thành công của người Nhật khi tiêu thụ giáo lý của Phật Đà. Trong khi đó người Tích Lan, người Thái, người Lào, người Cam bốt vì giữ truyền thống nguyên thủy của mình và vấn đề giới hạn của ngôn ngữ, khiến cho một đạo Phật thực sự của người Úc chưa được mở cửa để gọi mời. Trong khi đó Việt NamTây Tạng đã xây dựng cho cộng đồng của mình vững mạnh hơn qua những hình ảnh chùa chiền được xây cất, cũng như những vị đại sư nổi tiếng, nhưng người Úc vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa bên ngoài của hành trình từ bitrí tuệ ấy; chứ chưa có người Úc nào thâm tín tuyệt đối để dấn thân vào những truyền thống Phật giáo này.

Những người cư sĩ Phật tử Âu Mỹ như: Đại tá Henry Olcott hay bà Blavatsky là những người Phật tử tiên phong có tâm ý muốn khôi phục và phát huy về Phật giáo cổ truyền này, vốn đã có mặt hơn 2400 năm trên quê hương xứ Ấn ĐộTích Lan thuở bấy giờ, kế đến là những người Âu Mỹ xuất gia như: Ni sư Dhammadina (người Mỹ), Ngài Nyanatiloka (người Đức), Thầy Dhammika (người Úc), Ni sư Ayya Khema (người Đức gốc Do Thái) và Ni sư Chi Kwang (người Úc tu theo Phật giáo Trung Hoa và Đại Hàn) v.v... họ là những người Âu Mỹ chính gốc, thực sự chối từ niềm tin chính thống Thiên Chúa giáo hay Tin Lành của mình để dấn thân vào con đường từ bi, trí tuệ và cởi bỏ mọi sự ràng buộc của Đạo Phật để tự hướng đời mình về con đường giác ngộ giải thoát ấy.

Đây là niềm tự hào của Phật giáo, vì ở nơi Đạo Phật, họ có một cơ quan truyền giáo chính thức, mà người nào muốn đến với Đạo Phật bất luận là Âu, Mỹ hay Á, Phi,… Tất cả đều do tự nguyện, chứ không do một sự ép buộc nào hay một quyền lợi nào có sẵn được đặt để ở phía trước. Đây là điểm son của Phật giáo nói chung và các truyền thống Phật giáo khác nói riêng hiện có mặt khắp nơi trên thế giới ngày nay. Dĩ nhiên là khi đọc tác phẩm này, chúng ta không mong mỏi gì hơn là tìm hiểu ngọn ngành về lịch sử của Phật Giáo tại xứ Úc này, Nếu ai đó muốn đi tìm một giáo lý căn bản để thực hành Phật Pháp, thì nội dung của sách này không chứa đựng vấn đề ấy. Đa phần những người Âu Mỹ không muốn chấp nhận thần linh, nên mới đi tìm một tôn giáo không tôn sùng cá nhân. Do vậy khi chạm phải với vấn đề truyền thống của một vài nước có nền Phật giáo cổ truyền vốn có mặt ở đó lâu đời như: Tích Lan, Ấn Độ, Thái Lan, Phật tử người Úc tân thời đã không muốn có sự hiện diện của chư Tăng Ni, nhưng đây có thể là sự hiểu lầm của những người mới làm quen với đạo Phật. Vì để có một tôn giáo với đầy đủ ý nghĩa của nó, phải có ba yếu tố quan trọng. Đó là: Giáo chủ, Giáo lýGiáo hội. Đã là Giáo hội thì phải có đủ Tăng và tục gách vác bánh xe Giáo Pháp truyền thừa này. Nếu chỉ một thành phần đảm đang, thì không thể nào chuyển di được sự phát triển giáo lý của Đức Phật được sâu rộng vào quần chúng. Nếu bảo rằng: Phật giáo ở giai đoạn ban đầu truyền đến Trung Quốc vào thời Hán Minh Đế (năm 48) do Đạo Lão đã rộng mở con đường để thâu nhập thì Việt Nam ngược lại do Nho Giáo đã tiếp nhận Phật Giáo. Trong khi đó Phật Giáo tại Nhật do Thần Đạo dang rộng vòng tay để đón mời Phật Giáo vào thì tại Úc châu này Thông Thiên Học đã là chiếc cầu nối liền giữa những người Á và Úc châu Phật giáo tại đây. Đây là những dấu mốc quan trọng để Phật Giáo đi vào từng dân tộc trong các quốc gia trên hoàn vũ này.

Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng, phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne là dịch giả của tác phẩm này từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Thầy ấy đã chuyển dịch suốt 6 chương bằng văn từ lưu loát, khiến cho người đọc dễ tiếp nhận quan điểm của từng người trong tác phẩm này khi họ quan niệmthực hành về Phật giáo, dầu cho đó là tư tưởng cá nhân riêng lẻ của từng vị một.

Ngày nay những người chưa làm quen được nhiều với ngoại ngữ, thì đã có những bản dịch ra Việt ngữ lưu loát như thế này, quả là điều đáng tán dương cho cả dịch giả lẫn độc giả. Vì lẽ nếu bản dịch có hay cho mấy mà người đọc lạnh lùng không lưu tâm đến thì cũng tội nghiệp cho một tác phẩm mà cả tác giả lẫn dịch giả đều đã cưu mang và muốn đem một cái gì đó gởi gắm vào nơi tâm khảm của người đọc. Riêng tôi, đoán chắc rằng tác phẩm này sẽ làm hài lòng với một số quý độc giả, dầu cho người ấy có khó tính cách mấy đi nữa, khi mà người ấy chỉ muốn đi tìm dấu vết của đàn chim di, khi mang giáo pháp nhiệm mầu của Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni từ Đông sang Tây, từ Á Châu sang xứ Úc này.

Tôi xin trang trọng giới thiệu dịch phẩm giá trị này của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đến với tất cả quý độc giả khắp nơi và mong rằng sau khi đọc sách xong, gấp sách lại, quý độc giả sẽ nhận chân được giá trị của tác phẩm này.

HT. Thích Như Điển

 

Phương Trượng chùa Viên Giác Hanover, Đức Quốc viết lời giới thiệu này vào ngày 02 tháng 01 năm 2012 tại Kyneton, tiểu bang Victoria, Úc Châu, nhân khóa tu học Phật Pháp kỳ thứ 11 được tổ chức tại đây (do TT Thích Nguyên Tạng làm Trưởng Ban Tổ Chức)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19822)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20894)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19230)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40491)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21231)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41015)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24071)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23021)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17798)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26900)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20695)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33582)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20948)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28856)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12672)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25233)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19109)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17498)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25729)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18977)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18945)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18881)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33271)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38335)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18195)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24470)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19428)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17872)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22979)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17994)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32120)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17351)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17410)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16049)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18552)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20749)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18037)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20069)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14844)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20872)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15049)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15743)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12927)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14479)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14889)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29343)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12743)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14496)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant