Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Trầm Luân Lục Tử

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 7016)
05. Trầm Luân Lục Tử
BỨC TRANH THAY ĐỔI THẾ GIỚI
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Trầm Luân Lục Tử

Khách là một đại hán vạm vỡ, vận chiếc trường bào màu xám tro, nước da đen sạm; ngựa là một loại thiên lý câu sắc hung sẫm, bờm cao, bụng thon, lưng dài. Cả hai hình như đã vượt qua hằng ngàn dặm đường nên khi đến địa phận Trấn ma lâm, vó gõ trên mặt dốc sỏi không còn ngon trớn nữa mà chậm dần, chậm lại dần... Đến góc núi, bỏ đường lớn, người và ngựa thong thả nước kiệu qua ngọn đồi tràm và thông mọc lưa thưa chen lẫn đá hoa cương và đá tổ ong.

Khách và ngựa nhuốm đầy bụi đường, nắng gió và mồ hôi. Trên dặm mù thiên lý đến đây, đại hán đã giao đấu hằng chục trận với những hiệp khách bí mật, tự xưng là sứ giả của Phật môn. Họ không biết là bao nhiêu người, có ngoại hiệu là Trầm luân Tam tử Sát ác nhân, Trầm luân Ngũ tử Đoạn trần lao... Họ quả là xuất thần nhập quỷ, thiên mưu bách kế, võ công xảo diệu khôn lường... Thật khó đoán nổi ý đồ của họ. Dường như họ chỉ ngăn chặn, trổ lộng thần oai cốt để cho đại hán cùn nhụt ý chí, bỏ ý định tìm kiếm kho tàng trên đất Phật mà thôi.

“- Hừm!” - Đại hán cười gằn - “Dễ gì mà cùn nhụt được ý chí của dũng sĩ Hồ Bắc ta đã chứ!”

Cẩn trọng nhìn quanh, đôi mắt đại hán thoáng lay động sau hàng chân mày rậm rịt, chiếc nón rộng vành cắt một khoảng trời xanh lơ...

Bây giờ thì khách và ngựa đã dừng chân lại bên tàn cây sanh phủ rộng che khuất cả một khoảng suối. Đại hán bỏ nón, quấn cương, chậm rãi leo xuống yên rồi vỗ nhè nhẹ trên bờm ngựa ra chiều thân thiết. Ngựa cất tiếng hí dài, hai chân trước vỗ lộp độp xuống đất làm bắn tung tóe những viên sỏi nghe xào xạo.

Vầng kim ô đã bắt đầu ngã xế, núi rừng về chiều trông thật hoang quạnh.

Đại hán leo lên một tảng đá cao nhìn theo con đường mòn nhỏ nối liền cây cầu khỉ bắc ngang suối. Nhìn xa hơn nữa thì thấy một con đường đứt quãng hoặc chìm khuất nhiều nơi - nhưng cũng dẫn đến một chiếc thảo lư ẩn mình sau lùm cây rậm. Phía chính Nam , cách chiếc thảo lư khoảng mươi trượng là một phiến đá to bản, nhẵn thín, dựng đứng cao ngất - có lẽ là từ màu trắng sữa đã ngả màu rêu than - nhưng cũng nổi bật ba chữ đại tự màu tử mặc: Vô quy am với nét hành thảo sắc mạnh như những nhát kiếm. Một bụi trúc vàng như được mọc ra từ chân tượng đá vươn cao lên nền trời, phất phơ nhịp nhàng xuống lên như quệt vào hư không ngàn đời những nét chữ vô hình, mềm mại...

“-Đây rồi!”

Đại hán nói nhỏ lầm thầm, đôi mắt sáng rực lên rồi lần tay vào áo lôi ra một cuộn giấy da dê đã cũ vàng trải bên chân. Ở đó lờ mờ một bức tranh nom mường tượng khung cảnh này: Dòng suối, con đường, phiến đá trắng dựng thẳng cùng chiếc thảo lư. Ngoài ra còn rất nhiều chữ nhỏ chi chít, mũi tên đỏ, đen lẫn những khoanh tròn và khoanh vuông... Đây là bản đồ kho tàng của Phật môn - mà khó khăn lắm đại hán mới tranh đoạt được giữa chốn giang hồ.

Sau thời gian chừng mấy tuần trà chăm chú nghiên cứu bản đồ, thốt nhiên, bóng đại hán loang loáng nhảy qua tảng đá phía chính Bắc, tay phải vỗ nhẹ lên bắp đùi, phi thân lên một tảng đá cao. Một lát, rời tảng đá cao, bước xuống đất, đại hán bước qua trái chín bộ, bước qua phải mười tám bộ, bước tới hai bộ rồi ngừng lại. Ngồi xuống trước hai tấm đá hoa cương xếp chồng lên nhau, đại hán thò tay định nhấc lên... nhưng nghĩ sao, y dừng lại, đứng lên, ngó dáo dác xung quanh. Đại hán đứng rất lâu, dáng dấp to lớn, mảnh áo bào phất phới nom kiêu dũng với khí thế trùm trời đất. Nhìn lại một lượt nữa cây cầu khỉ, con đường, phiến đá trắng dựng đứng cao ngất, chiếc thảo lư, bụi trúc vàng... đại hán miệng lầm thầm, hai ngón tay không ngớt vạch, chỉ, đánh những con số. Lâu lắm, y gật gật đầu, vò tấm giấy da dê, mồi rác khô châm lửa đốt, trên môi thoảng nụ cười đắc ý.

Con ngựa bên gốc cây thình lình hí vang lên. Đại hán đảo người rồi quăng mình đi như sức bật của một mũi tên. Thế là chỉ trong nháy mắt, y đã trở về chỗ ngựa, chiếc mặt nạ che mặt không biết đã đeo lên lúc nào; thanh kiếm nhỏ và mỏng như lá mía, chẳng biết ở đâu cũng đã rút ra khỏi vỏ tự bao giờ! Mũi kiếm lay động không ngớt, đang trỏ thẳng vào yết hầu một Lam y dị khách đang nằm ngủ khoèo ở đấy!

Con ngựa vẫn thản nhiên gặm cỏ. Núi rừng hoàng hôn điểm những tiếng chim hót lẻ loi.

Đại hán chăm chú quan sát Lam y dị khách một hồi rồi cất giọng ồm ồm, gióng từng tiếng một, chấn động cả khu rừng:

- Trầm luân tử! Phải ngươi đấy không? Đừng ngủ nữa, dậy đi thôi!

Tiếng ngáy phì phò hình như lớn hơn để đáp lại, cũng vang dội không ngớt!

- Trầm luân tử! Ta hỏi lại, ngươi là Trầm luân thứ mấy?

Lam y dị khách trở mình, tay với bầu rượu ở bên lưng, rồi soải dài chân tay ra, ngáy nữa!

- Ngon lắm - Đại hán cười gằn - Ngươi có phải là Trầm luân Tam tử không? Đây là lần thứ ba, ta hỏi lại theo phép lịch sự giang hồ, bằng không...

Đại hán vừa nói xong thì một giọng cười rổn rảng từ bên kia suối vọng qua, rồi có tiếng nói như lệnh vỡ:

- Dũng sĩ Hồ Bắc! Ta đây mới chính là Trầm luân Tam tử! Trầm luân Tam tử Sát ác nhân chính thị là ta đây!

Đại hán giật thót mình, quát lên một tiếng, thân hình đã bay là đà qua suối. Khi hết đà, y dùng chân phải đạp lên chân trái, người lại lao vụt đi. Khe rộng hơn năm trượng, thế mà chỉ ba lần hụp xuống, nhô lên, y đã khoanh tay đứng trên một mô đất cao bên kia suối, tà áo phất phơ theo chiều gió lộng.

Người lạ cười hăng hắc:

- Hay lắm! Đẹp lắm! Cái thế Vân long tam hiện mà nhà ngươi sử dụng được như thế thì quả là ngoạn mục! Nhưng mà này, dũng sĩ Hồ Bắc! Sao ta không thấy mây, cũng chẳng thấy rồng - chỉ thấy rắn bò qua suối, rắn trườn qua suối... vậy ha? Buồn cười thật, buồn cười thật!

- Phường cẩu trệ! Đại hán quát to - Nếu là khách anh hùng thì hãy đường đường chính chính ra đây cùng ta ba trăm chiêu cho rõ tài cao thấp!

- Đâu nhiều thế! Đâu nhiều thế! Giọng nói bây giờ dường như đã gần lắm - Coi đây, đỡ!

Đôi mắt đại hán sáng như sao đêm, tai như mở ra đã đến độ chót, lắng nghe và ghi nhận hết mọi động tịnh trong khuôn vi mươi trượng. Khi giọng nói của khách lạ vừa dứt thì một làn gió bất thường nổi lên sau lưng. Đại hán nghe lạnh gáy. Y loang kiếm ra sau, vừa đúng lúc để đánh một vật to đang lao tới như luồng sao xẹt. Những làn kiếm bạc như hằng trăm con bạch xà chao lượn nô giỡn ở xung quanh. Có tiếng rách như lụa xé và những mảnh vụn gì đó bay lả tả. Định thần nhìn kỹ, đại hán mới biết đấy là chiếc nón rộng vành mà y đã để lại bên kia bờ suối!

- Hảo kiếm pháp! Hảo kiếm pháp! Khách lạ cười ha ha hi hi - Từ lâu ta đã nghe danh dũng sĩ Hồ Bắc ngươi là Nhất kiếm Trấn bắc phương! Quả là danh bất hư truyền! Hôm nay ta đã được mở rộng tầm con mắt! Phải lắm! Tiếng đồn quả không ngoa: Nhất kiếm chém nón mình! Nhất kiếm chém nón mình!

Đại hán tức giận tràn hông, hét lên một tiếng như muốn bật máu tươi, hàm răng cắn chặt lại, bộ râu quai nón rậm rạp hình như đều dựng ngược cả lên, đôi mắt trợn tròng, trắng dã! Gần ba mươi năm xuôi ngược giang hồ, chưa một lần nào y bị hạ nhục như thế, khí tức không biết trút vào đâu. Vì, trước sau, kẻ lạ mặt vẫn không thấy tăm bóng, chỉ có tiếng cười hì hì, ha ha, hả hả khi ngược, khi xuôi, khi Nam, khi Bắc, khi gần, khi xa mà thôi!

Bây giờ thì rõ ràng giọng nói đã ở bên kia bờ đối diện.

 - Dũng sĩ Hồ Bắc! Lão phu đã vô lễ vuốt râu hùm! Nhưng ở đâu có giang sơn nấy, rừng nào có hổ nấy, xin ngươi thông cảm! Suốt cả mạn Bắc mênh mông, ngươi tung hoành bá chủ chưa đủ sao - lại còn hăm he lùng sục kho tàng Phật mônNam phương này nữa? Ngươi nên nhớ... đây là thánh địa Trấn ma lâm! Kẻ nào hống hách, ngang tàng, coi thế gian như cỏ rác - thì sẽ “thân bại danh liệt” ở đất này!

Đại hán cất tiếng đáp:

- Trầm luân Tam tử! Ta đã nghe ra giọng nói của ngươi rồi. Nhưng hãy ra đây cùng ta tương kiến chứ?

- Xin lỗi! Xin lỗi! Lão phu vì nghe được mùi giấy da dê bị đốt khét lẹt ở đâu đây. Hóa ra dũng sĩ Hồ Bắc ngươi đã tìm ra được bản đồ kho báu rồi. Do vậy, lão phu cần ở trong bóng tối để giám thị hành động của ngươi đã... vì đây là Trấn ma lâm - ngươi phải hiểu như thế!

- Trấn ma lâm! Hay dữ a! Đại hán cười hắc hắc - Đừng đem cái tên ấy ra mà dọa ta. Ví phỏng ta không phải là ma? Mà thật sự ta sẽ đem đến tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho muôn sinh?

- Khéo nói, khéo nói! Ma Phật, Phật ma, pha mật! Phải rồi, cứ pha mật vào cho thật nhiều thì cái gì cũng trở nên ngọt ngào hết trơn hết trọi! Phải rồi, phương tiện biện minh cho cứu cánh. Lão phu biết rõ nhà ngươi đeo mang, khuân vác bên mình rất nhiều nhãn hiệu, rất nhiều nhân danh tốt đẹp, nhiều mỹ từ bóng lộn và cao quý... Nhưng mà trên đường nhà ngươi đi qua, biết bao nhiêu là máu tanh và mật ngọt được trộn lẫn! Kiến, ruồi, hương, trầm, hoa và cả quạ, kên kên nữa! Dưới gót ngựa mà nhà ngươi đã đi qua - đã dẵm lên biết bao nhiêu điện đài và thánh tượng thiêng liêng? Có phải thế không, dũng sĩ Hồ Bắc? Dầu nhà ngươi có nói ngọt, nói hay, có tuyên truyền, quảng cáo tếu táo, gian manh, quỷ quyệt, trơ tráo thế nào đó... thì nhà ngươi cũng chỉ làm tên chó săn cho ngoại bang, một tay đê tiện bán nước cầu vinh mà thôi! Ôi! Rêu rao danh nghĩa, anh hùng cho lắm - thì cuối đời cũng chỉ còn là một nắm cốt hôi!

Đại hán cất giọng trầm tĩnh:

- Cảm ơn nhà ngươi, Trầm luân Tam tử! Nói tếu nói táo như vậy mà đã mỏi miệng chưa? Bây giờ chuẩn bị rút kiếm ra đi!

- Khá lắm! Đởm lược lắm! Đến nước này mà nhà ngươi vẫn còn giữ được phong độ, cốt cách của một dũng sĩ, không thẹn mặt chút nào!Nhưng mà hãy để ý nhé, ở đây là...

- Trấn Ma Lâm! Ta biết rồi!

Đại hán cười lạt nói.

Có giọng cười hề hề rồi có tiếng đáp:

- Nhưng còn hơn thế nữa, bên kia còn có cái gọi là Vô... quy...

- Vô quy am?

- Phải rồi! Nhưng không chỉ có thế! Nó là: “Vô quy, khách vô quy. Mã đề bất khả phi...” Thôi, lão phu xin kiếu nghen!

Đại hán cắn chặt môi lại, quay lưng nhìn chiếc thảo lư... có tảng đá trắng dựng thẳng, những cành trúc mềm phất phơ nhịp nhàng như quệt vào hư không ngàn đời những nét chữ vô hình, mềm mại...

Tiếng cười dài của hiệp khách bí mật đã loãng ra xa, nhưng như còn vương vương ở đâu đó mãi tận cuối chân trời mù mịt...

 

Đại hán trở lại gốc cây thì Lam y dị khách và ngựa đã không còn ở đấy nữa. Một mảnh giấy còn để lại, găm lên thân cây bởi một chiếc lá sắc nhọn. Đại hán rùng mình, nghĩ thầm: Với công lực mà dùng chiếc lá để ghim giấy vào thân cây như thế này thì ta mới thấy lần thứ nhất ở trong đời! Bất giác, đại hán đưa mắt nhìn qua vùng trời Nam phương - thì chỉ thấy những dãy núi chập chùng, có những đỉnh nhọn cao tít tận mây xanh... và, mây bay bàng bạc với những cánh chim chập choạng ngàn đời cô lữ! Đại hán sực nhớ đến câu thơ của Lý Bạch nói về sự khó khăn khi qua đất Thục. Đại lược là: “Đường vào Thục khó hơn đường lên trời. Phía tây núi Thái Bạch mới có đường để chim bay sang đỉnh Nga Mi - còn con người thì không thể!” Ồ! Đường về Nam cũng vậy nào có khác chi? Nhưng ở đây còn có cả những cạm bẫy vô hình, ẩn mặt, có thể là: Một cành trúc mềm phất phơ trong gió như quệt vào hư không những nét chữ ngàn đời; là một phiến đá trắng dựng thẳng đã rêu than, nổi bật lên ba chữa đại tự Vô quy am như vệt đao chém!

Nghĩ đến ngang đây, đại hán lại rùng mình. Lâu lắm, đại hán cúi xuống nhìn mảnh giấy cứ cầm mãi trong tay mà chưa chịu đọc.

“- Vô quy, khách vô quy

Mã đề bất khả phi

Ngộ phùng thiên địa tuyệt

Quy hà? Quy hà vi?”

Nét chữ nguệch ngoạc, đại hán không lưu ý tới, mà chỉ để tâm nơi ý nghĩa hàm súc khó nắm bắt, khó hiểu. Thiên địa tuyệt, thiên lộ tuyệt, sơn khê tuyệt... đều có ý nghĩa bị vây khổn cả! Vô quy, không về; nhưng mà quy hà, về thế nào, về đâu? Quy hà vi, về làm sao, về đâu làm chi?... Đại hán đứng xuất thần như vậy rất lâu, lâu lắm...

- Thúc thúc bị lạc đường hay sao mà đứng một mình ngơ ngẩn giữa núi rừng như thế?

Một chú tiểu tóc còn để chỏm, gùi trên vai và chiếc gậy cầm tay - nước da hồng hào, đôi mắt tròn, to và đen, vận sơ sài một chiếc bào màu vàng khói đã vá đùm, vá đụp nhiều chỗ - ở đâu đó xuất hiện, nhìn y ra chiều quan tâm, han hỏi. Đại hán đổ mồ hôi dầm dề. Bình thường, một chiếc lá rơi cách mười trượng y cũng còn nghe được - nhưng sao tên tiểu sư phụ này đến cạnh bên lưng từ bao giờ mà y không hề hay biết?

Như chim sợ cung, đại hán đề khí nhảy vọt ra xa.

- Con gì vậy? Chú tiểu sốt sắng hỏi - Rắn, rít hay bò cạp cắn thúc thúc chăng? Không sao đâu, tiểu tăng là thầy thuốc mà!

Chú tiểu cởi gùi. Đứng quan sát, nhìn ngắm chỗ này chỗ kia một hồi, cúi xuống, tay vốc đất, nơi này một ít, nơi kia một ít, ngửi ngửi - rồi cười ngỏn ngoẻn lộ hàm răng trắng ngà.

- Không phải rắn, không có rắn, rít và bò cạp cũng không. Nhưng mà lại có mùi nước tiểu ngựa - mà ngựa nầy phải là ngựa miền Bắc, một loại ngựa quý có thể nhịn uống nước cả ngày và sức lại dai như thần mã! À, còn nữa! Dưới gốc cây này lại còn có mùi rượu trộn lẫn mùi mồ hôi của một khách đường xa. Thúc thúc vừa ngủ ở đây chăng? A! Sao thế? Thúc thúc làm sao thế?

Chú tiểu nói huyên thuyên. Đại hán càng lúc càng kinh dị, chòng chọc nhìn vào mọi cử chỉ động tịnh của chú tiểu. Bàn chân vô tình của chú tiểu bước tới thì bàn chân cố tình của đại hán bước lui! Cứ thế nửa khắc thời gian qua đi.

Đại hán dè dặt hỏi:

- Tiểu sư phụ hãy dừng chân lại cho ta được hỏi.

- Thúc thúc vì sao mà cứ thụt lùi mãi như thế? Có con gì cắn đâu!

Cả hai đã giữ nguyên khoảng cách.

- Tiểu sư phụ là ai? Đại hán rất căng thẳng, cẩn thận đề phòng - Lại đi đâu vào giờ này?

Chú tiểu cười:

- Là ai ư? Tiểu tăng làm sao mà biết cho được! Cái đó khó nói. Nhưng có điều rõ ràngcụ thể hiện tiền là, tiểu tăng vừa đi hái thuốc về, đầy cả một gùi đó, thúc thúc không thấy sao?

Chú tiểu vừa nói vừa đi tới bên gùi, tay chỉ, miệng nói lao thao:

- Hôm nay, đặc biệt, tiểu tăng chỉ đi kiếm thuốc độc mà thôi! Trên núi có, dưới nội có. À, để tiểu tăng kể tên các loại cây độc cho thúc thúc nghe. Nào là trẩu ne, sở ne, hồi núi nè, hương bài nè, chẹo nè, hột mát nè, ngọt nghẹo nè... Ối dào, thứ nào cũng đầy mình chất độc cả. Nhưng không sao. Tiểu tăng sẽ chế thuốc độc, biến độc dược thành lương dược để tế độ chúng sanh. Trong Phật môn có một thuật ngữchuyển y, chuyển mà y, y mà chuyển - cái đó mới nhiệm mầu! Chuyển tất cả. Chuyển ba độc tham sân si thành bi dũng và trí, chuyển xấu ra tốt, chuyển mê thành ngộ. Cái gì cũng chuyển sạch trơn, hết ráo trọi vậy!

Chú tiểu nói liến thoắng không ngừng. Đại hán đứng bất động, chân mày nhíu lại.

- Bình thường tiểu tăng vẫn đi hái thuốc về muộn như vậy mà! Chú tiểu đưa tay chỉ lên dãy núi xanh xa mờ mờ sương khói rồi tiếp - Thúc thúc thử nhìn coi! Tiểu tăng phải đi từ thung lũng Phù sa cương kia, bò qua Bát sơn đạo, lên đến Nhất trấn đế. Lên đó rồi còn phải xuống nữa chứ! Dẫu là thượng đế, hoàng đế, vương đế, chân đế, thánh đế... cũng không thèm ở lâu trển làm chi! Thế nghĩa là phải đi xuống. Nhưng mà xuống thì phải xuống như thế nào? Chẳng lẽ đi theo lối cũ mòn quen thuộc? Thế có nghĩa là phải đi theo con đường mới, lối khác. Xuống lối khác nghĩa là phải đi qua Lục trần lâm, không qua Lục trần lâm không được! Từ Lục trần lâm tiểu tăng phải vất vả dẫm qua thung lũng Trọng địa hoặc. Bỏ Trọng địa hoặc, men theo lùm bụi gai gốc mới xuống được đây - tức là cửa ngõ vào Trấn ma lâm vậy.

Chú tiểu đã ngưng nói. Đại hán càng lúc trán càng nhăn tít, thầm nghĩ: Những cái tên như Phù sa cương, Bát sơn đạo, Nhất trấn đế, Lục trần lâm, Trọng địa hoặc kia - có ẩn ý gì, cảnh cáo ta điều gì? Trấn ma lâm đã có nghĩa - thì những địa danh khó hiểu kia không phải là vô tình đâu!

Đại hán hỏi:

- Thế tiểu sư phụ ở đâu?

- Trời ơi! Chú tiểu dang hai tay ra - Phật ôi! Thúc thúc hỏi thế thì khó trả lời quá đi! Ở đâu? Biết đâu ở? Mà ở đâu lại không được? Đâu lại không được ở?

Đại hán đã tức giận:

- Mà quả thật, có phải tiểu sư phụ đi hái thuốc không?

- Phật ôi! Hồi xửa hồi xưa kia, cái ông Vương Duy đã ngớ ngẩn nói rằng: Chỉ tại thử sơn trung, vân thâm bất tri xứ! (Ở tại núi này thôi, mây dày không thấy lối) Chứ ở đây, thúc thúc và tiểu tăng, núi non và gùi thuốc - có gì đến nỗi mà thúc thúc nhìn không ra, không thấy, lại hỏi phải và không phải!

Một chiếc bóng nháng lên. Chú tiểu vừa thấy loáng mắt một cái là cổ tay mình đã bị nắm chặt. Hoảng quá, chú la lên:

- Thúc thúc làm gì vậy? Thả ra! Thả ra!

Đại hán cười lạnh:

- Bây giờ tiểu sư phụ phải khai thật - Trầm luân Lục tử là gì của tiểu sư phụ?

Chú tiểu cười ha hả:

- Hay, hay lắm! Thúc thúc hỏi hay lắm! Hồi nảo hồi nao tới giờ tiểu tăng chưa thấy ai hỏi đạo cao siêu và ý vị như thúc thúc. Được rồi, tiểu tăng sẽ trả lời, nếu có gì sai thì thúc thúc sửa sai cho tiểu tăng nghe!

Nghĩ giây lát, chú tiểu nói:

- Tiểu tăng xuất gia từ lúc bảy tuổi. Năm nay là mười lăm tuổi. Vì si mê ám độn, ba đời nghiệp chướng dày sâu nên sư phụ chưa cho học kinh mà chỉ cho học thuốc, đây là cái nghề có thể tích lũy phước đức. Cái đó gọi là... có công có quả mới không ngả tay chèo! Chèo đi đâu? Dĩ nhiên là chèo qua bờ kia, giác ngạn, bỉ ngạn đó! Hoặc là người ta cũng nói:thực lực mới vực được đạo! Thì in rằng cùng một nghĩa như nhau. Còn về những giáo pháp thâm sâu thì sư phụ chưa cho tiểu tăng mò tới, chỉ học tròm trèm năm câu bảy chữ chi đó mà thôi. Mà ối dào, Phật ôi! chỉ có năm câu bảy chữ mà cũng còn chữ nhớ, chữ quên mới tội nghiệp chứ!

Đại hán dường như không còn kiên nhẫn được:

- Thôi, nói lẹ lên, trời tối rồi!

- Vâng ạ! Để tiểu tăng nói, tiểu tăng nói ngay đây mà! Bọn quân tử Nho kia mà còn nói được: Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy - huống hồ gì tiểu tăng là Phật cháu, Phật con - có bao giờ dám nuốt lời. Bây giờ tiểu tăng vào chính đề đây. Trầm luân Lục tử ư? Trầm luân Lục tử tiểu tăng - mà tiểu tăng cũng chính là Trầm luân Lục tử. Phải mà không. Không mà phải. Nói ngược, nói xuôi gì cũng được cả. Nói một nói hai gì cũng đúng ráo trọi cả. Nhưng có điều... có điều...

- Có điều sao? Đại hán gắt.

- Vâng! Có điều... ngoài tiểu tăng không có Trầm luân Lục tử, ngoài Trầm luân Lục tử không có tiểu tăng! Mà eo ôi! Khi tuệ quán chiếu được mở ra - thì trong Trầm luân Lục tử chẳng có cái mốc xì nào là tiểu tăng cả mới chết chứ!

- Đừng nói quanh! Ta hỏi một lần chót, Trầm luân Lục tử là ai?

Đến phiên chú tiểu ngạc nhiên:

- Đừng nói giỡn! Thúc thúc đừng nói giỡn với tiểu tăng như vậy chứ! Ai lại bỡn cợt với kẻ tu hành, tội chết!

- Không có nói giỡn! Khuôn mặt đại hán đã thoáng nét cay độc - Tiểu sư phụ phải nói cho rõ: Y có trong am không?

Chú tiểu ngẩn người ra:

- Trong am ư? Trong am thì có biết bao nhiêu là Trầm luân Lục tử. Mỗi Trầm luân Lục tử đều giống nhau y hệt - nhưng mà lại khác nhau tuốt luốt. Chẳng cha nào giống cha nào, chẳng mèo nào giống mỉu nào! Ngay ở đây cũng đang có hai Trầm luân Lục tử - to và nhỏ, không to không nhỏ, chẳng bằng và chẳng cái không bằng! Eo ôi! Khó nói!

- Đâu? Đâu? Trầm luân Lục tử đâu? Ra đây! Thốt nhiên, y hét lớn - Ra đây! Trầm luân Lục tử! Hãy cùng ta ba trăm chiêu cho rõ tài cao thấp, chứ đừng ngấp nghé trong bóng tối như phường chuột nhắt, chuột cống, chuột chù, chuột hôi... như thế!

Đại hán đã buông hổ khẩu tay chú tiểu, nhảy ra xa. Núi rừng vẫn không tăm vọng.

Chú tiểu lầm bầm trong miệng:

- Chết cha rồi! Cái ông đại hán to lớn, đen đúa và dữ dằn như ông Trương Phi này bị “tẩu hỏa nhập ma” rồi. Cho đến trong ông ta cũng có một Trầm luân Lục tử mà không hay, không biết - lại đi thách chiến với những ông Trầm luân Lục tử nào ở bên ngoài!

- Tiểu sư phụ lầm thầm cái gì đó?

- Tiểu tăng nói là, trong thúc thúc cũng có một Trầm luân Lục tử đó!

Đại hán chợt bật cười rổn rảng:

- Trong ta ư? Đâu? Tiểu sư phụ chỉ cho ta coi thử xem nào!

Chú tiểu chợt trang nghiêm, cất giọng đều đều như trả bài:

- Nhãn căn đụng sắc trần phát sanh nhãn thức. Nhĩ căn đụng thanh trần phát sanh nhĩ thức. Tỷ căn đụng hương trần phát sanh tỷ thức. Thiệt căn đụng vị trần phát sanh thiệt thức. Thân căn đụng xúc trần phát sanh thân thức. Ý căn đụng pháp trần phát sanh ý thức. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là duyên cho điên đảo, đầu mối của điên đảo - nên còn được gọi là Trầm luân Lục tặc! Lục tặc hay Lục tử cũng đều trầm luân như nhau. ái trước, mê chấp, đắm say trong thế giới lục trần ấy nên chúng sanh đã lang thang vô định trong ba cõi sáu đường. Ấy gọi là sinh tử quẩn quanh. Ấy gọi là luân hồi xuôi ngược. Muốn chấm dứt khổ đau sinh tử thì phải làm sao chuyển hóa, giáo dục cho cái bọn Trầm luân Lục tặc ấy trở nên người tốt, người hiền - đừng có trầm luân làm chuyện đạo tặc, nghịch tặc nữa - nghĩa là biến thành cái dụng đại từ, đại bi để đem lại hạnh phúc và an vui cho mình và người, cho chư thiênnhân loại. Xin hết!

Nói xong, chú tiểu đứng nghiêm. Đại hán ngẩn người ra - y không còn biết nói gì nữa, hỏi gì nữa!

Đêm đã buông xuống rồi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17034)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38470)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21822)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21906)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69643)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6796)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38590)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43871)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 43958)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42773)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44269)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 22994)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39068)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21656)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42228)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35425)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46363)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 29969)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30697)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26114)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20270)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25464)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18393)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17027)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40636)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21626)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25766)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41304)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24807)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23672)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 14992)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19878)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37668)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19018)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17607)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23444)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40238)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19415)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21634)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35796)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28442)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28734)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32035)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26135)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24022)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24737)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54360)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant