Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Không phép lạ, không bí mật

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 7758)
Chương 2: Không phép lạ, không bí mật


Chương 2

KHÔNG PHÉP LẠ, KHÔNG BÍ MẬT

 Khi kêu gọi một cuộc cách mạng tâm linh, phải chăng cuối cùng tôi lại biện minh một giải pháp tôn giáo cho các vấn đề của chúng ta? Không. Như một người gần bảy mươi tuổi đang viết những dòng này, tôi đã tích lũy được khá đủ kinh nghiệm để hoàn toàn tin tưởng rằng các điều giảng dạy của đức Phật vừa cao thượng vừa hữu ích cho nhân loại. Nếu một người đem ra thật hành, chắc chắn không phải chỉ có người đó, mà các người khác, đều hưởng lợi lạc.

Tuy nhiên, sự gặp gỡ của tôi cùng đủ hạng người khác nhau trên thế giới, đã giúp tôi ý thức được rằng, có các tín ngưỡng khác, các nền văn hóa khác, không kém khả năng hơn của tôi trong việc giúp các cá nhân đi vào một đời sống xây dựngmãn nguyện hơn.

Hơn nữa, tôi còn đi đến kết luận rằng, một người có đức tin tôn giáo hay không cũng không quan trọng cho lắm. Điều quan trọng hơn nữa chính là họ phải là người thiện lành.

Tôi nói lên điều đó trong sự kiện là, mặc dù đa số trong sáu tỷ con người trên quả đất này có thể tuyên bố trung thành cùng một truyền thống tín ngưỡng này hoặc khác, ảnh hưởng của tôn giáo trên đời sống con người nói chung chỉ là biên tế, đặc biệt trong thế giới tân tiến. Thật đáng ngờ rằng trên thế giới ngày nay có thể có khoảng một tỷ người thật hành tinh tấn, tức là, những người hàng ngày đều trung thành làm đúng với các nguyên tắc và giáo lý tín ngưỡng của họ. Số còn lại, trong ý nghĩa đó, là những người không thật hành. Những người tinh tấn thật hành đồng thời cũng có thể theo vô số các con đường tôn giáo khác nhau. Từ điểm đó, sự đa dạng trở nên sáng tỏ, không có một tôn giáo nào thỏa mãn được toàn thể nhân loại. Chúng ta cũng có thể kết luận rằng, loài người có thể sống khá tốt đẹp mà không cần kêu cầu đến tín ngưỡng.

Điều đó có vẻ như một xác nhận bất thường, khi đến từ một nhân vật tôn giáo. Tuy nhiên, tôi là một người Tây tạng trước khi là một Đạt lai Lạt ma, và tôi là một con người trước khi là một người Tây tạng. Vì vậy, trong khi là một Đạt lai Lạt ma, tôi vẫn có các trách nhiệm đặc biệt đối với người Tây tạng; và như là một tăng sĩ, tôi có trách nhiệm đặc biệt đối với sự hòa hợp liên tôn xa hơn nữa; và như là một con người, tôi có trách nhiệm lớn lao hơn nữa đối với toàn thể gia đình nhân loại — mà thật sự chúng ta đều có. Và bởi vì đa số không thật hành tôn giáo, cho nên tôi quan tâm đến việc cố gắng tìm ra một con đường phục vụ toàn nhân loại mà không cần kêu cầu đến tín ngưỡng.

Giờ đây, tôi tin nếu chúng ta quán xét các tôn giáo chính trên thế giới trên phối cảnh rộng lớn nhất, chúng ta sẽ tìm thấy tất cả — Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, đạo Sikh, đạo Zoroastrian, và các tôn giáo khác — đều hướng về việc giúp đỡ loài người đạt đến các hạnh phúc trường tồn. Và mỗi một tôn giáo, theo ý tôi, đều có khả năng thực hiện điều đó. Dưới các trường hợp đó, một tập hợp tôn giáo đa dạng (mỗi đạo rốt ráo cũng chỉ đề cao cùng một số giá trị nền tảng chung) là điều vừa đáng mong cầu vừa hữu ích.

Không phải lúc nào tôi cũng cảm thấy thế. Khi tôi còn trẻ và sống tại Tây tạng, tôi tin ở tận đáy lòng rằng, Phật giáocon đường tốt nhất. Tôi tự nhủ, thật tuyệt vời nếu tất cả mọi người đều theo đạo. Nhưng đó chỉ là một sự vô minh. Người Tây tạng chúng tôi, dĩ nhiên, cũng từng nghe nói đến các tôn giáo khác. Nhưng chúng tôi chỉ biết rất ít qua các bản dịch lần nhì bằng tiếng Tây tạng, trong tài liệu Phật giáo. Dĩ nhiên, các bản này nhắm vào các khía cạnh của các tôn giáo khác, được mở ra cho các lý luận dưới nhãn quan của Phật giáo. Đó không phải vì các tác giả Phật học cố ý mạn họa đối phương. Trái lại, điều đó chỉ phản ánh sự kiện, họ không thấy cần phải nói lên tất cả các khía cạnh mà họ không có gì để luận bàn, bởi vì các tác phẩm này được viết ở Ấn độ, nơi có đầy đủ các loại sách vở cần tham khảo đó. Không may, đó lại không phải trường hợp của Tây tạng, vốn không có các bản dịch kinh sách nói trên.

Khi lớn lên, dần dà tôi có thể học biết nhiều hơn đến các tôn giáo trên thế giới. Đặc biệt là khi lưu vong, tôi bắt đầu được gặp gỡ nhiều người đã tận hiến đời họ sống trong các tín ngưỡng khác — một số qua cầu nguyệnthiền định, số khác qua các hành động phục vụ người khác — họ đã đạt đến một kinh nghiện sâu xa theo truyền thống riêng tư. Những trao đổi cá nhân đó giúp tôi nhận thức được giá trị to tát của mỗi một truyền thống tín ngưỡng, và đưa tôi đến việc tôn trọng họ rất sâu xa. Đối với tôi, Phật giáo vẫn là con đường quý báu nhất. Phật giáo phù hợp nhất với cá tánh của tôi. Nhưng điều đó không có nghĩa tôi tin là Phật giáo sẽ trở thành tôn giáo tốt nhất cho tất cả mọi người; không khác hơn việc tôi tin là không nhất thiết tất cả mọi người đều phải có đức tin tôn giáo.

Dĩ nhiên, vừa là một người Tây tạng và một tăng sĩ, tôi đã được dưỡng nuôi sao cho phù hợp, được giáo dục trong các nguyên tắc và giáo lý, và thật hành Phật giáo. Do đó, tôi không thể phủ nhận rằng, trọn vẹn tư tưởng của tôi thành hình từ sự hiểu biết của tôi về điều mang ý nghĩa như một tín đồ của đức Phật. Tuy nhiên, mối quan tâm của tôi trong quyển sách này vượt khỏi các giới hạn chính thức của tín ngưỡng. Tôi muốn trình bày rằng, quả thật có những nguyên tắc luân lý phổ quát toàn cầu có thể giúp cho tất cả mọi người đạt đến hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều mong mỏi. Vài người có thể cảm thấy như tôi đang kín đáo quảng bá Phật giáo. Cho dù đối với tôi thật khó mà phủ bác một cách quyết đoán, nhưng đây vốn không phải là trường hợp đó.

Thật ra, tôi tin rằng có một sự phân biệt rõ rệt giữa tôn giáotâm linh. Tôn giáo theo tôi có liên hệ đến đức tin vào lời tuyên xướng về sự cứu rỗi của một truyền thống tín ngưỡng này hoặc khác, một diện khác là chấp nhận một hình thái thực tế tâm linh hoặc siêu nhiên nào đó, có thể kể cả ý tưởng về thiên đàng hoặc Niết-bàn. Nối liền vào đó là các giáo lý hoặc chủ thuyết, nghi thức, cầu nguyện, và vân vân. Tâm linh theo tôi có liên hệ đến các đức tánh của tinh thần con người — như tình thươngtâm từ bi, nhẫn nại, bao dung, tha thứ, tri túc, cảm thức trách nhiệm, cảm thức hòa hợp — sẽ mang đến hạnh phúc cho cả ta và người. Trong khi nghi thứccầu nguyện, cùng với các câu hỏi như Niết-bàn và cứu rỗi, có liên hệ trực tiếp đến đức tin tôn giáo, những phẩm tánh nội tại trên lại không cần thế. Tuy vậy, cá nhân cũng chẳng có lý do gì lại không phát huy các phẩm tánh đó, kể cả ở trình độ cao, mà không cần phải tìm đến một hệ thống đức tin tôn giáo hoặc siêu hình nào. Chính vì vậy, đôi khi tôi nói rằng tôn giáo là điều chúng ta vẫn có thể sinh hoạt mà không cần đến.

Điều chúng ta không thể sinh hoạt lại thiếu vắng, chính là các phẩm tánh tâm linh cơ bản.

Dĩ nhiên những người thật hành tôn giáo hữu lý khi cho rằng các phẩm chất hoặc đức hạnh trên vốn là kết quả của một sự tận hiến thuần thành tôn giáo; do vậy, tôn giáotoàn bộ những gì phải làm để phát huy chúng, và điều đó có thể gọi là thật hành tâm linh. Chúng ta cần soi sáng điểm này. Đức tin tôn giáo đòi hỏi phải thật hành tâm linh. Tuy nhiên có nhiều sự lẫn lộn, thường thấy nơi cả tín đồ tôn giáo lẫn người không tin, liên hệ đến điều thật sự hàm chứa. Đặc điểm chung của các phẩm tánh tôi vừa mô tả như "tâm linh" có thể nói là một trình độ quan tâm nào đó đến tha lợi. Tại Tây tạng, chúng tôi thường nói đến shen pen kyi có nghĩa "ý niệm giúp đỡ tha nhân." Và khi nghĩ đến điều đó, chúng tôi nhận thấy rằng mỗi phẩm tánh nêu ra đều được minh định bằng một sự quan tâm hiển nhiên đến an sinh của người khác.

Hơn nữa, người có tình thương, từ bi, nhẫn nhục, bao dung, tha thứ, vân vân, nhận ra được ở một tầm mức nào đó khả năng ảnh hưởng của hành động mình đối với người khác, và tùy nghi điều động hành vi của họ. Như thế, thật hành tâm linh theo mô tả này, một mặt liên quan đến việc hành động cho tha lợi. Mặt khác, lại kéo theo sự chuyển hóa chúng ta trở nên thích nghi hơn để hành thiện. Nói đến thật hành tâm linh trong khuôn khổ nào khác hơn chỉ là vô nghĩa.

Lời kêu gọi một cuộc cách mạng tâm linh của tôi do đó không phải là kêu gọi một cuộc cách mạng tôn giáo. Cũng không phải là sự viện dẫn một lối sống vượt ngoài đời người, gần như một thứ phép lạ hoặc bí mật nào đó. Khác hơn, đó chỉ là lời kêu gọi một sự tái định hướng căn bản, tránh các sự bận rộn theo thói quen cùng chính bản thân. Đó là lời kêu gọi hướng về phía một cộng đồng rộng lớn hơn gồm những người liên hệ với chúng ta, và có thái độ nhận thức về tha lợi song hành cùng ngã lợi.

Ở đây, độc giả có thể phản đối rằng trong khi sự cải chuyển cá tánh theo tái định hướng đề ra, cũng như sự kiện con người triển khai tâm từ bi và tình thương, đều rất đáng mong muốn; nhưng một cách mạng tinh thần không thích hợp để giải quyết sự đa dạng và cao độ của các vấn đề chúng ta phải đối diện trong xã hội tân tiến. Hơn nữa, có thể lập luận rằng, các vấn đề đến từ, lấy thí dụ, bạo hành trong gia đình, nghiện ngập thuốc và rượu, gia đình đổ vỡ, vân vân, sẽ dễ hiểu và dễ giải quyết hơn nếu theo từng trường hợp. Tuy nhiên, vì mỗi trường hợp đều có thể giải quyết nhờ người ta có tình thươngtừ bi nhiều hơn với nhau — dù thật bấp bênh — cho nên vẫn có thể xếp vào loại vấn đề tâm linh có thể áp dụng giải pháp tâm linh. Như thế không phải nói rằng, tất cả việc chúng ta cần làm chỉ là đào luyện các giá trị tâm linh rồi tự động các vấn đề kia sẽ biến mất. Trái lại, từng mỗi một vấn đề đều cần đến một giải pháp riêng biệt. Nhưng chúng ta nhận thấy khi chiều hướng tâm linh bị bỏ quên, sẽ không hy vọngđạt được một giải pháp lâu dài.

Tại sao thế? Tin xấu là một sự thật của cuộc đời. Mỗi lần nhặt một tờ báo, hoặc vặn đài truyền hình hay truyền thanh, chúng ta đều đối diện cùng các tin buồn. Không có ngày nào qua đi, mà trên bất cứ nơi nào của thế giới, lại không có điều gì xảy ra mà tất cả mọi người đều cho là bất hạnh. Dù chúng ta từ đâu đến, và triết lý sống như thế nào, triển khai rộng hẹp đến độ nào, chúng ta tất cả đều cảm thấy tiếc khi nghe người khác đau khổ.

Các hiện tượng đó có thể chia ra làm hai loại chính, loại có nguyên do thiên nhiên — động đất, hạn hán, lụt lội, và tương tự — và loại có bắt nguồn từ con người. Chiến tranh, tội ác, bạo hành đủ thứ, tham nhũng, nghèo đói, thất vọng, lừa đảo, và bất công xã hội, chính trị, kinh tế đều là hậu quả của hành vi tiêu cực. Người nào chịu trách nhiệm cho hành vi đó? Chính chúng ta. Từ hoàng gia, tổng thống, thủ tướng, và chính trị gia cho đến quản trị gia, khoa học gia, bác sĩ, luật sư, học giả, sinh viên, tu sĩ, ni và tăng, như chính tôi, cho đến kỹ nghệ gia, nghệ sĩ, thương gia, chuyên viên, thợ thuyền, nông dân, và những người thất nghiệp, không có một giai cấp nào hoặc lãnh vực nào trong xã hội thiếu phần trong các tin xấu hàng ngày.

Điều may mắn, không như trường hợp thiên tai là loại chúng ta ít làm được gì, các khó khăn của loài người, bởi vì hầu hết trên căn bản đều là vấn đề luân lý, cho nên có thể vượt qua. Sự kiện có quá nhiều người đến từ mọi lãnh vực và tầng giới xã hội cùng góp phần xây dựng, phản ánh một tiên kiến này: Có những người tham gia vào chính đảng để tranh đấu cho một hiến pháp công bình hơn; có người trở thành luật sư để tranh đấu cho luật pháp; có người gia nhập các tổ chức tiếp trợ để chống đói khổ; có người quan tâm đến các nạn nhân bị thương hại, trên cả nghiệp vụ lẫn việc thiện nguyện. Thật thế, tất cả chúng ta, theo sự hiểu biết riêng và trên các con đường riêng, đều cố gắng làm cho thế giới — hay một mảnh nhỏ nào của nó — trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sống.

Không may, chúng ta phải nhìn nhận dù hệ thống luật pháp khéo biện luận và quản trị đến đâu, và dù các phương pháp kiểm soát bên ngoài tiến bộ đến mức nào, cũng không thể nào quét sạch hành vi sai quấy. Cứ quan sát các lực lượng cảnh sát ngày nay có các kỹ thuật tân tiến không thể nào tưởng tượng nổi vào năm mươi năm trước. Họ có biện pháp kiểm soát giúp họ nhìn thấy những gì dấu kín; họ có kiểm tra DNA, phòng thí nghiệm pháp y, chó kiểm soát, chuyên viên huấn luyện đặc biệt. Thế mà các phương pháp phạm tội cũng tiến bộ theo cùng khiến không sao ngưng cắt hết. Khi sự kiểm ngăn của luân lý còn thiếu sót, không thể có hy vọng vượt qua các vấn đề như tình trạng tội ác gia tăng. Thật vậy, thiếu thứ kỷ luật bên trong đó, chúng ta chỉ thấy rằng, ngay chính việc tìm đủ mọi cách để giải quyết vấn đề lại hóa thành một nguồn khó khăn khác. Sự tinh xảo gia tăng của các phương thức phạm tộikiểm soát đều có các khiếm khuyết và chế tác lên nhau thành một thứ vòng luẩn quẩn.

Tương quan giữa thật hành tâm linhluân lý như thế nào? Bởi vì tình thươngtâm từ bi cùng các đức tánh tương tự, theo định nghĩa, giả định một trình độ quan tâm đến tha lợi, cho nên cũng giả định một sự giới chế luân lý. Chúng ta không thể từ bibác ái trừ phi đồng thời ta phải tự hạn chế bớt các động cơ và tham vọng tác hại của mình.

Về nền tảng của thật hành luân lý, ít ra có thể tạm xem như ở đây tôi bênh vực cho khuynh hướng có tính cách tôn giáo. Thật vậy, mỗi một truyền thống tôn giáo chính đều có một hệ thống luân lý triển khai đầy đủ. Tuy nhiên, khó khăn trong sự ràng buộc hiểu biết điều phải quấy của ta vào tôn giáovấn đề rồi ta lại phải đặt câu hỏi, "Tôn giáo nào?" Tôn giáo nào thuyết giải được một hệ thống đầy đủ nhất, dễ đạt đến nhất, và dễ chấp nhận nhất? Các biện luận sẽ không bao giờ dứt. Hơn nữa, làm thế chính là lãng quên sự kiện nhiều người đã phủ nhận tôn giáo vì không cảm thấy lòng xác tín chân thành, chứ không phải vì thiếu quan tâm đến các vấn đề sâu xa hơn của đời người. Chúng ta không thể giả thiết những người đó không có được cảm thức về phải quấy hoặc không thích hợp cùng đạo đức; dựa trên sự kiện một số người chống tôn giáo vốn vô đạo đức. Ngoài ra, đức tin tôn giáo không bảo đảm được đạo đức liêm khiết. Qua lịch sử nhân loại, chúng ta có thể thấy trong số các kẻ tai ác nhất — kẻ gây bạo lực, khủng bố, và hủy diệt đồng loại — có những kẻ hành nghề tôn giáo, thường rất ồn ào. Tôn giáo có thể giúp chúng ta thiết lập các nguyên tắc luân lý căn bản. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể nói đến luân lýđạo đức mà không cần phải kêu cầu tôn giáo.

Lại nữa, có thể phản bác là nếu không chấp nhận tôn giáo như một nguồn luân lý, chúng ta phải cho phép người ta hiểu về các điều tốt phải hoặc xấu quấy, điều thích hợp với đạo đức hoặc không, điều tạo thành một hành động tích cực hoặc tiêu cực... thay đổi tùy theo các hoàn cảnh và ngay cả giữa người với người. Nhưng ở đây, tôi xin giải thích, không ai nên giả định rằng có thể lập ra một loạt các luật lệ nhằm cung ứng cho chúng ta các câu trả lời cho từng trường hợp luân lý nan giải, ngay dù có chấp nhận tôn giáo làm nền tảng đạo đức. Một khuynh hướng công thức như thế khó hy vọng nắm bắt được sự phong phú và đa dạng của kinh nghiệm người đời. Nó còn làm nền móng cho các thứ biện thuyết về trách nhiệm đối với văn bản của luật pháp, hơn là trên chính hành động của ta.

Điều đó không có nghĩa thật là vô ích khi nỗ lực phân giải các nguyên tắc có thể hiểu như đường nét chính của đạo đức. Ngược lại, nếu chúng ta có chút hy vọng nào để giải quyết vấn đề, điều thiết yếu là phải tìm phương cách giải quyết. Chúng ta phải có một phương tiện nào đó để phán đoán giữa, lấy thí dụ, sự khủng bố như một cách cải tạo chính trị và nguyên tắc đối kháng hòa bình của Mahatma Gandhi. Chúng ta có thể trình bày rằng bạo hành đối với kẻ khác là sai quấy. Tuy nhiên, chúng ta phải tìm cách nào để một mặt tránh được sự quá khích của nền độc tài thô bạo, và mặt kia là các thuyết tương đối tầm thường.

Theo nhãn quan của tôi — vốn không chỉ đặt trên niềm tin tôn giáo, hoặc ngay cả trên một ý tưởng độc đáo nào, mà chỉ trên lẽ thường đơn giản — sự kiến lập các đường nét chính của nguyên tắc luân lý là việc khả thi, khi chúng ta khởi đầu bằng sự quán sát rằng tất cả mọi người đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Chúng ta không có phương tiện để phân biệt giữa phải và quấy, nếu không lưu ý đến cảm xúcđau khổ của người khác. Vì lý do đó, và cũng vì — như ta sẽ thấy — khái niệm về chân lý tối thượng rất khó chấp nhận ngoài khuôn khổ tôn giáo, hành vi luân lý không phải là điều chúng ta dấn bước vào vì tự nó sẵn có bản chất đúng. Hơn nữa, nếu muốn hạnh phúc và tránh đau khổthái độ tự nhiên của mọi người, điều tiếp theo là mỗi một cá nhân đều có thể theo đuổi mục tiêu đó. Để tương ứng tôi đề nghị rằng, một trong các điều có thể xác định một hành động có phù hợp luân lý hay không, chính là ảnh hưởng của nó đến kinh nghiệm hoặc kỳ vọng hạnh phúc của kẻ khác. Một hành động tác hại hoặc bạo hành đối với điều đó, là một hành động khả dĩ vô luân lý.

Tôi nói khả dĩ vì mặc dù hậu quả của hành động quan trọng, nhưng còn có những yếu tố khác để cứu xét, kể cả vấn đề ý địnhbản chất của hành động. Chúng ta có thể nghĩ đến những việc mà ta đã phá rối đến người khác, mặc dù không có ý định làm vậy. Tương tự, cũng không khó nghĩ đến các hành động, mặc dù có vẻ cưỡng báchbạo hành và có thể gây đau đớn, nhưng lại đóng góp vào hạnh phúc dài lâu cho người khác. Bắt trẻ em đi vào kỷ luật nằm trong loại này. Mặt khác, sự kiện hành động tuy có vẻ dịu êm, không có nghĩa là tích cực hoặc luân lý, nếu ý định của chúng taích kỷ. Trái lại, lấy thí dụ, ý định của chúng talừa đảo, rồi giả vờ như tử tế, đó là việc làm quả thật không hay. Tuy nhiên bạo lực không thể dính vào, vì đó là một hành động hung bạo. Bạo hành chẳng những cuối cùng sẽ gây hại cho kẻ khác, mà còn làm thương tổn niềm tinhy vọng vào sự thật của kẻ khác.

Lại nữa, cũng không khó tưởng tượng một trường hợp trong đó cá nhân có thể giả thiết hành động của mình có ý định tốt và hướng đến điều lợi cho kẻ khác, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn vô đạo đức. Ở đây, chúng ta có thể nghĩ đến một người lính nhận lệnh phải xử tử tù thường dân. Tin rằng mình theo chánh nghĩa, người lính đó có thể giả định rằng hành động đó hướng về phía tốt đẹp hơn cho nhân loại. Tuy vậy, trên nguyên tắc bất bạo động mà tôi vừa đề ra, việc giết người trên định nghĩa là một hành động vô luân. Nhận thi hành những mệnh lệnh như thế là một hành vi tiêu cực nghiêm trọng. Nói cách khác, nội dung của hành động cũng rất quan trọng để có thể xác định có hợp luân lý hay không, bởi vì có vài hành động trên định nghĩa vốn đã là tiêu cực.

Yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định bản chất luân lý của hành động lại có thể không phải ở nội dung hay hậu quả. Thật vậy, vì có rất ít kết quả của hành động chỉ liên hệ trực tiếp đến mỗi riêng ta — cho dù người lái tàu cố gắng đưa chiếc tàu an toàn vượt qua cơn bão cũng không tùy thuộc vào mỗi có hành động của người đó — kết quả có thể là yếu tố kém quan trọng nhất. Ở Tây tạng, từ ngữ được xem nhưgiá trị nhất trong việc xác định giá trị luân lý của một hành động là kun long của cá nhân. Dịch từng chữ, từ kun có nghĩa là "hết lòng" hoặc "tận đáy lòng," và long (wa) nói lên hành động khiến cho một điều gì trổi dậy, đứng lên, hoặc thức tỉnh. Nhưng ý nghĩa được dùng ở đây, kun long được hiểu như một ý nghĩa hay động cơ làm phát khởi hành động — cả cố ý hoặc vô tình. Nó nói lên được trạng thái tổng quát tâm và trí của cá nhân. Khi điều gì thiện lành, hành động theo sau sẽ thiện lành (trên mặt luân lý).

Từ sự mô tả đó, có thể thấy khó dịch chữ kun long thật hàm súc. Thông thường, nó có thể được dịch như "động cơ", nhưng từ này không nắm được ý nghĩa sâu rộng hàm chứa. Chữ "khuynh hướng" tuy gần hơn, nhưng lại thiếu ý nghĩa tích cực của Tây tạng. Mặt khác, nếu dùng câu "trạng thái toàn diện tâm và trí" thì quá dài vô ích. Có thể thu gọn lại bằng chữ "trạng thái trí", nhưng nó lại mất đi ý nghĩa rất rộng của "trí" dùng ở Tây tạng. Chữ "trí" lo , bao gồm ý tưởng về ý thức, hoặc tri thức, cùng với cả cảm giáccảm xúc. Điều này phản ánh một sự hiểu biết rằng cảm xúctư tưởng tận cùng không thể tách rời. Ngay cả tri giác về một tánh chất, như màu sắc, cũng hàm chứa một chiều hướng xúc cảm nào đó. Tương tự, không có một ý tưởng về cảm xúc thuần túy nào không kèm theo một hiện tượng nhận thức. Sự suy luận được dùng để phân biệt các loại cảm giác khác nhau. Những thứ đó khởi đầu chỉ là bản năng, chẳng hạn như nhăn mặt khi nhìn thấy máu, và có những thứ phải cần đến các yếu tố duy lý triển khai hơn, như sợ nghèo chẳng hạn. Xin độc giả nhớ điểm này, mỗi khi tôi nói đến "trí", đến "động cơ", đến "khuynh hướng", hoặc đến "trạng thái trí."

Thế đó, trạng thái toàn bộ tâm và trí của cá nhân, hoặc động cơ, vào thời điểm của hành động, chính là chìa khóa để xác định nội dung luân lý của nó; rất dễ hiểu khi chúng ta quán xét thấy hành động đã bị ảnh hưởng khi ta bị vây hãm trong thứ ý niệmcảm xúc tiêu cực mạnh mẽ như hận thùgiận dữ. Vào lúc đó trí (lo) và tâm ta đang hỗn loạn. Không những điều đó khiến ta mất quân bìnhtình thế, mà còn mất luôn cái nhìn về ảnh hưởng của hành động mình đối với người khác. Thật vậy, chúng ta có thể trở nên quá bối rối đến độ quên mất vấn đề của người khác, và quyền hạnh phúc của họ, nói chung. Hành động của chúng ta trong hoàn cảnh đó — cả hành, ngữ, ý, quên và muốn — gần như chắc chắn có thể làm thương tổn đến hạnh phúc kẻ khác. Cho dù ý định trường kỳ của ta đối với người khác ra sao, cũng như hành động của ta có chủ tâm ý thức hoặc không. Đặt trường hợp chúng ta nổi nóng khi cãi vã cùng người nhà. Cách thức đương đầu cùng bầu không khí căng thẳng đang lan rộng đó còn tùy thuộc khá nhiều vào điều tiềm ẩn dưới hành động hiện tại — nói cách khác, kun long của chúng ta. Càng thiếu bình tĩnh, chúng ta càng dễ có các phản ứng tiêu cực với lời lẽ nặng nề, và càng chắc chắn là điều nói hoặc làm đó sẽ khiến chúng ta hối tiếc về sau, mặc dù rất thương mến người đó.

Hoặc thử tưởng tượng một trường hợp chúng ta gây trở ngại cho người khác một chút, như là vô tình đụng phải người nào khi đang đi, và người đó la mắng chúng ta vô ý. Chúng ta rất dễ dàng bỏ qua chuyện đó nếu khuynh hướng (kun long) đang thiện lành, nếu trái tim đầy tình thương, hơn là lúc đó đang chứa đầy các cảm xúc tiêu cực. Khi động cơ của hành động là thiện lành, thì hành động tự động xu hướng về việc góp phần vào tha lợi. Do đó chúng sẽ tự động có luân lý. Ngoài ra, nếu trạng thái bình thường của chúng ta đa phần là thế, thì phản ứng xấu lúc bị khiêu khích càng ít xảy ra. Ngay dù chúng ta mất bình tĩnh, sự bộc phát cũng sẽ không có ác tánh hoặc hận thù. Do vậy, theo ý tôi, mục đích của tâm linh và thật hành luân lý chính là cải biến và kiện toàn kun long của cá nhân. Đó là cách khiến chúng ta trở thành những người tốt hơn.

Chúng ta hiểu được, khi sự thành công trong việc cải biến tâm và trí qua việc đào luyện các phẩm chất tâm linh càng lớn, thì khả năng đối phó cùng nghịch cảnh càng mạnh; và hành động thiện lành luân lý càng nhiều. Nếu có thể, tôi xin đơn cử trường hợp của tôi làm thí dụ. Sự hiểu biết về luân lý có nghĩa là trong khi nỗ lực liên lũy để đào luyện một tình trạng tâm trí tích cực hoặc thiện lành, thì tôi cố gắng phục vụ người khác bằng khả năng của mình.

Để chắc ăn, thêm vào việc đó, nội dung của hành động là, trong sự khả thi tối đa, tôi cố gắng giảm các cơ hội hành động thiếu luân lý. Sách lược này có hữu hiệu không, là điều để cứu xét, dựa trên căn bản kết quả đối với sự an sinh của tha nhân đoản kỳ hoặc trường kỳ. Nhưng, thường xuyên đặt hết nỗ lực, và luôn cố gắng quan tâm, cho dù chuyện gì xảy ra, tôi tin mình sẽ không làm gì để phải hối tiếc. Ít nhất tôi biết rõ mình đã cố gắng hết sức.

Mô tả trong chương về tương quan giữa luân lýtâm linh không nêu ra câu hỏi về các phương cách giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan của nền luân lý ngày nay. Chúng ta sẽ bàn đến sau. Tôi quan tâm hơn đến việc đề phác một khuynh hướng nghiên cứu luân lý, bằng cách đưa ra mối liên hệ của thảo luận luân lýkinh nghiệm cơ bản về hạnh phúcđau khổ của con người, tránh các vấn đề khơi dậy khi đặt nền tảng của luân lý lên tôn giáo. Hiện thực là đa phần nhân loại ngày nay không tin vào nhu cầu tôn giáo. Hơn nữa, có những hành vi tạm chấp nhận trong truyền thống tôn giáo này chứ không được nơi truyền thống khác.

Còn về ý nghĩa của từ "cách mạng tâm linh," tôi đã minh xác rằng một cuộc cách mạng tâm linh sẽ kéo theo một cuộc cách mạng luân lý.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34228)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16807)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22845)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12982)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21848)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22066)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14822)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23438)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23992)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23523)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17069)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19286)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26920)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14340)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13794)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22619)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14671)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17292)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12601)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13777)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10340)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14611)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17143)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12475)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12637)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10304)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28633)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10640)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11069)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16828)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15719)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13290)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11288)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12969)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19245)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12192)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28472)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10004)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21418)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12753)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17776)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26075)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11645)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10799)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22644)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11990)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10563)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11346)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11487)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant