TUỆ SỸ ĐẠO SƯ
Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2
Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006
Sáu
Cội Thông Già Trên Sườn Núi Tuyết
Qua mấy nghìn năm, cội thông trên sườn núi tuyết vẫn hiên ngang, sừng sững, im lìm, thi gan cùng tuế nguyệt, mặc cho nắng sớm mưa chiều.
Thông vươn mình cao vút với tấm thân sù sì, nứt nẻ của những mảnh vỏ hình dáng vuông, tròn bất nhất, biểu tượng cho sự tăng trưởng không giới hạn. Những nhánh thông vươn xa tạo nên bóng mát cho cỏ cây trên mặt đất. Lá thông xanh mướt, uốn mình vi vu theo gió ngàn như những nhạc khúc bất tận. Bão táp mưa sa cũng không làm mất đi nét kiêu hùng của cội thông.
Sức sống của cội thông là tiềm năng ẩn kín trong lòng đất, những đường rễ dài ăn sâu dưới mặt đất đã thu hút dưỡng chất để nuôi thông cho cành lá xum xuê. Nhờ sức sống sung mãn tốt tươi nên tàng thông đã là nơi nương tựa cho bao nhiêu loài sinh vật, cho chim chóc có nơi trú ngụ bốn mùa.
Khác với mọi năm, mùa đông năm nay tuyết rơi ngập tràn làm những cây thông con phải gục đầu hứng chịu trong cơn giá buốt. Bao nhiêu cây rừng yếu sức, co ro lạnh giá, cành lá chơ vơ, khẳng khiu gầy guộc trắng xóa trong màn tuyết. Thế nhưng, trong không khí buốt giá của mùa đông giữa núi rừng tuyết phủ, cội thông ngàn năm kia như vẫn toát ra một sức sống ấm áp để che chở cho vạn loài.
Cội thông như nhận biết bổn phận của mình giữa núi rừng sương tuyết, nên thông cứ mãi vươn lên bất tận. Nắng lửa mùa hè gay gắt ụp xuống đầu thông, mưa đêm tầm tã như thác đổ, thông cũng trải mình đón nhận, không than van, trách cứ. Phải chăng đó là đức tính nhẫn nhục ngàn đời của thông, thẳng thắn hiên ngang giữa bầu trời, để góp lời reo vui cùng gió ngàn, mây trắng. Phải chăng vì đặc tính uy hùng bất khuất cố hữu của cội thông mà người xưa đã thốt lời ước mong:
“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.”
(Nguyễn Công Trứ)
Chừng ấy đủ biết sức uy dũng của thông như thế nào. Với bản chất hướng thượng, cho dầu cheo leo nơi vách đá, trên sườn núi cao hay nơi thung lũng sâu thẳm, thông vẫn vươn mình đứng thẳng, không cong queo như các loài thảo mộc khác.
Hàng ngàn năm trôi qua, cội thông trên sườn núi tuyết, dù vươn cao tỏa rộng, ngạo nghễ với núi đồi, nhưng vẫn hòa mình với thiên nhiên, cỏ cây, vách đá.
Thông nghe tiếng suối reo như mang bao tự tình của núi rừng xuôi về biển cả, hòa nhập vào đại dương xanh thẳm. Thông ngắm mây trời bềnh bồng đây đó như gởi gắm bao tâm sự ngàn đời ủ kín trong lớp vỏ nứt nẻ. Bất chợt một hôm nào đó, núi rừng thầm nghe tâm sự của thông được gió ngàn mang lên tận đỉnh núi. Nơi đó, một bản trường ca về bầu trời và mặt đất, về bóng nắng và không khí, về sức sống của muôn loài từ thuở khai thiên lập địa được tấu lên khúc nhạc hùng thiêng, tán dương vẻ đẹp mầu nhiệm, thiên thu, diễm tuyệt của hóa công có đôi tay tạo dựng toàn bích. Lời ca đó được mang đi qua bao núi đồi, thung lũng, đồng bằng biển khơi gieo rắc hạt mầm, chủng loại của thông bất diệt.
Ánh nắng của ngày dần tắt, chỉ còn vương lại đôi chút tia sáng yếu ớt trên ngọn thông xanh, báo hiệu ngày sắp tàn và đêm buông xuống. Núi rừng u tịch. Sương đêm nặng hạt trên chót lá. Cội thông im lìm như lắng nghe nỗi lòng của loài thảo mộc, của ghềnh đá, của loài chim đêm, côn trùng sâu bọ nơi hoang dã đã cùng chia sẻ với nhau một kiếp phù sinh. Rải rác đó đây, nhiều sinh thể đang chuyển mình dưới lớp lá thông khô. Từ dưới lớp lá thông khô ấy, các sinh thể xây dựng một xã hội sống vi tế của ốc sên, dế nhủi, của các loài sâu bọ muỗi mòng, kiến đất. Chúng nương nhờ sự che chở của bóng thông mà quanh năm được yên ổn. Đời sống đó tạo thành làng mạc, phố thị, sân ga, ấy là nỗi bình yên của mặt đất. Chúng không mơ một ngày nào đó sẽ biến thành trăng sao, các vì tinh tú trên bầu trời xanh thẳm, và chúng cũng không mơ sẽ hóa thân thành cội thông ngàn năm để che mưa, chở nắng cho núi rừng được tươi mát. Chúng bằng lòng nếp sống yên bình cạnh gốc thông già mà an hưởng tuổi đời dưới tàng lá mục, để rồi một hôm nào đó hóa thân làm kiếp phù sinh:
Mộng Ngày
Ta cỡi kiến đi tìm tiên động
Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ
Cóc và nhái lang thang tìm sống
Trong hang sâu con rắn nằm mơ.
Đầu cửa động đàn ong luân vũ
Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ
Thẹn hương sắc lau già vươn dậy
Làm tiên ông tóc trắng phất phơ.
Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống
Ta trên lưng món nợ ân tình
Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc
Cũng tình chung tơ nắng mong manh
Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh
Ngoài hư không có dấu chim bay
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?
Ta gọi kiến ngập ngừng mây bạc
Đường ta đi, non nước bồi hồi
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi
Non nước ấy trầm ngâm từ độ
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô
Ta đi tìm trái tim đã vỡ
Đói thời gian ta gặm hư vô.
(Tuệ Sỹ - Sàigon 1984)
Đó là lẽ sống của vạn loài cóc nhái, kiến rừng, ong bướm ... trên triền núi tuyết với sức sống không héo mòn, sung mãn tự thuở man nhiên.
Sáng nay bầu trời quang đãng, nắng lên cao cho tuyết trên đỉnh tan dần, pha loãng vào từng gốc cây, khe đá thấm sâu vào lòng đất. Cội thông ngàn năm của núi rừng vẫn luôn hiện hữu với lá hoa, mây ngàn, cỏ nội, khói đá, sương hôm... và nguyện làm cội thông hùng vĩ, cao chót vót trên sườn đồi trước khung cảnh bao la của trời đất.