Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

MỘT: Thơ Người Tù Thế Kỷ

13 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 9762)
MỘT: Thơ Người Tù Thế Kỷ

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Một

 

Thơ Người Tù Thế Kỷ

 

Nói đến cõi thơ như mây trời viễn xứ, giăng giăng, nhè nhẹ, mảnh maibềnh bồng, thong dong thư thả, tự tại hồn nhiên như cõi hư không vô cùng. Như tiếng rì rào trùng dương bát ngát, từng đợt sóng nhấp nhô, lấp lánh vô biên đang tấp vào bờ nằm xoải dài thiên thu vô tậnĐại dương của cõi thơ là lâu đài thành quách, lung linh, huyền ảo của những con sóng nghìn khơi. Là bãi cát vàng như tấm lụa dệt bằng ánh sáng của mặt trăng, tia nắng của mặt trời, và lốm đốm vô ngần các tinh thể.

 

Đá với nước, bóng chiều và cuộc chơi là hành trang để đi vào cõi mộng, hay chất liệu để gây dựng cơ đồ cho cuộc lữ. Mộng hay thực chỉ là cách nói của nhà thơ giầu ngôn ngữ, để pha lẫn, biến thành hình hài đồng tử ước mộng trường sinh:

“Đá mòn phơi nẻo tà dương

Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi”

 

Đá mòn vì nhiều dấu vết thời gian đi qua, nhiều sự ngóng chờ mòn mỏi. Thời gian đó đã làm đá mòn rêu nhạt dưới ánh tà dương, chiều buồn da diết. Một sự thi gan cùng tuế nguyệt, chịu đựng bao ngày tháng nắng mưa, đá của đất trời gầy dựng vẫn trơ mình kiên cố bất động. Một hình bóng lẻ loi, nhưng chất ngất kiêu hùng, xông pha, vững chãi mặc cho bóng tà dương sắp lặn về Tây. Bỏ mặc cho ai độc hành cô lữ để nằm nghe âm thanh ào ạt của nước đổ về từ rừng sâu núi thẳm.

 

Trong cuộc tử sinh, Người Tù đi vào cát bụi, làm cuộc lữ phương trời viễn mộng, đọa đày như cánh hải âu nghìn trùng bạt gió, như dấu chân Người trên cát nóng mù khơi, xa xăm mòn mỏi:

“Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc

Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu....

Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc

Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao.”

 

Nhưng dù có chôn vùi một ước nguyện vẫn không nhạt nhòa hương xưa cũ. Hương xưa của màu tóc hung hung, bay vào chiều thu, sương mơ, lá vàng rơi rụng. Hương của bóng xế nhạt nhòa, còn lất phất bờ vai, của một thời son trẻ, nhiều mơ ước. Mộng kiêu hùng. Mộng trùng khơi xa tít:

“Màu nắng xế, ôi màu hương tóc cũ

Chiều chơ vơ, chiều dạt mấy hồn tôi

Trời viễn mộng, đọa đày đi mấy thuở

Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi”

 

Rồi đến một hôm nào đó, mắt Người Tù thâm huyền và trầm sâu vô tận, vì Người Tù bâng khuâng, thao thức, hoài niệm nhớ mong những vì sao lạc lối bên kia đỉnh núi, bên kia đồi sao mọc. Bên kia khung trời cũ, khung trời hội ngộ đã một lần hẹn hò trong chuyến tàu đêm, hay bên ánh lửa bập bùng thâu đêm nhiều tâm sự. Chỉ một đêm thôi không ngủ, mắt Người Tù sâu hoắm, tóc Người Tù bạc phơ, mặt Người Tù hõm lại, chân thân hiến dâng cho muôn trùng, cho ước hẹn lên đường phiêu lưu:

“Một đêm thôi, mắt trầm sâu đáy biển

Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa

Miền đất đỏ, trăng đã gầy vĩnh viễn

Từ vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ.”

 

Cũng đôi mắt ấy, lại cưu mang những giấc mộng tàn, những giấc mộng qua đi. Người Tù mãi chếnh choáng trong trối trăn của tâm thức, trong sự hao gầy của tự thân, mà không thể bay bổng tuyệt vời như cánh chim hồng trên chín tầng xanh. Gối đã mỏi, chân đã mòn, tóc đã bạc khi tuổi đời chưa đến tuổi, nhưng cứ mãi loanh quanh trong bốn bức tường, mà suối nguồn xa xăm kia vẫn biền biệt. Suối nguồn đang réo gọi, cát bụi đang nằm chờ, rừng sâu đang mong đợi, biển nước mây trời vẫn hiện hữu thênh thangbóng dáng Người Tù vẫn biệt tăm. Người Tù đối diện với chính mình, với bóng đèn khuya trong bóng đêm nhạt nhòa ủ rũ. Tâm sự đầy lại vơi:

“Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Giờ ngó lại bốn vác tường ủ rũ

Suối nguồn ơi ngược nước xuôi ngành”

 

Rồi một buổi sáng hôm nào, Người Tù đi bách bộ trên đồi Trại Thủy, trong dáng dấp khẳng khiu, gió thổi muốn bay, thì ra suốt một tuần lễ Người Tù tuyệt thực chỉ uống nước chanh. Người Tù tuyệt thực để phản đối mình, phản đối sự hiểu biết nghịch thường mà người thường không hiểu biếtTuyệt thực để đóng cửamột mình trong phòng, không muốn gặp ai, không muốn tiếp xúc với ai, không muốn nói chuyện với ai, và cũng chẳng muốn thấy ai cho bận lòng, cho tốn thời gian, cho mất thời giờ, phung phí mất những điều cần nói, những việc cần làm để lưu lại cho đời một hình ảnh đơn sơ, như đôi tay gầy, vầng trán cao. Như đôi mắt sâu, như mái tóc bạc màu hủy hoại theo sự đọa đày nhục thể. Người Tù ở tù để làm thơ trong tù, để viết bản thảo, để đánh dương cầm, tấu lên khúc nhạc tâm tư, mà thân phận lạc loài như cánh én chiều xuân, như đôi cánh bướm rừng mơ, chập chùng hoa tàn nhụy rã. Đời người trôi qua như từng tiếng vu vơ, như lá dạt xa bờ, như lòng sông nhuộm nắng, như chiếc lá xa mùa, như ngày cũ xa xưa. Hình bóng đó vẫn đứng đếm thời gian, giữa những chiều nắng nhạt, mỗi sáng tinh sương, nhưng tất cả chỉ là phù hư ảo ảnh, là giấc mộng con, mộng lớn, mộng kiếp tử sinh:

“Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng

Người mãi đi như nước chảy xa nguồn

Bờ bến lạ chút tự tình với bóng

Mây lạc loài ôi bến cũ ngàn năm”

 

Nỗi đời và tình người bẽ bàng như nhau, cùng chung số phận không khác. Người đau, cảnh sầu có lẽ muốn chia xẻ như bãi dâu ngàn suối hoang liêu tiêu sơ dưới mắt ai cái nhìn đại cuộc, mà làm cho kẻ lãng du cô thân chích ảnh gối mỏi, gót xiêu bên triền núi khi trên vai còn nặng nợ ân tình, còn vấn vương mây chiều lãng đãng, còn ráng hồng bám víu, chiều hôm. Một kiếp lữ khách, dừng chân nơi quán trọ, gởi chiếc thân như bóng tàu qua đêm, lầm lũi trong sương mù, gió cuốn, cát trắng, nắng vàng trên cánh đồng hoang của kiếp người nhiều mộng mị:

“Gởi thân gió cuốn xa mù

Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng

Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều

Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu

Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu.”

 

Người Tù đã vào cuộc lữ, như con người vào cõi phù hư quanh quẩn đâu đây như là cát bụi, như sự chìm nổi, đá mòn chiêm bao, quán trọ, thông già để nghe mối hận dâng cao. Hận mùa thu mây trắng, hận rừng thu lá vàng, hận trời thu hiu hắt, hận gió thu mang mang, mà xuôi đôi chân trần về miền cát bụi, lăn lóc trơ trọi. Người Tù hóa thân vào cát bụi, như Bồ Tát hóa thân làm hạnh độ sinh, chẳng biết từ nan bất cứ nơi nào. Địa ngục, trần gian, thiên giới, long cung đều có dáng từ Bồ Tát cứu khổ độ mê, đưa chúng sinh về miền tịnh lạc. Đó là hạnh nguyện, tư lương độ đời kham nhẫn mà mạnh dạn Bồ Tát bước chân vào dòng cuồng lưu sinh tử. Hành trang và sự nghiệp của Người Tù đi vào thế giới lãng du cát bụi là đá mòn, tà dương, đào tiên, mục tử, là cánh chim trời, nỗi hao mòn, tiếng kêu và nỗi lạnh sương khuya; là gió lốc, chiêm bao, con tàu, tóc trắng; mắt sâu và dòng máu phiêu lưu; là màu nắng, là hương tóc cũ, là chiều bơ vơ, là mộng kiêu hùng, muối mặn, trùng khơi; là đáy biển, là trăng gầy, là điêu tàn, khói phủ; là tuổi vàng, đồi hoang, trăng tàn, núi lạnh, là đỉnh đá, hạt muối, mùa hạ, bụi đường, suối rừng, nước cuốn, tóc huyền sương mai... Đó là chất liệu để Người Tù làm cuộc rong chơi, in dấu chân mòn trên mặt đất, độc hành, cô lữ, héo hon:

“Quỳ xuống đó nghe hương trời cát bụi

Đôi chân trần xuôi ảo ảnh về đâu

Tay níu lại những lần khần chìm nổi

Hận thu cao mây trắng bỗng thay màu.

....

Còi rộn rã bởi hoang đường đã đổi

Bởi phiêu lưu ngày tháng vẫn con tàu

Vẫn lăn lóc với đá mòn dứt nối

Đá mòn ơi cười một thuở chiêm bao

Quỳ xuống nữa ngủ vùi trong cát bụi

Nửa chừng say quán trọ khóc lao xao.”

 

Cõi thơ, Người Tù không còn ranh giới. Người Tù đã nhập thể vào cõi thơ. Thơ là người, người là thơ không còn khác biệt, đồng điệu như cung đàn xưa. Cung đàn lướt đều dưới mười ngón tay xương xẩu, xanh mét, như những cọng lau gầy phiêu diêu trước gió.

 

Sáng nay, Người Tù ngồi bên bếp lửa hồng đun nước sớm. Tiếng lửa reo tí tách, tiếng nước reo vui trong ấm, mà tự dưng mơ màng rừng sâu phố thị. Mắt Người Tù đăm chiêu nhìn bếp lửa, môi mấp máy, tay lần khần khơi từng cục than lăn qua trở lại như lăn đời mình nhục nhằn trong tù ngục trên đỉnh Trường Sơn để mà:

“Nằm ôm một bóng trăng gầy

Vai mang tủi nhục hờn lay mộng tàn

Rừng sâu mấy nhịp Trường Sơn

Biển Đông mấy độ triều dâng ráng hồng”

 

Tâm sự của riêng mình, hay nỗi bơ vơ lạc loài giữa đất trời mênh mông hoang dã, Người Tù cảm thấy hụt hẫng, vì quanh mình chẳng thấy ai chung lối. Trao thân cho cát bụi thì người yêu cát bụi chẳng chung tình, gởi một nguyện ước cho muôn trùng thì trùng khơi dậy sóng, chỉ còn là tự tình, để yêu đốm lửa đêm sâu bập bùng, và gởi thân tạo dựng quê hương cùng với nỗi hờn thiên thu khổ lụy, cho một khoảng trống vắng mênh mông. Sau lưng, bụi đường khỏa lấp, chôn chân mục nát rêu phong, từ đó thì thầm nghe một phương trời nào là gác trọ:

“... Trời ơi tóc trắng rủ lòng quê cha

Con đi xào xạc tiếng gà

Đêm đêm trông bóng Thiên Hà buồn tênh

Đời không cát bụi chung tình

Người yêu cát bụi quê mình là đâu?”

 

Dưới bóng đổ dài, ngôi Kim thân Phật Tổ ngự trên đồi Trại Thủy nhìn ra biển Nha Trang, lồng lộng gió chiều, được mệnh danh là miền thùy dương cát trắng, Người Tù đưa tay bẻ cành hoa Tứ Quý, một loài hoa dại mọc nơi sườn đồi, chung quanh tượng Phật, xoay xoay theo chiều gió. Dường như Người Tù muốn gửi hương theo gió bay về một phương trời nào đó. Hương của hoa rừng, hay hương của một tấm lòng cho mây ngàn, cỏ nội, làn hương thơm lây đến tất cả các loài thảo mộc, nơi miền xa xôi. Nơi có mây trắng và núi cao, có sương sớm và đò ngang nước lạnh đang ngóng chờ khách bộ hành sang sông. Người Tù có lẽ là lão chèo đò, đưa người qua bến hay là tiễn biệt lữ hành đi vào cuộc lữ của “phương trời viễn mộng”.

 

Người Tù đứng nhìn ra biển khơi, xa xa là những rặng núi mờ vì sóng nước. Những dãy núi này được gọi là Hòn Tre hay Hòn Yến chắn ngang cửa biển làm dịu lại những cơn sóng nước muôn trùng, nhờ vậy mà bãi biển Nha Trang êm ả, nên thơ. Dưới chân núi là những hàng dừa xanh bát ngát, chạy vòng bao quanh từ những chân núi xa Đồng Bò, Đồng Đế, Diên Khánh, Phước Hải ... đến mép bờ biển Cầu Đá, Cửa Bé, Lương Sơn... Rừng dừa được nuôi lớn từ nước mặn và cát trắng, xanh tươi mượt mà nhờ làn gió biển thổi vào từ đại dương bao la cho thêm sum xuê, đầy trái ngọt. Khung cảnh thơ mộng thành phố Nha Trang đã giữ được bước chân Người phiêu lãng qua những năm tháng phiêu bồng, thể hiện tấm lòng gầy dựng tương lai của một thế hệ, nhưng rồi thời cuộc đẩy đưa, trời chẳng chiều lòng người nên tất cả chỉ là những rong chơi, bâng quơ như giã biệt, hay tiễn đưa ai trên con đò ngang qua dòng sông lạnh, để người ra đi còn mình ở lại với bóng đèn u tịch:

“Một bước đường thôi nhưng núi cao

Trời ơi mây trắng đọng phương nào

Đò ngang neo bến đầy sương sớm

Cạn hết ân tình nước lạnh sao?

 

Một bước đường xa, xa biển khơi

Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời

Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ

Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi

....

Cho hết mùa thu biệt lữ hành

Rừng thu mưa máu dạt lều tranh

Tay so phấn nhụy trên màu úa

Trên phím dương cầm hay máu xanh.”

 

Người Tù đã dứt áo, bỏ lại sau lưng những dấu chân mờ còn phong kín xanh rêu. Lá rừng nơi đây được đổi thay, lá rừng Vạn Giả. Ngày cuốc đất trồng khoai, tỉa ngô vun sắn; tối ngắm sao trời bên mái tranh xiêu, Người Tù vùi chôn ngày tháng với cuốc, mai, nương rau, liếp cải.

Một tay cầm cuốc, xới lên luống đất mới của núi rừng Vạn Giả để gầy dựng sự sống; một tay cầm bút viết nên những vần thơ ven rừng, suối mây, cỏ dại:

 

“Ta muốn đi làm thuê

Đời không thuê sức yếu

Ta mộng phương trời xa

Trời buồn mây nặng trĩu

 

Ven bờ thân cỏ dại

Sức sống thẹn vai gầy

Tóc trắng mờ biên ải

Nỗi hờn mây không bay.”

 

Sự sống được khơi nguồn, những ngày tháng vật vã trên luống đất mới, qua lát cuốc sâu, lầm lũi như người nông phu yêu ruộng vườn, rẫy nương, lúa mạ. Mạch sống của liếp cà, giàn bí, mướp đắng, bầu xanh dưỡng nuôi lý tưởng, Người Tù cặm cụi, một nắng hai sương. Sự sống ấy được chăm sóc, nâng niu bằng đôi tay trang trọng, bằng đôi chân nhẹ nhàng thảnh thơi để gieo mầm hy vọng:

“Người không vui, ta đi về làm ruộng

Gieo gió Xuân chờ đợi mưa Hè

Nghe cóc nhái gọi dồn khe suối

Biết khi nào phố chợ chắn bờ đê”

 

Những liếp cà xanh, luống tía tô phơi mình trong nắng hạ, Người Tù nâng niu từng quả cà tím sẫm, giàn ổ qua, dây bí rợ bò lan tràn trên mặt đất, đùn thành những ụ cao như gò mối. Chính sức sống mạnh mẽ nơi đây là do sự cố gắng, hít thở khí trời, sương khuya gió sớm để un đúc, trưởng thành. Người Tù đứng nhìn công trình xây dựng của mình đượm màu xanh, màu ước mơ hy vọng:

“Ta biết mi bọ rùa

Gặm nhắm tàn dãy bí

Ta vì đời ganh đua

Khổ nhọc mòn tâm trí

 

Ta biết mi là dế

Cắn đứt chân cà non

Ta vì đời đổ lệ

Nên phong kín nỗi hờn

 

Ta biết mi là giun

Chui dưới lòng đất thẳm

Ta vì đời thiệt hơn

Đêm nằm mơ tóc trắng

 

Người Tù với vóc dáng mảnh khảnh, yếu gầy, mẫu người không phải sinh ra để cày sâu cuốc bẫm, khai hoang nương rẫy, ruộng đồng để tìm mưu sinh trong chốn khốn cùng; Người Tù bất đắc chí, quăng bút nghiên ở ẩn chốn hoang sơ nên “độc hành kỳ đạo, độc thân kỳ sinh” không nương nhờ cậy ai. Bằng sức người nhỏ nhắn, giữa đêm tối mông lung, giữa ngày hè nắng gắt, không nhụt chí phấn đấu trên vùng đất mới vỡ, Người Tù vẫn không nguôi ngoai ước nguyện cho đời, cho một phố xưa nhiều hương sắc, dẫn khởi cho Người một niềm an nhiên tịnh lạc. Người Tù bỏ lại sau lưng thành phố cũ, bụi mờ khói nhạt, mây bay, lầm lũi nơi xó rừng, bên nương dâu rẫy bắp, nhưng ước vọng một ngày về góp bàn tay xây dựng cơ đồ, quê hương đổ nát. Sự đổ nát cứ âm ỉ, gặm mòn tiêu hao cho đến ngày gục ngã. Đó là viễn ảnh trong mắt Người Tù đã nhận diện sự hư thực của đời qua guồng máy bạo tàn. Ngày về trên đôi chân trần, còn vương bụi đỏ, còn phảng phất hương đồng cỏ nội của miền Soi Đê:

“Mười năm sau anh về thăm phố cũ

Màu Trường Sơn pha nắng rực trưa hè

Anh vẫn nhớ những con đường bụi đỏ

Và tình yêu trong ánh mắt rã rời.”

 

Tiếng hát của thi nhân, hay tiếng đàn của người nghệ sỹ là chất liệu sống chảy xuôi theo mười ngón tay lả lướt trên thùng đàn tồn đọng trên khóe môi nồng ấm tự thuở đầu đời, Người Tù đã sống từ thuở ấy. Cái thuở của buổi ban sơ, khi tâm tư con người còn trong trắng, thuần tịnh, như sáng hôm nay, tia nắng chiếu xuyên qua mành, lọt vào khe cửa sổ, soi tỏ từng hạt bụi li ti trong không gian, Người Tù ngồi đăm chiêu bên dương cầm chẳng buồn gõ, vầng trán ấy như vọng về nơi đâu, xa xăm để nhớ lại những lời tiễn biệt, những nụ cười tiếng hát năm xưa. Ấy là một thời đôi tay Người không bị còng, đôi chân Người tự do rảo bước các miền thi ca, âm nhạc, triết lý Đông Tây. Là thuở của Người tự do ca hát, hát bài tình ca tự do:

“Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát

Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn

Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn

Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt

Mờ phố thị những chiều hôm suối tóc

Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa.”

 

Đáp chuyến tàu đêm từ rẫy Soi Đê – Vạn Giả vào lại Viện Nha Trang những khi vắng người, vì ai cũng phải đi làm, Người Tù một bóng một hình ít được biết tới. Khi đi sớm lúc về khuya, Người Tù thoạt hiện thoạt biến như những cơn gió biển khơi thổi ngang qua gác chuông khuya Chùa Hải Đức, đìu hiu, cô quạnh. Khuya nay ai sẽ là người gióng quả Đại Hồng Chung, để tiếng chuông ngân vang trong lời kệ thỉnh: “Nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, các cõi tối tăm thảy đều nghe. Nghe rồi thanh tịnh chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác.”  Quả Đại Hồng Chung có từ lâu đời, trước khi Người Tù dừng chân đứng lại trên đồi Trại Thủy. Tiếng chuông ngân lên buổi sáng mai lành, lúc mọi người còn đang say giấc ngủ. Nhưng, tiếng chuông đã đánh thức Người qua giấc mộng êm đềm để Người choàng tỉnh cơn mê. Mái gác chuông đã nhuộm màu rêu phong, cột gác chuông xám xì theo năm tháng phế hưng, lớp da bọc dùi dộng chuông đã rách mòn cũ kỹ. Nhưng quả Đại Hồng Chung vẫn lầm lì cổ kính, dửng dưng giữa cuộc phong trần, mặc cho năm tháng phôi pha, ai đến ai đi quả chuông vẫn đứng đấy.

 

Nép mình dưới tàng Bồ Đề xanh thắm, chen giữa cánh phượng đỏ trưa hè, quả Đại Hồng Chung như được bao người mến mộ, thỉnh tiếng chuông cho vơi bớt bụi trần. Đó là tâm tình của khách viếng cảnh, thăm Chùa vào những thập niên trước với những khách vãng lai nhộn nhịp. Giờ thì không, chỉ là dấu mòn rêu nhạt, dẫu biết rằng gác chuông trên đồi Trại Thủy được bao quanh bởi xóm làng phố thị đông đúc. Nhưng dù có sao đi nữa, cảnh vật có hoang liêu tiêu sơ, núi đồi có khô cằn sỏi đá, quả Đại Hồng Chung Chùa Hải Đức vẫn thâm nghiêm, kính cẩn, soi mình dưới bóng trăng thanh, u huyền, tao nhã; vẫn sừng sững vững chắc để bảo tồn một chứng tích công phu của Tổ Đức một thời tâm huyết; lưu giữ lời di chúc vô ngôn mà thừa truyền cho hàng hậu duệ.

 

Người Tù cũng mang tâm nguyện ấy, muốn truyền đạt sở học của mình cho đàn con cháu, nhưng mấy ai đủ thiện duyên, đủ hiểu biết để tiếp thọ. Người Tù rơi lệ cho chính mình, cho lý tưởng giải thoát giác ngộ, cho một cõi vô cùng trên đỉnh tuyết sơn mà mấy ngàn năm qua vẫn lưu giữ hình hài của Sơ Tổ Ca Diếp nơi đó. Khóc cho quê hương mấy ngàn năm văn hiến, giờ như viên đá bụi đường, vết tích tang thương. Một tấm lòng u uẩn lạnh tanh:

“Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận

Lời ai ru trào máu lệ bi thương

Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng

Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương

 

Ai tóc trắng đìu hiu trên đỉnh tuyết

Bước chập chờn heo hút giữa màn sương

Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh

Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?”

 

Giá có ai đi qua dưới chân tháp sắt của Viện sẽ thấy còn lại những chứng tích tàn phá của thời gian. Nền tháp còn kia, nhưng tháp cao mười hai tầng đã bị ai phá sập. Bên cạnh tháp sắt là Quán Âm Các, bây giờ cũng hóa thân vào cát bụi, như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời trầm luân. Nơi đây, Người Tù đã bao lần ngồi kể chuyện Thiện Tài Đồng Tử, trong Kinh Hoa Nghiêm đi tham học qua 53 vị Tổ Sư. Một trang Thiện gia Nam tử vì sở cầu, chí nguyện tham vấn mà một thân, một mình đi từ hải đảo này đến đỉnh núi kia. Khi nghe một vị Tổ Sư nào danh tiếng dù ở chân trời góc biển xa xăm, Thiện Tài Đồng Tử đều đi đến đảnh lễ tham học. Đó là chí nguyện của kẻ xuất trần, giàu lòng nhân, xây dựng đời bằng tấm lòng khoan dung, độ lượng, biết thương đời, biết thương người, giải thoát chốn tối tăm. Người Tù cũng bước theo dấu chân ấy, bước đi khắp nẻo quê hương, vì Người Tù là đứa con của quê mẹ, nên Người Tù chẳng rời xa quê mẹ. Sinh ra từ quê mẹ, thì có chết cũng chết trên quê mẹ. Dù quê mẹ nghèo đói, đất mẹ gầy hao thiếu áo cơm, đói rách, nhưng chí nguyện Người Tù vẫn hực lửa để soi sáng quê hương. Người Tù đi tham học các miền, các vị Tổ Đức Tòng Lâm, trang bị cho mình một kiến văn quảng bác. Nhưng khi con phượng hoàng đủ lông đủ cánh thì cất cánh bay cao. Khi rồng thiêng ẩn mình dưới đầm lầy đủ nanh vuốt thì vẫy vùng nơi bể sâu sóng cả. Do vậy, khi “Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn”, Người Tù mang nỗi đau lớn, nỗi đau của một người sống trong lòng quê hương bị dập vùi theo cát bụi quê hương. Người Tù mất quê hương giữa lòng quê hương, nên Người Tù nguyện ở tù cho quê hương được có trọn một mùa Xuân:

“Quê hương ơi, mấy nghìn năm máu lệ

Đôi vai gầy dâng trọn cả mùa Xuân.”

 

Người Tù khóc cho quê hương sao nhiều máu và nước mắt. Suốt một dòng lịch sử mấy ngàn năm quê hương bị xâm lăng, đô hộ, quê hương bị cướp đoạt, tương tàn với biết bao nỗi thống khổ:

“Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử

Dài con sông trào máu lệ quê cha.”

 

Đến hôm nay, Người Tù là chứng nhân của một chặng đường lịch sử. Nhìn dòng sử mệnh quê hương trôi nổi, điêu linh với bao nỗi xót xa, Người Tù giở lại từng trang lịch sử để thấy từ thủa bình minh lập quốc, dòng máu của các chiến sĩ, các anh hùng dân tộc, đã thấm sâu trong từng tấc đất quê hương, trải dài trên giang sơn gấm vóc, mở rộng bờ cõi biên cương, cho cánh đồng lúa ngày thêm mượt mà xanh thẳm. Máu xương của các bậc tiền nhân khổ công dựng nước, xây nước và giữ nước cho đến bây giờ. Sự kiến tạo quê hương, mở mang bờ cõi, giữ gìn quê Cha đất Tổ được thanh bình. Sự hy sinh đó, máu chảy thành sông, xương chất thành núi qua bao thế hệ, bao lớp người ngã xuống, nuôi sống cỏ cây, nuôi sống dòng lịch sử dân tộc hào hùng.

 

Lần giở lại lịch sử quê hương, dân tộc, biết bao công đức của các bậc Tổ Đức Tiền Nhân, các anh hùng, chiến sĩ vô danh vùi thây ngoài chiến địa cho sự trường tồn của dân tộc. Không ngồi yên nhìn gót giày quân giặc tàn phá quê cha, nhìn sự ngược đãi bạo tàn của quân xâm lược. Một Trưng Nữ Vương đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân thù ra khỏi biên cương, tạo dựng một quê hương độc lập tự chủ, với hiến pháp kỷ cương luật định. Ngồi trên bành voi vì nợ nước thù nhà, để xiển dương dòng máu nữ lưu anh kiệt. Một Triệu Thị Trinh, đã “cưỡi cơn sóng dữ, đạp luồng kình phong, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, mà không là nữ nhi thường tình.” Một tướng quân Trần Bình Trọng dõng dạc, khẩu khí, kiêu hùng: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc.” Một Trần Khánh Dư ngồi đan sọt mà lo việc nước. Một Đại tướng Trần Hưng Đạo: “Ngày nào đầu tôi còn trên cổ, thì ngày đó xin Vua đừng lo.” Đem chí nguyện của một con dân, hiến dâng cho Tổ quốc, tiếp nối mạch sống giống nòi, lấy da ngựa bọc thây, lấy áo bào làm mồ chôn thân xác đáp đền ơn nước.

Một Lý Thường Kiệt hào hùng, bất khuất, minh định:

 

“Nam quốc Sơn hà Nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.”

 

Một Lê Lai liều mình cứu Chúa, một Lê Lợi nếm mật nằm gai, mười năm kháng chiến chống quân Minh trong rừng núi Chí Linh, không sờn lòng nhụt chí. Một Nguyễn Trãi: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần.” Tất cả đã đều đóng góp xương máu vào dòng sử Việt. Một Đại Đế Quang Trung thống nhất sơn hà, để hơn hai mươi vạn quân Thanh vội vã, chen chúc rút lui bỏ thây nơi cầu phao, cũng vì dòng máu quật cường của dân tộc Việt Nam. Người Tù, cũng nổi trôi theo dòng sử mệnh đó.

 

Người Tù chứng kiến thảm trạng của quê hương hôm nay mà nhớ lại bước đường lịch sử xa xưa của các bậc khai quốc công thần.

“Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu

Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh

Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ

Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh.”

 

Ý thức phận mình trong thân phận quê hương hiện nay, Người Tù đi làm hạt cát. Một hạt cát trong bãi cát nóng muôn trùng. Hạt cát nóng đó lăn vào mắt kẻ quan quyền, bạo chúa, kẻ hưởng thụ trên máu xương của dân tộc, kẻ thống lãnh cai trị một chế độ phi nhân.

“Nữ Vương ngự huy hoàng trong ráng đỏ

Cài sao hôm lấp lánh tóc mai

Bà cúi xuống cho đẹp lòng thần tử

Kìa, khách lạ, người là ai?

 

Tôi sứ giả hư vô

Xin gửi trong đôi mắt Bà

Một hạt cát.”

 

Trên dòng sử mệnh quê hương, Người Tù đã bềnh bồng trong dòng sông từ khơi nguồn tiến hóa tự thủa man khai. Người Tù bước đi trên tinh thần quê hương dân tộc, làm nghĩa vụ của một con dân. Là cọng cỏ trong đám cỏ. Là chiếc lá trong rừng lá. Là giọt nước trong dòng sông. Là hạt cát trong bãi cát. Là hạt mưa trong cơn mưa làm mát dịu khí trời oi bức, làm tắt lịm cơn nắng sốt trưa hè. Nhưng Người Tù làm mát dịu lòng dân thì lại xốn xang, cay rát mắt người thống trị. Vì sự đau nhức đó, Người Tù phải lãnh bản án tử hình, hay tù khổ sai chung thân qua hai thế kỷ.

 

Tất cả là bài học của thời gian, xoi mòn và sụp đổ. Người Tù nói với quê hương “mặt trời kia sẽ tắt.” Đó là bài học lịch sử muôn đời, bất biến. Rồi một ngày nào đó những gì của quê hương, hãy trả lại cho quê hương, những gì của giống nòi dân tộc hãy trả lại cho dân tộc giống nòi. Chẳng ai có thẩm quyền cướp đoạt, tẩu tán tài sản của cha ông ngàn đời xây dựng.

 

“Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc

Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng.

Người có biết mặt trời kia sẽ tắt?

Tôi yêu người từ vết rạn thời gian.”

 

Đó là lẽ tất nhiên được khẳng định qua bài học dấu mòn bên lịch sử. Một chân, Người Tù đi trong lòng quê hương; Một chân, đi trong lòng Đạo pháp, theo vết tích hoằng dương của Chư Lịch Đại Tổ Sư. Một Thiền học, Khương Tăng Hội chống tích trượng dựng Phật nghiệp cùng Mâu Tử, Chi Cương Lương, Lý Miễu, Đạo Cao, Pháp Minh... Khương Tăng Hội là bậc kỳ vĩ, đồng thời với những bước chân của các bậc Thạch Trụ Thiền Gia trong sứ mệnh dựng xây ngôi nhà lịch sử Phật giáo đầu tiên. Công đứctài năng của Chư Vị Lịch Đại Tổ Sư đã sống trọn vẹn, huy hoàng, thù diệu trong lòng quê hương, Đạo pháp.

 

“Nội dung giáo dục Phật giáo Việt Nam vào thời Khương Tăng Hội như thế, không phải là một nền giáo dục thuần túy Phật giáo hay tôn giáo, mà là một nền giáo dục tổng hợp toàn diện, có thể nói đại diện cho nền giáo dục Việt Nam thế kỷ thứ ba. Nền giáo dục này không chỉ giới hạn trong chức năng truyền giáo, đào tạo ra những con người Phật giáo, mà trên hết và trước hết là đào tạo ra những trí thức dân tộc toàn diện có tánh bách khoa, am hiểulãnh hội được hết tinh hoa dân tộc và nhân loại của thời đại mình, rồi trở lại đóng góp những thành quả của mình cho kho tàng hiểu biết của loài người. Cho nên Khương Tăng Hội không chỉ học ba tạng kinh điển của Phật giáo, không chỉ học sáu kinh của Nho giáo, và chắc chắn là các giáo khác nữa, mà còn học tới thiên văn đồ vỹ, khoa ăn nói và nghệ thuật viết lách. Chính nền giáo dục tổng hợp toàn diệnphóng khoáng này đã đào tạo cho lịch sử dân tộc những thiên tài trong các lãnh vực khác nhau, thậm chí đối lập nhau như nghệ thuật và khoa học, chính trị và âm nhạc, văn và kỹ thuật. Từ Lý Miễu cho đến Lý Công Uẩn, từ Lương Thế Vinh cho đến Ngô Thời Nhiệm, Từ Lê Ích Mộc cho đến Trần Cao Vân, từ Tuệ Tĩnh cho đến Võ Trứ, chứ khoan nói chi với Vạn Hạnh, Chân Lưu, Pháp Thuận, Quảng Đức... Dựa trên học phong thiết thực, nó đã trang bị cho những đối tượng cần đào tạo những kiến thức rộng rãi, phóng khoáng của tất cả các ngành tri thức của nhân loại thời đó, mà không nhất thiết đóng khung vào một chủ thuyết nào nên đã tạo được những vùng trời tự do cho khả năng tư duy, và tư tưởng sáng tạo của từng cá nhân.

Nền giáo dục Phật giáo này không chỉ tồn tại vào thời Khương Tăng Hội, mà còn được tiếp tục kế thừa, tiếp nối cho đến ngày hôm nay và mai sau.

Chính cái cột sống dân tộc ấy đã nâng đỡ cho những người con xa quê khỏi ngã gục trước gánh nặng của trách nhiệm và trước những cám dỗ tha hóa của vật chất. Họ có thể đứng thẳng người lên trông ngắm quê hương gấm vóc và thương nhớ quê hương diệu vợi. Mà quê hương là gì? Là những câu hò của Mẹ, là nét mặt của Cha, là lời dạy của Thầy và là nhiều thứ nữa...

Phật giáo Việt Nam vào thời Khương Tăng Hội đã xây dựng thành công một cơ cấu giáo dục tổng hợp khá hoàn chỉnh và đa dạng, bao gồm toàn bộ tất cả các ngành tri thức có mặt ở thời đó mà không đóng khung vào một giới hạn chật hẹp nào. Người ta không chỉ học ba tạng kinh điển Phật giáo, sáu kinh của Nho giáo, còn phải học tất cả khoa sấm ký, thiên văn, thậm chí cả khoa học ứng đốiđặc biệt truyền thống dân tộc Việt Nam. Nền giáo dục ấy vì vậy có thể nói là đại diện cho nền giáo dục Việt Nam vào thế kỷ thứ II và thứ III, đối kháng lại nền giáo dục nô dịch của Trung Hoa đang tồn tại song song cùng nó. Nhờ thế, qua lịch sử nó đã đào tạo ra những thiên tài đáp ứng được nhu cầu của đất nước và tiếp nối cho đến ngày nay.”

 (Khương Tăng Hội Toàn Tập I - Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh 1975 - trang 43. Lê Mạnh Thát)

 

Người Tù đã bước theo những bước chân đầu tiên của thời đó cho đến hôm nay còn in rõ, dấu vết, hình hài của những người tù Cha - Hòa Thượng Thiện Minh chết trong tù năm 1978, Hòa Thượng Trí Thủ bị chích thuốc độc năm 1984... Hòa Thượng Huyền Quang tù treo lơ lửng mấy mươi năm ròng rã cho đến nay, Hòa Thượng Quảng Độ cấm cố, biệt giam và giam lỏng cho đến bây giờ. Ngang qua những chứng tích hoang tàn, đổ nát, Người Tù chợt mơ giấc mơ kinh dị:

“Đêm qua chiêm bao ta thấy máu

Từ sông Ngân đổ xuống cõi người

Bà mẹ xoi tim con thành lỗ

Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.”

 

Bước vào cõi thơ Người Tù, mông lung huyền diệu quá, cả một trời tâm sự được gửi gấm qua những ngôn từ sâu thẳm. Tâm sự đó được ký thác từ thuở còn măng sữa, cưu mang thân phận làm người, đã u hoài một kiếp nhân sinh, nhiều mộng mị. Càng thấy rõ sự mộng mị đó từ thập niên 75 về sau ở miền Nam và 45 ở miền Bắc. Người Tù đã đi lên đỉnh núi nhìn xuống đồng bằng, sự đời trôi qua nhiều nước mắt. Người lầm than, kẻ cơ cực. Kẻ chiến thắng hung hăng, tàn bạo, với guồng máy thống trị hà khắc, coi dân như rơm rác, mặc sức đàn áp đày ải. Xã hội băng hoại, từ đạo đức tâm linh. Một xã hội loạn tưởng suy đồi, vì lãnh đạo chỉ biết nghĩ đến đời sống vật chất cá nhân, đất nước nghèo nàn vì những chủ thuyết ngoại lai.

 

“... Hoàn cảnh đất nước Việt Nam như thế cho nên dân ta phải chịu quá nhiều đau thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói riêng, mà xã hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng. Điều tủi nhục lớn nhất là họ không thể nói thay những người dân thấp cổ bé miệng, nói lên một cách trung thực tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ phải chịu. Bởi vì tại Việt Nam ngày nay những người có thể nói thì ngòi bút đã bị cong; những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ gẫy.

Nhưng tôi rõ một điều, và điều đó đã được ghi chép trong lịch sử: Trí thức chân chánh của Việt Nam không bao giờ khiếp nhược.”

 

Đó là một chút lương tri, tự tình quê hương, dân tộc không thể phôi pha trong người con dân nước Việt:

“Ơ kìa, nắng đỏ hiên chùa

Trăng non rỏ máu qua mùa mãn tang

Áo Thầy bạc phếch bụi đường

Khói rêu ố nhạt vách tường dựng kinh.”

 

Lời Kinh khuya nơi chánh điện chùa Già Lam trầm hùng thanh thoátBài kệ trong Kinh Lăng Già được Ôn Già Lam xướng tụng 108 danh hiệu Đức Phật A Di Đà mỗi thời công phu sáng mà thấy lòng mình bình an tĩnh lạc, rải Tâm Đại Bi đều khắp chúng sanh:

 

- Thế gian ly sanh diệt

Do như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng Đại Bi Tâm

 

Nguyện cầu cho quê hương Việt Nam ngời sáng Tâm Đại Từ Bi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17091)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38646)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21916)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21995)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69785)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6872)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38715)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43991)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44077)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42898)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44405)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23068)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39196)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21727)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42378)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35591)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46496)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30107)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30798)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26185)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20352)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25549)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18456)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17105)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40753)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21710)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25894)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41412)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24889)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23772)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15055)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19960)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37810)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19080)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17683)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23522)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36295)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40352)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19485)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21699)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46162)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35910)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28586)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28852)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32171)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26275)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33393)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24068)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24802)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54497)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant