Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1

18 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7432)
Phần 1

Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo

Lệ Như Thích Trung Hậu
Sưu tầm & giới thiệu


nhung-chuyen-co

flowerba

PHẦN 1

1. SỰ TÍCH CHÙA MỘT CỘT

Ngày xưa, vào đời Lý, vua Lý Thái Tôn là một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật, theo phái Vô Ngôn Thông.
Thuở bấy giờ, đạo Phật đang độ bành trướng, riêng triều đại này nhà vua truyền xây 95 ngôi chùa mới, trùng tu lại tất cả những tượng Phật và trong các dịp lễ lớn này đều ban tha thuế cho toàn dân.
Năm 1049, một hôm vua Thái Tôn nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra, đưa nhà vua đến một tòa sen rạng ngời ánh sáng. Sau khi tỉnh dậy, Vua thuật lại câu chuyện chiêm bao cho quần thần hay. Thiền tăng Thuyền Lã, vị sư đã hướng dẫn nhà sư trên đường đạo hạnh, bàn cùng nhà vua nên dựng một ngôi chùa để nhớ ơn đức Quan Âm.
Chùa Diên Hựu được dựng lên theo hình hoa sen, ở trên một cái cột lớn độc nhất giữa một cái ao trồng toàn sen gần kinh đô. Ngôi chùa kiến trúc đặc biệt theo nghệ thuật Đại la đời nhà Lý, tục gọi là chùa Một Cột. Ngày nay vẫn còn ở đất cố đô Thăng Long, ghi lại cuộc gặp gỡ kỳ ảo giữa ông vua mộ đạo với Phật Bà Á đông[1].
Khảo dị:
Chùa một cột ở phía tây Thủ đô, thuộc thôn Ngọc Thanh, khu Ngoc Hà. Nơi đó nguyên có một cái hồ hình vuông, giữa hồ có một cột đá, cao chừng hai trượng, chu vi chín thước, đầu trụ đặt một tòa chùa ngói đỏ, hình như một đóa hoa sen dưới nước mọc lên, người ta gọi là chùa Nhất Trụ hay là chùa Một Cột. Chùa xây từ năm 1049, tức là năm đầu niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo vua Thái Tôn nhà Lý.
Tục truyền khi ấy vua Thái Tôn tuổi đã cao mà chưa có con trai, thường đến cầu tự ở các chùa. Một đêm nằm chiêm bao thấy đức Phật Quan Âm hiện trên đài hoa sen trong một cái hồ vuông ở phía tây thành, tay bế một đứa con trai đưa cho nhà vua.
Sau đó nhà vua quả sinh được con trai. Nhà vua liền sai lập chùa Một Cột để thờ Phật Quan Âm. Khi chùa làm xong, nhà vua triệu tập hàng ngàn Tăng Ni đứng chầu chung quanh, tụng kinh suốt bảy ngày đêm, và lập thêm một ngôi chùa lớn ở ngay bên cạnh để thờ chư Phật, gọi là chùa Diên Hựu.
Năm 1105, vua Nhân Tôn nhà Lý cho sửa lại chùa, dựng lên một cây tháp bằng đá trắng gọi là tháp Bạch Tuynh, cao 13 trượng ở trước chùa Diên Hựu. Từ tháp Bạch Tuynh vào chùa Một Cột, đi bằng một hành lang cầu vồng. Mỗi tháng hai ngày rằm, mùng một, nhà vua cùng các hậu phi,cung tần và cận thần tới chùa lễ Phật. Đặc biệt là hằng năm cứ đến ngày tám tháng tư là ngày Phật Đản, nhà vua lại ngự ra chùa trước một đêm, giữ mình chay tịnh, ngày hôm sau làm lễ tắm Phật. Rất đông Tăng Ninhân dân các nơi tới dự, làm nên ngày hội lớn hàng năm ở thủ đô. Ngày ấy, trước chùa lại có một lễ lớn gọi là Lễ Phóng sinh. Lễ tắm Phật xong rồi, nhà vua đứng lên đài cao, tay cầm một con chim thả cho bay đi, rồi các tăng Ni và các nam nữ thiện tín, đua nhau mỗi người thả một con, bóng bay rợp trời.
Năm 1922, trường Viễn Đông Bác Cổ có sửa chữa lại, giữ theo đúng như quy chế cũ.
Đêm ngày 11 thánh 9 năm 1954, tay sai của thực dân Pháp, trước khi phải giao trả thủ đô cho Chính phủ và nhân dân ta, đã cố ý đặt mìn để phá hoại chùa Một Cột. Ngày sau khi tiếp quản thủ đô, chính phủ ta đã cho chiếu theo đồ dạng cũ, sửa chữa lại ngay; tháng 4 năm 1955, chùa Một Cột lại được hoàn nguyên như cũ.
Từ đầu 1958, cây bồ đề của đất Phật Ấn Độ kính tặng Hồ Chủ tịch nhân dịp Người đi thăm Ấn Độ, được đem trồng trong chùa.
Nói đến chùa Một Cột này, có một việc cần phải nói rõ là : chúng ta đọc sử về đời Lý-Trần, vẫn thấy nói đến “ An Nam tứ khí” nghĩa là bốn thứ kiến trúc lớn ở nước Nam[2], mà quả chuông ở trước Chùa Một Cột là một.
Theo sử cũ chép : Cũng về đời vua Nhân Tôn nhà Lý, vào năm Long Phù thứ tám (1108), nhà vua cho xuất kho một vạn hai ngàn cân đồng để đúc một quả chuông lớn gọi là Giác Thế Chung ( quả chuông thức tỉnh người đời) để treo ở chùa Diên Hựu, định mỗi khi đánh một tiếng chuông, tiếng sẽ vang đi mấy dặm. Xây một tòa phương đình toàn bằng đá xanh, cao 8 trượng, trên nóc đình bắc những đóng sắt to để treo chuông. Xây đình và đúc chuông, hơn một năm mới xong, hàng ngày các nơi phải thay nhau đưa dân phu đến phục dịch. Thân hình quả chuông không biết to lớn thế nào, chỉ biết khi đúc xong không thể nào treo chuông lên được, đành cứ phải để chuông đứng sát mặt đất, nên đánh chuông không kêu. Rồi bao nhiều lần dồn ép hàng ngàn người xúm vào ra sức vần xoay, kết cục chỉ vật ngã được quả chuông lăn kềnh trên mặt ruộng. Lúc đầu người ta còn làm mái che chuông, lâu ngày chẳng ai đoái hoài, mặc cho chuông nằm phơi mưa gió. Nơi chuông nằm lại vốn là một ruộng nước, lòng chuông trở thành cái tổ êm ấm cho từng đàn rùa chui ra chui vào. Vì vậy chuông lại được mang cái tên là chuông ruộng rùa.
Chuông bị dải dầu như thế đến hơn ba trăm năm. Năm 1427, bọn phong kiến nhà Minh sang xâm chiếm nước ta đã hai mươi năm, bị quân dân ta do Bình Định Vương lãnh đạo kháng chiến anh dũng, phải rút về cố thủ ở thành Đông Quan ( tức Hà Nội), rồi bị quân ta vây hãm hơn hai tháng, lương thực bị thiếu thốn, khí giới đạn dược cũng hao mòn, chúng phải vơ vét hết các đồ đồng ở dân gian, rồi đến cả phần thân trên bằng đồng của tháp Báo Thiên và quả chuông ruộng rùa này để đúc sung đạn, nhưng kết cục chúng cũng phải đầu hàng quân ta, cuốn giác về nước.
Về sự tích chùa Một Cột này lại có một truyền thuyết nói rằng: Bà Linh Nhân Thái hậu, vợ vua Thái Tôn nhà Lý, không sinh đẻ, tính lại cả ghen, bà sai Thái giám bắt giam 72 cung nữnhan sắc, thường được chầu hầu nhà vua, giam vào phòng tối ở cung Thượng Dương; tới khi vua Thái Tôn mất, bà lại bắt 72 người ấy phải chịu chôn sống để chết theo vua.Sau bà hối hận, dựng 72 ngôi chùa để siêu độ các oan hồn. Chùa Một Cột này là một trong 72 ngôi chùa ấy.
(Cổ tíchThắng cảnh Hà Nội, Doãn Kế Thiện, NXB Hà Nội 1999)

2.SỰ TÍCH DƯA HẤU

Ngày xưa, có một người trẻ tuổi tên là Mai An Tiêm. Chàng là người ở một nước đâu tận vùng biển phía Nam, bị bán làm nô lệ. Một hôm, chàng bị bọn lái buôn chở đến bán cho Hùng Vương. Mai An Tiêm học nói tiếng Việt rất chóng. Chàng nhớ nhiều chuyện, biết nhiều điều thường thức, lại lắm tài nghề. Càng ngày Vua càng yêu dấu,không lúc nào rời. Năm ba mươi lăm tuổi, chàng làm quan hầu cận, có một ngôi nhà riêng ở gần cung vua. Vợ Mai là con gái nuôi của Vua năm đó đã hạ sinh được một trai lên năm tuổi. Mai có đủ mọi người hầu hạ trong nhà, của ngon vật lạ không thiếu thứ gì. Tuy oai quyền không lớn lắm, nhưng chàng được mọi người sợ phục. Nhiều kẻ vẫn thường lui tới cầu cạnh. Nhưng thấy Mai có địa vị cao cũng không hiếm gì những kẻ đâm ra ghen ghét.
Một hôm, trong một bữa tiệc đãi quan khách, giữa lúc mọi người không ngớt xưng tụng mình, Mai An Tiêm nhún nhường bảo họ:
-Có gì đâu! Tất cả mọi thứ trong nhà này đều là vật tiền thân của tôi cả.
Mai nói rất tự nhiên. Bởi vì tôn giáo ở xứ chàng bảo rằng cái sướng cái khổ hiện tại là kết quả của sự ăn tốt ở xấu của tiền kiếp. Nhưng trong số những người dự tiệc có mấy viên quan hầu gần vua, vốn ghét chàng từ lâu. Chụp lấy câu nói mà họ cho là ngạo mạn đó, bèn vội vàng về tâu cho vua biết. Vua Hùng nghe nói vô cùng giận dữ. Vua gầm lên:
-Chà! Thằng láo! Hôm nay nó nói thế, ngày mai nó còn tuôn ra những lời bất kính đến đâu. Quân nộ lệ phản trắc. Giam cổ nó lại cho ta!
Buổi chiều hôm đó, Mai bị bắt bỏ vào ngục tối, bấy giờ chàng mới hiểu mình nói lỡ lời. Mai tự bảo: “ Nếu từ nay trở đi ta bị đày đọa là vì kiếp trước[3] đã cư xử không tốt”.
Trong khi đó thì ở triều, các quan họp bàn để xử án Mai. Nhiều người đề nghị xử tử Mai. Có người đề nghị cắt gót chân, Nhưng lời tâu của một ông quan già làm cho Vua Hùng chú ý:
-Hắn bị tội chết là đúng. Nhưng trước khi hắn chết, ta nên bắt hắn phải nhận một cách thấm thía rằng những của cải của hắn đấy là do ơn trời biển của bệ hạ chứ chẳng phải là vật tiền thân nào cả. Tôi nghe ngoài cửa Nga Sơn có một hòn đảo. Cho hắn ra đấy với một hai tháng lương để hắn ngồi ngẫm nghĩ về “vật tiền thân” của hắn trước khi tắt thở.
Vua Hùng gật đầu đồng ý. Nhưng sau khi ra lệnh , Vua Hùng còn dặn:
-Cho hắn lương vừa đủ dùng trong một mùa nghe không!
Hôm đi đày, tuy ai nấy hết lời can ngăn, nhưng vợ Mai An Tiêm cương quyết theo chồng ra hải đảo. Nàng bế cả con trai đi theo. Tất cả mọi người đều cho là việc rồ dại. Nàng thì tin ở lời chồng : “ Trời sinh voi trời sinh cỏ. Lo gì!”.
Nhưng khi bước chân lên bãi cát hoang vu mịt mù thì người thiếu phụ đó cũng không ngăn nổi cảm giác tủi thân, nức nở gục vào vai chồng:
-Chúng ta đành chết mất ở đây thôi.
Mai ôm con, bảo vợ:
-Trời luôn luôn có con mắt. Cứ phấn chấn lên. Đừng lo!
Hơn một tháng đầu, đời sống của vợ chồng đã tạm ổn.Nhà ở thì chiu trong hốc đá đã được đan phên che sương gió. Nước uồng thì đã có suối. Muối không có thì đã có nước biển.Nhưng còn việc kéo dài sự sống? Hai vợ chồng nhìn vào bồ gạo đã vơi:
-“Nếu như chúng tamột nắm hạt giống thì quyết không lo ngại gì cả”.
Tự nhiên, một hôm có một đàn chim lớn bay từ phương Tây lại, đậu đen ngòm cả một bãi cát. Rồi chúng bay đến trước hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi. Dây bò đến đâu những quả xanh non mơn mởn nhú ra đến đấy. Ít lâu sau nữa, vợ chồng ra xem thì quả nào quá nấy đã lớn lên như thổi, da xanh mượt, tròn to bằng đầu người.Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột đỏ hồng, hạt đen nhánh. Vợ chồng con cái cùng nếm thấy vị thanh thanh dịu ngọt. Càng ăn càng mát đến ruột gan. Mai reo lên:
-Ồ, đây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa Tây, vì thứ này được bầy chim đưa từ phương Tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống chúng ta rồi!
Từ hôm đó hai vợ chồng cố trồng cho thật nhiều dưa. Họ trù tính ăn dưa thay cơm để đỡ phải dùng số gạo đã gần kiệt.
Một hôm vợ chồng Mai bắt gặp một chiếc thuyền đánh cá đi lạc ra đảo. Sau khi giúp họ sửa buồm lái để về đất liền, Mai còn đưa biếu một số dưa để họ đưa về cho mọi người nếm thử. Mai bảo họ chở gạo ra đổi lấy dưa. Chỉ cách mấy ngày, con thuyền thứ nhất đã đến cắm neo ở bến, chở ra cho hai vợ chồng khá nhiều gạo. Hai bên y ước: Một bên nhận lấy số gạo còn một bên xếp dưa xuống thuyền.
Từ đó trở đi, bữa ăn của họ đã khác trước. Ngồi bên nồi cơm trắng, hơi bay lên nghi ngút, vợ Mai ôm lấy con lẩm bẩm: “ Trời nuôi sống chúng ta thực!”. Cũng từ hôm đó, vợ chồng trồng thêm nhiều dưa nữa. Kết quả là thuyền buôn có, thuyền chài có, lũ lượt ra đỗ ở hải đảo đưa gạo, áo quần, gà lợn, dao búa,lại có cả các thứ hạt giống khác, để đổi dưa. Những người trong thuyền nói với Mai:
-Thật quả từ xưa đến giờ chưa hề có hạt dưa nào quý đến thế. Ở vùng chúng tôi ai cũng ao ước được nếm một miếng thứ “ dưa hấu” này dù phải đổi lấy bao nhiêu gạo cũng không tiếc.
Ngày ấy người ta tranh nhau mua dưa lấy giống, cho nên chỉ trong vài ba năm, giống dưa lan tràn khắp nơi.Tên tuổi vợ chồng Mai An Tiêm được truyền đi xa rộng. Dân gọi tôn là “ Bố cái dưa Tây”.
Lại nói chuyện vua Hùng, một hôm la rầy viên quan hầu vì dốt nát để thợ dựng hỏng một ngôi nhà. Vua buộc miệng than thở:
-“Phải chi có Mai An Tiêm thì đâu đến nỗi”.
Ngày hôm đó vua nhắc mãi đến chàng. Đã hai lần vua cho hỏi Lạc hầu xem hiện giờ Mai đang làm gì, ở đâu. Lạc hầu đáp liều:
-“Chắc hắn không còn nữa!”.
Nhưng vua không tin. Vua sai ngay một tên nô lệ khác cấp cho thức ăn và thuyền để hắn vào châu Ái tìm Mai An Tiêm. Một tháng sau, hắn ta mang về cho vua một thuyền đầy dưa Tây và nói:
-Đây là lễ vật của ông bà Mai dâng Bệ hạ.
Hắn kể cho Vua biết rõ những ngày tân khổ và tình trạng hiện nay của hai vợ chồng Mai. Rồi hắn tâu tiếp:
-Bây giờ ông bà Mai có nhà cửa ở ngoài ấy khá đẹp, có đến hơn mười người hầu hạ, có bãi dưa, có ruộng lúa, rất nhiều gà, lợn…
Vua Hùng càng nghe càng sửng sốt…Vua chắt lưỡi bảo mấy viên quan hầu cận ngày nọ đã tố cáo Mai:
-Hắn bảo là vật tiền thân của hắn, thật đúng chứ không sai!
Vua bèn sai một đoàn lính hầu đi đón hai vợ chồng Mai về, cho Mai trở lại chức cũ. Vua lại ban cho hai người con gái hầu để an ủi chàng.
Bấy giờ chỗ hải đảo, người ta còn gọi là bãi An Tiêm.Những người kế tiếp công việc của hai vợ chồng Mai trên đảo vẫn còn dòng dõi đông đúc. Họ lập thành làng gọi là làng Mai An. Ở ngôi nhà cũ của Mai thì họ lập đền thờ hai vợ chồng chàng. Nhân dân gọi là “Ông bà Tổ dưa Tây (hay dưa hấu)”.[4]

3.SỰ TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG

Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng Nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, vừa vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài.
Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề gõ đầu trẻ để náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt Nam thì cũng bắt đầu giết hại những người từng làm quan cho nhà Tây Sơn, Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: Tư mã, Quận công thì lăng trì, tùng xẻo; Vệ úy, Phân suốt thì đánh gậy, phạt roi…
Dân trong xóm sẵn lòng quí mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại.
Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi.Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.
Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường.Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà Lơn, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà.
Nàng là con gái chưa chồng, đã đến chỗ quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị.Tự nhiên anh chàng trai người Việt ở tận đâu xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến.
Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây, chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng, nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm được cả.
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quit với nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây “tu rên” mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ đưa cho chồng ăn. Quả “tu rên” vốn có mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:
-Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
Không ngờ một năm kia, vợ chàng đi dâng hương Đế Thiên Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp.Cái chết chia rẽ vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa trọn đời sẽ không nào xa rời chồng.
Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê chàng nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết là sẽ theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây “tu rên” tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả “tu rên” đó tự nhiên rơi ngày vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về xứ sở.
Chàng trai trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt “tu rên” thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý.
Những cây “tu rên” của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm sóc đã bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hành làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng.
Khi những quả “tu rên” bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón:
-…Nó xấu xí, nó hôi, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp dẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ…
Ông ta vừa nói vừa xẻ những quả “tu rên” chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi “ tu rên” muốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý dấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi “tu rên” đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi “tu rên” như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.
Sau đó đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà tự nhiên chết. Từ đấy, mỗi lần dân làng ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi “tu rên” bằng hai tiếng “ sầu riêng” để nhớ đến mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta lại còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là thứ sầu riêng có quả ngon hơn các thứ khác.[5]

4.SỰ TÍCH CÂY HUYẾT DỤ

Ngày xưa, có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thúc chú tiểu dậy, gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông chùa làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: “ Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!” rối rít. Sư cụ hỏi người đàn bà:
-A Di Đà Phật! cứu mạngcứu thế nào? Bần Tăng phải làm gì đây?
Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời:
-Ngày mai xin Hòa thượng hãy cho đánh chuông chậm lại, như vậy mẹ con chúng tôi rất đội ơn.
Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.
Lại nói chuyện hôm ấy, bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thi khi đưa ra đến chợ, chợ đã vắng người rồi. Tức mình vì lỡ mất buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ cho biết câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm, không phải lỗi tại mình.
Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà mình thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái trong chuồng mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự việc lạ lùng:
-Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết.
Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sanh chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.[6]
Khảo dị
Truyện trên chắc chịu ảnh hưởng của Phật thoại, nó được nhân dân lưu truyền khá rộng. Có thể so sánh với truyện “ Rắn báo oán” ( số 157, tập 4).
Trong Bản quốc dị văn lục có kể truyện trên và cho rằng sư cụ chính là bố của Nguyễn Xí, người làng Lê Xá, huyện Chân Phúc ( tức Nghi Lộc), Nghệ An, tên là Trị. Cuối đời Trần thi không đỗ, ông bỏ đi tu, tu trì ở chùa làng, lấy tên là Hòa Nam thiền sư. Sau khi nghỉ đánh chuông để cứu người đàn bà trong mộng ( tức mẹ con con lợn), sư bèn bỏ tiền mua lấy đàn lợn ấy của bác đồ tể rồi đem thả chúng vào rừng. Về sau sư bị hổ giết, mối đùn thành mộ, nhưng con cháu nhà sư thì từ đó trở đi điạ vị rất cao ở triều đình nhà Lê. Người chép truyện có ý nói đó là nhờ mẹ con con lợn báo ơn một cách huyền bí mới được như thế.
Một truyền thuyết về Nguyễn Nghiễm cũng có một nội dung tương tự:
Nguyễn Nghiễm-là cha của thi hào Nguyễn Du-một lần về chơi quê nhà, một đêm mộng thấy một người đàn bà đến cầu cứu mình:
-Xin cụ làm ơn cứu mạng, Con đang có thai được mẹ tròn con vuông là nhờ ơn cụ.
Tỉnh dậy, ông không hiểu thế nào cả. Nhưng sau đó bỗng thấy có người đến biếu một con cá chép rất to vừa đánh lưới được. Trông thấy con cá có chửa, ông nhớ đến giấc mộng hôm qua, liền sai người nhà đem thả xuống sông. Đêm hôm ấy, lại mộng thất người đàn bà nọ đến cảm ơn mình[7]. Từ đấy họ Tiên Điền có tục kiêng ăn cá chép.[8]

5.SỰ TÍCH KHUÔNG VIỆT ĐẠI SƯ

Thiền Uyển Tập Anh kể rằng: Sư ở chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc[9]. Người Cát Lợi, họ Ngô, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế. Sư tướng mạo khôi ngô, tính phóng khoáng , nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học Trụ Trì đến Thiền sư Vân Phong chùa Khai Quốc, thọ giới Cụ Túc. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Năm bốn mươi tuổi, danh sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng Thống. Năm Thái Bình thứ hai (971), vua ban hiệu Khuông Việt Đại sư.
Hoàng đếĐại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều dự vào.
Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm tới nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: “ Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ Xoa. Thiên Đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết”. Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu là ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt, đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng để thờ.
Năm Thiên Phúc thứ I (981), binh Tống đến quấy nước ta.Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ.
Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta.Bấy giờ Pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang Khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: “ Ngoài trời lại có trời soi rạng”. Vua đưa hỏi Sư, Sư thưa rằng: “Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với Chúa nó không khác”. Khi Giác trở về, Sư làm một bài từ nhan đề Vương Lang qui để tiễn đưa. Bài từ như sau:
Trời lành gió thuận, gấm buồm giương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu Thượng hoàng.
Sau, Sư lấy cớ già yếu, xin từ quan về núi Du Hí ở quận mình, lập chùa Trụ trì; người học tìm tới đông đảo. Một hôm, đệ tử nhập thấtĐa Bảo hỏi: “Thế nào là chung thủy của sự học đạo?”
Sư đáp:
“Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân như, thể tự đồng”.
Bảo tiếp: “ Làm sao đảm bảo được?”
Sư đáp: “ Không có chỗ cho người xuống tay”.
Bảo nói: “ Hòa thượng nói xong rồi”.
Sư lại hỏi: “ Ngươi hiểu gì?”
Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) triều Lý, khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng.”
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi[10](933-1011).
( Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch,NXB.TPHCM-1999).

6.HUYỀN THOẠI THIÊN MỤ

Theo “ Nam Triều Công nghiệp diễn chí” của Nguyễn Khoa Chiêm kể thì:
“Một hôm chúa Nam nhân nhàn hạ đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, chẳng đâu không khắp. Khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa chốn đồng bằng động khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan Vương Nguyễn Hoàng trong bụng lấy làm ưa thích, bèn trèo lên đồi cao nhắm nhìn xung quanh, chợt thấy một đoạn hào đào cắt ngang dưới chân núi. Nguyễn Hoàng thầm nghĩ lấy làm đáng tiếc, chưa biết nguyên do ra sao. Sau đó Đoan Vương tìm người địa phương hỏi thăm ngọn đồi kia tên gọi là gì. Người địa phương thưa rằng:
-Chúng tôi là dân mọn, chỉ nghe lời truyền của các cụ ngày xưa rằng: Núi này rất linh thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên Đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem những nơi nào có vượng khí linh thiêng thì tìm cách cắt yểm đi, ý là muốn cướp đoạt nước Nam ta. Cao Biền thấy trên núi này có khí thiêng bàn đào phía sau chân núi để cắt mạch đi khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ, nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân núi kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc Quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không thì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong liền biến mất. Dân trong vùng ghi nhớ lấy hình dáng bà ấy đặt tên là núi Thiên Mụ. Ấy là sự tích người xưa truyền lại như thế, đúng sai ra sao, bọn dân chúng tôi không biết rõ, mong tôn ông minh xét.
Nguyền Hoàng nghe nói cả mừng bảo rằng:
-Ấy là bà lão bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để nên nghiệp lớn.
Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật, viết biển đề chữ “ Thiên Mụ Tự”. Từ đó dân chúng tới cầu khẩn đều thấy linh thiêng ứng nghiệm”.
(Chùa Thiên Mụ của Hà Xuân Liên, NXB.TH,2000)

7.SỰ TÍCH CHIM TU HÚ

Ngày xưa có hai nhà sư, Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ khi còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian dài tu luyện thì bỗng một hôm Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chính quả.
Bất Nhẫn thấy mình không kém gì bạn mà không được hưởng cái may mắn sớm như bạn thì rất buồn bực. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật, bày tỏ lòng chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng:
-Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, lại là người trong sạch, thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà người vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ rõ tấm lòng nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ rồi sẽ theo bạn cũng chưa muộn.
Bất Nhẫn nghe lời, bèn lên núi chọn một gốc cây, bắt chước người xưa, ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm dù có phải thế nào cũng không chịu dậy.
Và từ hôm đó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu, con kiến bò khắp mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng. Những con chim ỉa phẹt lên đầu chàng. Chàng đều không hề bận tâm. Chàng chỉ một mực tâm tâm niệm niệm những nghĩa lý cao thâm của đạo Phật.
Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết liễu cuộc tu luyện. Tự dưng một hôm, có hai vợ chồng con chim chích ở đâu đến làm tổ ngay trong vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm, Chúng đi về tha rác lên đầu, lên mặt.Rồi chim mái đẻ trứng.Rồi cả một thời kỳ hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Cho đến lúc trứng nở, những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc ấy chỉ còn mười ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm đó, đến lượt con chim vợ đi tìm thức ăn cho con. Suốt cả một buổi chiều nó vẫn không kiếm được chút gì. Mãi đến gần tối, lúc lượn qua một cái hồ, chim vợ mối thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn mình vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công tìm mãi. Không ngờ hoa sen vừa tắt ánh mặt trời đã cụp ngay những cánh lại, nhốt chim vào trong. Chim cố công tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá đành chịu nằm lại đó.
Ở nhà, chim chồng hết bay đi kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm. Mãi đến sáng mai, chờ lúc hoa sen nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc cải lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng mắc nhiếc vợ hết lời. Nhưng chim vợ vẫn hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài hết cả một buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào đó, đàn con khóc đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim cãi vả đến chỗ găng nhất, Bất Nhẫn bỏ tay lên tai giật cái tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói:
-Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện đó mà chúng mày làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ.
Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát.
Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy xiết, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho đến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay.
Lần này Bất Nhẫn tỏ ra là người rất nhẫn nại. Tuy bến sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sống tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ một trận mưa lớn. Giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Hắn có vẻ là vợ một viên quan sở tại, chưa bước xuống thuyền đã dọa Bất Nhẫn:
-Chú nhớ chèo cho vững nghe không. Che mui cho kín.Nếu để chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quắn đít đó.
Nghe nói thế Bất Nhẫn đã hơi bực, nhưng chàng nín được và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười đáp:
-Bà và cậu đừng sợ gì cả.Tôi xin cố sức.
Rồi chàng vận dụng hết tay nghề để đưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên:
-Ta quên khuấy đi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở cái quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối, chật vật lắm chàng mới đưa được gói hành lý sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ kêu lên:
-Thôi rồi! Còn một đôi giày của thằng bé bỏ ở gầm giường. Thế nào nhà ngươi cũng phải gắng sang lấy cho ta một lần nữa.
Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẫn đã giơ tay chỉ vào mặt:
-Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có phải sinh ra để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu.
Nhưng người đàn bà ấy vốn là đức Phật Quan Âm hiện hình xuống thử lòng người đệ tử khổ tu đó, bây giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng:
-Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu, có mà tu hú!
Bất Nhẫn thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi.
Phật Quan Âm sau đó bắt Bất Nhẫn hóa thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật bà Quan Âm.[11]
Khảo dị
Truyện này có thể bắt nguồn từ một Phật thoại hay một ngụ ngôn nhà chùa.Nhưng nó đã được nhân dân thêm thắttruyền tụng khá phổ biến. thi sĩ Trần Kế Xương đã diễn tả đoạn đầu theo điệu lục bát thành truyện thơ nhan đề là “ Năng Nhẫn Bất Năng Nhẫn hành”.[12] Trong ca dao Việt Nam có một bài kể nỗi oan của con chim chích mái, cũng rút từ truyện cổ tích trên.
Ông Tô Tử lên chơi trên đỉnh núi,
Thấy hai vợ chồng con chim chích,
Chín tháng mười ngày đủ cánh mọc lông,
Vợ để con cho chồng, bay đi kiếm chác;
Lạ thung thổ, mồi thời không được,
Bước chân ra về thấy nhện chăng tơ.
Mãi vui chơi bắt nhện nào ngờ,
Khi âm tối, hoa sen cụp lại.
Chồng thì mong, con thì bỏ đói,
Hết dỗ đứng dỗ ngồi, ra ngõ liền trông.
-Kìa kìa gái năm con chửa hết lòng chồng,
Còn say đắm về bên hoa nguyệt.
-Tôi thề có trời xanh nước biết,
Núi non thề với nước non,
Nào ai phụ rẫy chồng con, đã trời?[13]
Xem thêm các truyện “ Sự tích con nhái” số 10, “ Sự tích Cá he” số 13 và “ Sự tích ông Bình vôi” số 22, đều ít nhiều có tính chất Phật thoại và tương tự phần nào với truyện này về mặt chủ đề.

8.SỰ TÍCH CON NHÁI

Ngày xưa có một vị Hòa thượng trẻ tuổi nội tiếng chân tu. Mọi “thị dục” của bản thân, Hòa thượng đều cương quyết cắt đứt, chỉ một lòng chuyên chú vào lẽ hư vô của đạo Thiền. Nhà vua nghe tiếng, vô cùng kính trọng, mời về kinh đô, ban chức Quốc sư và sai tu bổ một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành để sư tu trì. Nhưng hòa thượng từ tạ vua, chỉ xin phép đi xem chùa chiền, cảnh đẹp trong thiên hạ.
Một hôm, Hòa thượng một mình tìm đến một ngôi chùa xa ở vùng Bắc. Ở đó có một vị sư bạn trụ trìHòa thượng lâu ngày chưa gặp.
Từ lâu Phật Bà Quan Âm đã nghe tiếng đồn về Hòa thượng này. Lần này nhân cuộc đi chơi của Hòa thượng, Phật bà định bụng thử xem con người đó như thế nào. Nếu quả đúng là chân tu thì Phật Bà sẽ đưa về Tây Trúc độ cho thành Phật.
Lúc Hòa thượng sắp qua một con sông rộng, Phật Bà hóa thành một cô gái rất trẻ đẹp chống đò cập bến chờ khách quá giang. Hôm ấy cũng theo phép mầu nhiệm của Phật Bà, khúc sông đó trở nên vắng vẻ, người và thuyền bè qua lại rất ít. Khi Hòa thượng chui vào trong khoang đò thì cô gái nhổ sào chèo ra giữa sông. Đoạn nàng bẻ lái cho thuyền tiến đến một bãi cát vắng đậu lại. Hòa thượng lấy làm lạ, hỏi cô gái vì sao không đi thẳng qua bờ bến kia? Cô gái chỉ đợi có câu hỏi ấy là buông chèo, cười một nụ cười rất tình tứ rồi cũng chui vào khoang trả lời một cách cợt nhã là thấy sư quá đẹp trai nên cắm sào lại đây cầu xin được ân ái. Hòa thượng vốn nghe nói con gái ở vùng này có nhiều người đáo để nên nghiêm nét mặt lại:
-A Di Đà Phật! Mong người trần giới buông tha cho kẻ tu hành này.
Nhưng cô lái đò đâu có buông tha, cô sán lại gần gợi tình. Hòa thượng không nói gì, lẳng lặng mở gói lấy cuốn kinh Kim Cương tam muội ra tụng. Tiếng đọc của Sư mỗi lúc một lớn, át cả tiếng nói của cô lái đò. Nhưng cô lái đò vẫn cười nói không thôi. Rồi cô che tay lên quyển kinh. Hòa thượng ngoái cổ nhìn ra ngoài đò rồi nghiêm khắc cảnh cáo:
-A Di Đà Phật! Trong người bần Tăng hiện có một tờ lệnh chỉ của Hoàng đế. Trong đó Hoàng đế đã ra lệnh là hễ người nào phạm vào người bần Tăng sẽ bị án trảm quyết. Vậy bần tăng mong người đứng phạm vào phép của thiên tử.
Lời dọa của nhà sư không làm cho cô gái nhụt một chút nào. Cô nói:
-Em đang muốn chết đây! Em chỉ mong chàng đoái thương một tí rồi chết cũng thỏa.
Nhưng hồi lâu, thấy lòng nhà sư không chuyển, cô lái đò lại thi hành một mưu khác, cố quyến rũ cho bằng được. Cô bắt đầu cởi áo ra. Khi chiếc yếm cổ đuôi nhạn bỏ xuống thì Hòa thượng nhắm mắt lại. Hòa thượng quay về phía cái gói lấy chiếc áo của mình khoác vào người nàng. Trong khoang đò chật chội, tay Hòa thượng vẫn lần tràng hạt, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh. Trong khi đó những tiếng của cô gái như mật rót vào tai:
-Chàng thương em một tý….Chàng nhìn ra ngoài xem, không có một ai cả…
Nhưng vô hiệu.
Phật Bà Quan Âm rất cảm động. Những người con Phật như thế này rất xứng đáng chiếm một chỗ ngồi trên Nát-bàn. Nhưng đã thử thì phải thử cho trót. Lần tấn công thứ chín, cô lái vẫn bị cự tuyệt. Hơi thở của cô con gái trẻ và đẹp phảng phất ở trên má, nhưng nét mặt của Hòa thượng vẫn không thay đổi.
Nhưng đến lần thứ mười, cô gái không ngờ thành lũy tưởng kiến cố lại bị hạ một cách quá bất ngờ. Bàn tay Hòa thượng tự nhiên run rẩy bỏ lên mình nàng. Thôi thế là chỉ trong một phút, vứt hết hơn hai mười năm tu luyện.
Thế là chuyến đó Phật Bà Quan Âm không được hài lòng. Giận vì Hòa thượng đã thiếu kiên trì trước sự cám dỗ của “thị dục”, mà đã như thế thì thanh danh cũ không còn đáng đếm xỉa nữa, nên Phật bà đã nắm lấy cổ Hòa thượng vứt ngay xuống sông như người ta vứt một cái rác. Như thế mà Phật bà vẫn chưa cho là đáng tội, nên còn bắt hóa thành loài nhái, là một loài động vật hạ đẳng. Cũng vì thế mà người ta nói rằng ngày nay dòng dõi loài nhái cũng còn giữ cái thói quen của tổ tiên, ví dụ khi chúng bị chặt đầu, chúng vẫn chắp hai chân trước lại với nhau như người đang vái[14]
Khảo dị
Người miền Bắc có truyện “Sự tích con ếch” có tính chất tiếu lâm:
Xưa có nhà sư xuất gia từ khi còn tấm bé. Sư nổi tiếng chân tu lại học rộng, mọi phép sát quỷ trừ tà đều thông cả. Một hôm Phật báo mộng cho sư biết rằng sư sẽ đắc đạo sau khi dự một cuộc thi ở Thiên đình.
Tỉnh dậy sư rất mừng, từ đó ngày đêm quyết ôn luyện kinh kệ và ấn quyết cho được tinh thục. Một hôm, sư chợt nghĩ: “ Mình lục trí thần thông đều đủ cả, duy chỉ có một việc chưa từng biết là cơ thể đàn bà. Nếu lúc lên trên kia, người ta hỏi đến thì không biết đường nào mà trả lời”.
Nhưng muốn biết việc đó không phải dễ. Sau cùng sư đánh liều nhờ thủ tự bí mật giúp cho. Thủ tự đi tìm từ đầu làng đến cuối chợ chả được ai cả, đành về dỗ vợ, ngọt nhạt mãi vợ mới chịu.
Tìm hiểu được cơ thể đàn bà rồi, nhà sư rất thỏa mãn.
Nhưng từ đó sư đâm ra ngớ ngẩn, kinh kệ và cúng đàng chả thiết chi cả. Việc phù phép cũng mất linh nghiệm. Phật biết chuyện đó, nổi giận bèn cho sét đánh chết. Như thế mà Phật vẫn không hết giận, còn bắt sư hóa làm ếch. Khi thủ tự mở áo quan để nhặt hài cốt thì chỉ thấy có một con ếch nhảy ra. Vì thế mà có câu tục ngữ:
Đi tu mà chẳng trọn đời,
Sinh ra con ếch cho người lột da.[15]

9.SỰ TÍCH CON MUỖI

Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn.
Sau đó không bao lâu, người vợ trẻ tự nhiên bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Người ta không thể tả cái cảnh đau thương của người chống. Anh chàng đã mấy lần toan tự tử, nhưng bị người nhà ngăn trở và canh phòng ráo riết. Hôm sắp sửa cất đám, bỗng có một đạo sĩ đến bày cho chàng phép cải tử hoàn sinh mà theo lời ông ta đã từng có nhiều người dùng rất ứng nghiệm.Phép của ông ta rất giản dị, chỉ cần người sống gan dạ và kiên trì một chút là được. Nghĩa là người sống một ngày ba lần ôm ấp và truyền hơi ấm của mình vào cho tử thi. Làm luôn như thế không nghỉ ngày nào thì chỉ trong khoảng ba tháng mười ngày là người chết sống lại.
Người chống cám ơn đạo sĩ và làm đúng như lời dặn, hy vọng đưa người yêu trở lại cõi thế. Hắn ngày ngày ôm ấp vợ, truyền sức nóng, hơi thở của mình vào cái xác đã lạnh toát.
Nhưng sau đó ba ngày, mùi hôi của tử thi bay ra khắp xóm làm cho mọi người không chịu được. Họ kéo nhau đến nhà bắt hắn phải chôn lập tức.
Bất đắc dĩ người chống phải nhờ xóm giềng chặt nứa làm giúp một cái bè để mình đưa xác vợ đi một nơi khác. Nhiều người vui lòng giúp anh chàng trong việc này. Chỉ trong nửa ngày, hắn đã chở xác người yêu đi biệt.
Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi. Người chồng vẫn ngày ngày ấp ủ vợ không thôi.Cái tử thi đó trông vẫn như người nằm ngủ. Lòng anh chàng tràn trề hy vọng. Đến một nơi kia, hắn cắm bè lại kề một bãi cỏ rộng, lên bộ nấu ăn.
Tình cờ trong khi đi nhặt củi anh ta gặp một ông cũ già. Nhìn thấy ông cụ chống gậy đi một mình giữa cảnh trời nước hoang vu, lại râu tóc trắng xóa, hình dung không có gì là lam lũ, chàng trẻ tuổi lấy làm ngạc nhiên. Hắn đang suy nghĩ thì thoáng một cái ông cụ đã đứng trước mặt. Hiểu ngay đó là bậc Tiên Phật, hắn vội phục xuống chân cụ già rồi kể lể sự tình, cuối cùng không quên cầu khẩn ông cụ sinh phúc giúp cho vợ mình sống lại. Thấy hắn nài nỉ hết sức, đức Phật-vì chính ông cụ đó là đức Phật-bèn thương tình theo xuống bè, bảo hắn chích máu ngón tay lấy ba giọt giọt vào miệng vợ. Tự nhiên người đàn bà mấp máy môi rồi từ từ ngồi dậy như vừa tình một giấc mơ. Đức Phật, trước khi ra về có hỏi người vợ:
-Anh chàng này cho vay ba giọt máu để ngươi được hồi sinh. Vậy nhà ngươi có yêu anh ta chăng?
-Con rất yêu chồng con, thề trọn đời trọn kiếp không thay lòng đổi dạ.
Trước câu thề bồi chắc nịch của người đàn bà, đức Phật bảo:
-Không can gì. Nếu không yêu nữa thì chỉ có việc trả lại ba giọt máu cho anh ta là đủ.
Thấy bọn họ nóng lòng muốn trở về quê hương, đức Phật gọi một con cá sấu khổng lồ từ dưới vực sâu lên bảo chở họ đi.
Cá sấu vượt sông được nửa ngày đường thì bụng đã đói. Nó bảo hai vợ chồng lên bộ nghỉ ngơi để cho nó đi tìm cái gì ăn. Hai vợ chồng dắt nhau vào quán cơm. Trong quán hôm đó có người khách thương sang trọng. Hắn ta thấy nhan sắc người vợ diễm lệ ít có ai sánh tày thì bỗng nảy tà dâm, mưu toan chiếm đoạt. Hắn lân la lại gần, đưa các mẫu hàng tơ lụa và đồ trang sức ra vờ chào khách nhưng kỳ thực là để tán tỉnh người đàn bà đẹp. Hắn nói trong thuyền hắn đậu gần đấy còn có nhiều món hàng nữa rất quý và rất rẻ, muốn mời họ xuống xem.
Nhưng người chồng thì chẳng thiết một tí nào. Cơm nước xong, chồng bỏ mặc người khách thương, dắt vợ ra bến vắng, ở chổ hẹn với cá sấu, ngồi đợi. Họ ngồi dưới bóng cây trò chuyện một lúc rồi vì mệt quá, ngủ quên lúc nào không biết. Họ cũng chẳng ngờ rằng, sau lưng họ người khách thương kia vẫn theo sát không rời. Khi thấy hai người nằm ngủ, hắn đi nhẹ đến thức riêng người vợ dậy, mời nàng xuống thuyền đậu kế đó để hắn biếu một món trang sức rất đẹp:
-Thuyền của tôi chỉ cách đây mười bước. Bà không phải đợi lâu đâu!
Nghe nói thế, lòng người đàn bà bỗng lay chuyển. Nàng đứng lân, đi theo người khách thương xuống thuyền. Chỉ trong nháy mắt, theo ám hiệu của chủ, bọn thủy thủ nhổ neo và dong buồm cho thuyền chạy mất.
Lại nói chuyện cá sấu, lúc ngoi lên chỗ hẹn thì thấy chỉ có một mình người chồng,bấy giờ vẫn đang ngủ say. Cá sấu thức hắn dậy hỏi chuyện. Anh ta ngơ ngác không hiểu thế nào. Một mất mười ngờ, hắn đổ tội cho cá sấu đã ăn mất vợ. Để giải mối ngờ, cá sấu mới bảo hắn kiếm cây luồn qua miệng mình, khua trong dạ dày xem thử cho biết. Anh chàng làm theo, chỉ thấy trong bụng cá sấu toàn xương cá và đá cuội, mới biết mình ngờ sai. Tìm khắp mọi nơi chẳng thấy vợ,hắn trở về bến, ôm đầu kêu khóc thảm thiết. Cá sấu thương tình bèn bảo hắn cởi lên lưng để nó chở đi đuổi theo những chiếc thuyền vừa qua lại ngang đây dò tìm tung tích vợ. Sau mấy lần dò hỏi, người ta cho biết một chiếc thuyền buôn vừa đi qua, trong đó có một người đàn bà trẻ đẹp. Họ tả nét mặt và hình dạng thì đúng là vợ chàng. Cá sấu bèn cố công đuổi riết.
Khi nhìn thấy vợ ngồi trong thuyền khách thương, người chồng nói với vào:
-Nàng cứ nhảy ra đây…Tôi không thể sống xa nàng được…Tôi sẽ làm cho nàng sung sướng…
Nhưng người vợ bảo chồng:
-Chàng về đi! Em đành phụ chàng. Chàng tha thứ cho em vậy.
Rồi đưa ra cho chồng một gói vàng:
-Chàng hãy nhận lấy vật này và coi như em đã chết từ hôm nào rồi.
Vừa bực tức vừa thất vọng, chồng ném gói vàng xuống nước rồi nhờ cá sấu đưa về tìm đức Phật. Khi đức Phật gặp bọn họ, liền giục cá sấu hối hả rượt theo chiếc thuyền của khách thương để cho anh chàng thất tình đòi lại ba giọt máu của mình.
Lại nói chuyện người đàn bà, sau khi chích máu ở tay để lấy ra ba giọt trả nợ cho chồng thì ngã vật xuống chết ngay. Người khách thương hết sức cứu chữa nhưng vô hiệu. Rồi sau đó hắn ném xác nàng xuống biển. Nhưng do phép mầu nhiệm của đức Phật, người đàn bà ấy hóa thành con muỗi. Vì thiếu máu, nên lúc nào muỗi cũng lén lút chích trộm của mỗi người một tí để sống.[16]
Khảo dị
Việt Nam còn có truyện Lương Nhân có lẽ cũng từ truyện “ Sự tích con muỗi” phát triển ra.
Lương Nhân quê ở Vĩnh Yên, lấy vợ tên Thị Xuân. Vợ chết, Lương Nhân quá thương, cõng xác vợ theo mình không rời, Phật thương tình hiện lên phun ba ngụm nước cho Thị Xuân sống lại. Một hôm vợ chồng có việc đi xa, ngủ nhờ ở thuyền. Trong lúc Lương Nhân ngủ say thì vợ chồng theo ông chủ thuyền. Lương Nhân gặp lại đức Phật. Đức Phật bảo đến đòi ba ngụm nước, Thị Xuân phun xong ngã lăn ra chết.
Sau đó Lương Nhân gặp Hán Chân. Hai người lấy nhau, kiếm ăn rất chật vật. Một hôm Lương Nhân đi vắng, một người khác lại thấy Hán Chân có sắc đẹp liền ve vãn nhưng bị nàng cự tuyệt. Để mua chuộc, người khách xin hai miếng trầu và đưa cho nàng hai trăm lạng bạc. Hán Chân nhận và khi chồng về nàng kể lại sự thật. Lương Nhân ngờ vợ và định giết vợ. Vợ trốn đi, cải trang làm con trai vào học ở một ngôi chủa ở Sơn Tây. Đã đẹp lại học giỏi nên sư nữ Thị Vân đâm mê Hán Chân, hẹn hò làm vợ chồng.
Được mấy năm, Hán Chân đổi tên Lương Nhân đi thi đỗ Trạng, được vua gả Công chúa. Hán Chân xin phép về quê mở hội làm chay. Lương Nhân bấy giờ làm nghề nông, nghe có hội, đem rau đến bán. Vợ chồng gặp nhau. Phật hóa phép cho Lương Nhân thành một chàng trai đẹp đẽ thông thái. Hán Chân đưa chồng về triều tâu rõ sự việc. Vua gả Công chúa cho Lương Nhân làm vợ hai. Thị Vân cũng được đón về làm vợ ba.[17]

10.SỰ TÍCH CON KHỈ

Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói.
Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ.
Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. Ông cụ có vẻ đâu từ xa lại, dang điệu mệt nhọc, đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vục nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói:
-Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo nàng:
-Hồi nãy con làm sao mà khóc?
Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.
-Ta là đức Phật, ông cụ nói tiếp, ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, Ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái đáng thương chỉ là làm sao cho bớt xấu xí. Ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp, múc lấy thì sẽ được toại nguyện. Khi xuống giếng, cô gái chỉ múc lấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻ xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một ít. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời rối rít:
-Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với.
Đức Phật bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ múc lấy múc để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm; mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn; -“ Kìa trông con quỉ, nó cắn bà con ôi!”. Nhưng lại có những tiếng khác: -“Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì!”.
Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại.Cả họ nhà trưởng giả kinh hoảng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ đó, cô gái cùng với một số người nghèo hầu hạ trưởng giả được thừa hưởng gia tài của họ.
Lại nói chuyện trưởng giảhọ hàng nhà hắn đành phải ẩn náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiễu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của, cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà lêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng trở lại về rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá. Đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng.Họ bôi mắm tôm vào các song cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà.
Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mò đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oái oái , rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.
Những khi lên rừng hái củi, người ta vẫn thỉnh thoảng gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhành cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấy vết bỏng của tổ tiên.[18]

11.SỰ TÍCH CHÙA NGỌC HỒ

Chùa này dù có tiếng là một cổ tích, nhưng nền nếp kiến trúc cổ sau bao cơn loạn lạc, đều lần lượt bị tàn phá hết, mãi đến năm Ất Hợi ( 1935) mới sửa chữa lại như quang cảnh ngày nay.
Chùa này xưa kia làm nền trên một cái gò, giữa gò cao vót lên như hình một cái hồ rượu, nên gọi là chùa Ngọc Hồ. Bên trong hồ có đáy sâu xuống chừng ba bốn thước, có nước rất trong và lúc nào cũng đầy. Sau khi sửa lại chùa, Ngọc Hồ ở vào ngay cửa giữa tam quan, có làm nắp đậy, để lấy lối đi lại lên trên.
Chùa dựng lên từ năm Kiến Gia thứ tám (1218) đời vua Huệ Tôn nhà lý. Đến đời Trần, đổi gọi là chùa Tiên Phúc, vì theo tục truyền thường có nàng tiên hiện thân đi tha thướt ở trước chùa này là chùa Ba Ngô, truyền rằng về đời nhà Mạc ( 1527-1529) một người đàn bà ta lấy một nhà buôn Hoa kiều, nhà rất giàu, tự bỏ của riêng đứng ra làm chùa( Ngô mà danh từ xưa kia vẫn dùng để chỉ các người Hoa kiều sang làm ăn buôn bán ở xứ ta).
Trong chùa hiện chia làm ba phần, phần giữa để thờ đức Phật; bên tả là nhà hậu, thờ những người có công đức với chùa; phần bên hữu thờ chư vị, vị chính là bà Liễu hạnh Công chúa, ở cửa ngoài có một câu đối quốc văn , tả về thân thích bà:
Chẳng thiêng cũng bụt chùa nhà; gái Thanh Hóa nữ thần có một.[19]
Đẹp nhất là tiên hạ giới, cõi Nam thiên bất tử hòa tư.[20]
Về phần bên hữu này, ngoài cùng thờ tượng Lê Thánh Tôn. Theo tục truyền, Lê Thánh Tôn là người đã từng có nhân duyên quả kiếp với chùa. Có một hôm, nhà vua ngự kiệu đi vãn cảnh danh lam, khi tới gần chùa Ngọc Hồ, nhác thấy một người con gái đẹp đang đứng trên gác chuông ngắm cảnh và cất tiếng ngâm câu:
Ở đây mến cảnh mến thầy,
Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.
Vào tới chùa, nhà vua đi thẳng lên gác chuông hỏi người con gái:
-Vừa nghe mấy lời châu ngọc, biết nàng quả có văn tài, duyên tao phùng dễ có mấy khi, để ghi nhớ phút kỳ ngộ này, xin tài nữ hãy cùng trẫm chia vần xướng họa, nên chăng?
Người con gái nhận lời, và xin nhà vua xướng trước. Vua xin nàng cho biết đầu đề, nàng lấy ngay câu thơ vừa ngâm lúc nãy làm đầu đề. Vua ứng khẩu đọc ngay:
Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười,
Tuy vui đạo Phật chửa khuây người.
Chầy kinh mấy khắc tan niềm tục,
Hồn bướm ba canh lẫn sự đời.
Bể thảm muôn tầm mong tát cạn,
Sông ân ngàn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào Cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Vua đọc xong, xin nàng cho biết ý kiến.Nàng xin cho được đổi mấy chữ: Chày kinh mấy khắc đổi là gió xuân dưa kệ, ba canh đổi là mơ tiên, thảm đổi là khổ, sông đổi là nguồn. Nhà vua rất thán phục và xin nàng họa lại. Nàng nói:
-Ý thiếp đã đủ cả trong câu mệnh đề, không còn nói gì hơn nữa, vả chăng đứng trước ngọn Thái Sơn, gò đống cũng khó nói được là cao lớn. Nay xin tạm miễn, còn nhiều hội ngộ về sau.
Nhà vua cười, rồi mời nàng cùng lên kiệu về cung. Không chối từ, nàng trèo lên kiệu cùng đi,nhưng khi kiệu vừa về đến bên ngoài cửa Đại Hưng (một cửa ở ngoài phía nam hoàng thành) thì nàng biến mất. Nhà vua biết là tiên, cho lập một lầu cao ngay ở đó, gọi là Vọng Tiên lâu, để đôi khi trèo lên trông ngóng, may chăng còn gặp bóng hồng. Lầu này ở vào chỗ quán Vọng Tiên, phố Hàng Bông ngày nay.
Vì chùa Ngọc Hồ có tên là chùa Tiên Phúc, nên có nhiều người lầm với chùa Tiên Tích ở phố Hàng Cỏ. Chùa Tiên Tích vốn là một danh lam ở thủ đô, cuối đời Lê, chúa Trịnh Sâm cho sửa sang lại, bên cạnh dựng tòa ly cung để đôi khi mang cận thần và phi tần ra đó nghỉ mát. Trong chùa có hồ rộng mười mẫu, có tháp cao chín tầng và có nhiều hình giống vật bằng đá của nước Chiêm Thành, do chúa Trịnh Tráng vào đánh chúa Nguyễn ở miền Nam lấy được đem về. Chẳng bao lâu gặp loạn, chùa bị phá hết không còn gì, về sau người ta chỉ lập nên một tòa chùa nhỏ. Đến nay, chùa ấy chỉ còn là một gian nhà thường chật hẹp, mang biển số nhà 110 ở đường Lê Duẫn ngày nay.
(Cổ tíchThắng cảnh Hà Nội, Doãn Kế Thiện NXB Hà Nội 1999)

12-SỰ TÍCH CÁ HE [21]

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chánh quả. Sư bụng bảo dạ:-“ Phải đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật”. Nghĩ vậy, sư ta mới quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Đường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó thật muôn phần vất vả. Việc giao thông hầu hết là bằng đường bộ, mà đi bộ trên con đường mịt mùng thăm thẳm thì mỗi bước là một hiểm nguy. Nhưng nhà sư trẻ tuổi vẫn quả quyết nhắm hướng Tây tiến bước.
Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều ngày lạc đường và mấy lần mê man vì sốt, nhưng nhờ được sự giúp đỡ nên đều qua khỏi và chàng vẫn tiếp tục cuộc đi thăm đất Phật.
Một hôm,sư đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi an nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà.Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn.Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít:
-Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng đâu.
Sư đáp:
-Tôi bây giờ thiệt là kiệt sức, không thể nào bước được nữa.Nếu không cho nghỉ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi.
Bà cụ bảo:
-Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người.Cố đi nhanh lên, nó sắp về rồi đó.
Nhưng sư đã chắp tay nải, nằm vật xuống đất, hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn.Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo y phải cố giữ cho thật im lặng, để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn bà cụ chất củi,phủ lá rất kín đáo.
Trời tối hẳn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang.Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói:
-Có mùi thịt mẹ ạ!
Mẹ hắn đáp:
-Thì chả là thịt của mày mang về đấy là gì?
-Không phải.Thịt người. Con biết lắm.Có thịt người.
Bà cụ chưa kịp cản thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm.Chẳng mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về nhà mình.
Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát:
-Mày đi đâu?
Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp:
-Tôi đi tìm Phật.
-Tìm để làm gì?
Sư bấy giờ mới rõ mục đích của mình, rồi luôn miệng, sưgiảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể lại bao nhiêu nỗi gian khổ của mình dọc đường và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao được nhìn mặt đức Phật để Phật độ cho thành chánh quả. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho biết là họ cũng sẽ trở nên “ vô sinh vô diệt”, sẽ sống một đời sống vô cùng sung sướng trên Niết-bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác bấy giờ đã dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho chàng. Họ tiễn đưa sư sang tận bên kia một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ác Lai hỏi:
-Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây?
Sư đáp:
-“Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm”. Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ.
Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả mớ ruột gan đưa cho sư và nói:
-Nhờ Hòa thượng dâng hộ đưa lên đức Phật.
Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai, gật đầu nhận lời, rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy lên vai, cất bước lên đường.
Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, hiển lộ ra trước mặt mình mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui tí nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng trên vai.Nếu chỉ có thế thì không có gì đáng ngại cholắm. Khổ một nỗi là mùi thối từ bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi thối vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm:-“ Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình?”.Qua ngày hôm sau, không thể chịu nỗi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo rằng:
-Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả.
rất đỗi kinh ngạc,cố ngước mặt lên nhìn một tí. Trên cao vòi vọi, sư thấy đức Phật ngự giữa tòa sen trắng sáng ngời, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai.Sư bỗng hiểu hết. Đức Phật đã rõ sư thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi; còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ sự ngộ đạo đột ngột và chân thành trong phút chốc. Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng thẹn thùng vô kể.
Nhà sư trẻ sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông sâu thẳm, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai đã gửi cho mình và hy vọng gần gũi tòa sen đức Phật. sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hóa làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he,[22],cũng gọi là cá nược, hay có nơi cũng gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó con nào con nấy cũng có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ.
Những người đánh cá còn nói loài cá he rất nghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm cho thuyền đắm, rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng nó sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần cho mà xem[23].
Khảo dị
Truyện kể trên lưu hành ở miền Nam. Nhân dân miền Bắc kể chuyện này cũng một nội dung nhưng khác tên gọi. Đó là Sự tích chim bìm bịp:
Một sư nữ chân tu, ăn chay niệm Phật bao nhiêu năm ròng nhưng chưa đắc đạo. Một hôm, sư quyết định sang Tây Trúc để hỏi Phật duyên cớ vì sao.
Sau mấy tháng trời ngày đi đêm nghỉ, một ngày kia sư đến một khu rừng thẳm. Trời đã xế chiều, sức đã kiệt thì may sao, sư trông thấy một cái nhà bên đường. Nghe tiếng gõ cửa, một người đàn bà bước ra vội vã xua tay rối rít, bảo khách đi nhanh lên kẻo con mình là yêu, hễ bắt được người nào là ăn thịt.Nhưng thấy sư nữ năn nỉ quá , chủ nhân lấy cơm cho ăn rồi bảo chui vào trong một cái vại đậy lại cẩn thận.
Yêu con về đánh hơi thấy mùi thịt người, cố tìm cho kỳ được. Yêu mẹ thấy con sắp sửa ăn thịt sư nữ thì hết lời khuyên can:
-Đó là một nhà tu hành. Nếu con ăn thịt người ấy, Phật sẽ không dung thứ.
Nghe nói, yêu con dần dần tỉnh ngộ, bày tỏ sự hối hận của mình cho sư biết. Hắn đã ăn thịt rất nhiều người và bây giờ hắn mong muốn chuộc tội. Cuối cùng ,yêu con hỏi sư nữ:
-Tôi muốn sửa lỗi để theo Phật. Chẳng hay sẽ dùng cái gì để ra mắt?
Sư đáp:
-Phật chỉ cần tấm lòng mà thôi!
Thế là yêu con rút dao rạch bụng lôi cả ruột gan ra và nói:
-Nhờ chuyển giúp cho tôi vật này làm lễ dâng Phật.
Sư nữ không ngờ hắn lại hiểu nhầm như vậy, đành nhận lời, quảy bộ lòng lên đường. Nhưng được mấy ngày bộ ruột nặng mùi quá, không sao chịu được, sư nữ quên cả lời hứa, quẳng vào bụi rậmtiếp tục đi nữa.
Đến Tây Trúc, khi nhà sư vào lễ Phật thì đức Phật ở trên toà sen bảo:
-Còn thiếu một nữa mới thành chánh quả.
Sư nữ hiểu ra, òa khóc, nói mình đã kiệt sức, không biết làm thế nào mà tìm được. Phật cho nàng hai chiếc cánh để đi cho chóng và bắt tìm cho ra.
Nhưng còn biết đâu mà tìm. Sư nữ khóc liên miên , ngày đêm chui rúc từ hết bụi mày đến bụi khác, thỉnh thoảng lại lên tiếng thở than, phảng phất như tiếng “ bìm bịp”. Tìm không được, nhưng sư cứ phải tìm mãi. Rồi sau đó sư hóa thành loài chim đầu đen, mình nâu, mắt đỏ như máu, người ta gọi là chim bìm bịp. Đó là hình dạng của sư nữ đầu chít khăn đen, mình mặc áo vải nâu già. Còn mắt đỏ là vì khóc nhiều mà sinh ra thế[24].
Tóm lại, ba cốt truyện trên có lẽ xuất phát từ một Phật thoại và đã được sửa chữa tô điểm thành truyện cổ tích dân gian.
Theo Mỹ Ấn tùy bút thì mẹ Ác lai được Phật độ cho làm Mụ Thiện. Ác Lai trở thành hai vị Hộ pháp được Phật cho giữ chùa mà ta thường gọi là ông Thiện ông Ác. Tại sao một người lại hóa thành hai? Đó là vì tuy là một nhân vật nhưng kể từ khi rạch bụng cúng Phật đã tách thành hai con người khác hẳn. Ông Thiện là hiện thân của quãng đời sau của Ác Lai ( thời kỳ ngộ đạo), ông Ác là hiện thân của quãng đời trước ( chưa ngộ đạo).
Trong Kinh Tam Tạng có truyện tương tự:
Ngày xưa con gái Long Vương đi chơi trên trần bị một người chăn bò trói đánh. Vua nước ấy bắt gặp, sai cởi trói thả về. Về nhà, Long Vương hỏi con gái tại sao lại khóc. Cô gái vu cho vua trên trần đánh.Long Vương bèn hóa thành rắn tìm lên trần, nấp dưới giường vua, bỗng nghe vua nói với vợ:
-Hôm nay ta đi chơi gặp một cô gái bị đứa chăn bò đánh, được ta giải thoát cho.
Ngày hôm sau, dưới lốt người, Long Vương đến gặp vua trần nói:
-Ông đã làm một việc tốt là cứu con gái tôi. Nay ông muốn gì tôi sẽ cho nấy.
Vua nói:
-Vật quý tôi đã có nhiều. Tôi chỉ muốn hiểu tiếng loài vật.
-Ông cứ trai giới trong 7 ngày sẽ được như ý. Nhưng phải giữ kín đừng cho ai biết.
Từ đấy, vua Trần quả nghe hiểu được tiếng muôn loài.
Một hôm đang ăn với hoàng hậu, vua bỗng thấy bướm cái bảo bướm đực kiếm cho nó thức ăn. Bướm đực trả lời ai kiếm nấy ăn. Bướm cái nói bụng nó không muốn thế. Vua cười một mình. Hoàng hậu hỏi, vua nín lặng. Một lần khác, vua ngồi với hoàng hậu thấy hai con bướm gặp nhau, cãi nhau và cả hai đánh nhau rơi xuống đất. Vua lại cười. Hoàng hậu hỏi đến ba lần, vua đều không nói. Nhưng khi hoàng hậu doạ sẽ tự vẫn, thì vua đành bảo chờ mình đi dạo một lát rồi sẽ cho biết vì sao mà cười.
Để cảnh tỉnh vua trần, Long Vương hóa thành một bầy dê lội sông. Một con dê cái gọi chồng trở lại đưa mình đi.Dê chồng nói không thể đưa được. Dê vợ cũng đòi tự tử và nói:
-Anh không biết có ông vua nước kia sắp chết vì vợ mình đó ư?
Dê chồng đáp:
-Ông vua ấy chết cho vợ là vì hắn ngốc.Mày cứ chết đi, ta không thiếu gì dê cái.
Vua Trần nghe nói thế, tự nghĩ mình thua sự sáng suốt của con dê đực. Lúc trở về hoàng hậu lại vật vã đòi tự tử. Vua đáp:
-Cứ chết đi, trong cung ta thiếu gì cung phi, cần gì một thứ mày.[25]

13. SỰ TÍCH CÁI CHÂN SAU CON CHÓ

Ngày xưa có một người đàn bà tên là Thanh Đề rất sùng đạo Phật.Bà ta sùng Phật đến nỗi cho rằng những cơm bánh do lúa gạo người ta trồng ra ở đồng ruộng thì không thể nào được tinh khiết, mà đã thế thì không thể đem cúng Phật. Vì thế, hằng năm bà ta trồng lúa nếp trong những cái gáo dừa đựng đất sạch. Luôn luôn bà treo cái gáo đó lên một chỗ cao vì sợ có người bước qua. Khi lúa chín, bà thận trộng rứt từng hạt một, giã nó bằng một con dao mới tinh, rồi mới đưa nắm gạo đó đựng vào bát thờ mà dâng lên chùa.
Một hôm, ở một ngôi chùa lớn trong vùng có mở hội đón tiếp khách thập phương. Vị Hòa thượng chùa ấy cắt đặt một số sư tiếp nhận những lễ vật của thiện nam tín nữ đem đến cúng Phật.Bà nghe tin không quản đường xa, vội đưa nắm nếp tinh khiết của mình tìm đến dâng cúng ở chùa đó. Không ngờ mấy vị sư kia chỉ chú ý đến lễ vật hậu hỉ của những người khác, mà chả ai nghĩ đến bà và nắm gạo của bà. Chờ suốt một ngày không thấy ai nhận, người đàn bà nọ tức mình, ném nắm gạo xuống đất rồi bỏ về.
Ít lâu sau, bà ta sắm sửa một lễ cúng Phật tại nhà mình rồi mời Hòa thượng và các sư ở chùa đó đến tụng kinh. Theo lệ thường, trước khi ra về, chủ nhân phải làm bánh tặng họ ăn đường. Để làm nhục bọn sư bất lương, bà ta giết một con chó, lấy thịt băm nhỏ với các thứ rau thơm làm nhân bánh. Sau bữa cơm chay, bà ta đem bánh đó tặng mỗi người một chiếc. Đoán được âm mưu của người đàn bà, vị Hòa thượng dặn các nhà sư cầm bánh về chứ đừng ăn. Họ đều vâng lời, duy chỉ có một nhà sư quên mất. Dọc đường thấy bánh thơm ngon, sư ta bèn bóc ăn kỳ hết. Những người khác khi đưa bánh về biết là nhân thịt chó đều quăng cả vào gốc cây Bồ Đề ở trước chùa.
Tất cả những việc đó đều thấu tai đức Phật. Trước hết, đức Phật trị tội bọn sư tham lam và bất lương. Bọn họ bị bắt xuống địa ngục. Con chó chết oan được sống lại. Nhưng vì nó đã bị nhà sư ăn mất một chân nên lúc trở về cõi thế chỉ còn có ba chân. Đức Phật thấy thế chắp cho nó một chân giả khác để tiện đi lại.[26].Những thứ rau thơm làm nhân bánh bị vứt dưới gốc Bồ -đề cũng nhờ phép Phật mọc lại xanh tốt. Đó là ba cây rau om, hành và sả. Vì những cây ấy bị nhà chùa coi là đã bị uế tạp cho nên sau này những người xuất gia đều kiêng không dùng. Về phần người đàn bà cũng bị tôi nặng: Phật bắt bà ta bỏ vào tầng ngục thứ mười. Có người bảo đó là mẹ ông Mục Liên, sau này ông từng xuống đó thăm mẹ.

14.SỰ TÍCH ÔNG ĐẦU RAU [27]

Ngày xưa, có hai vợ chồng son nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.
Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm ăn rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền.Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu.
Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài.Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ:
-Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.
Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo:
-Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.
Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.
Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹ và xinh xắn, nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bới nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.
Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:
-Chồng tôi hẹn trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.
Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định:
-Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.
Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin ráng chờ một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau đó ba tháng, người chống cũ xách khăn gói về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu . Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm:-“ Thế là hết. Bởi số cả!”
Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ:
-Tôi đi vắng lâu quá.Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử xự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.
Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mắc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rồi như mớ bòng bong. Chàng nghỉ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt?Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà.
Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to:-“ Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác?”. Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm Vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng.
Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm Vương hỏi tình của chàng đối với vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.
Diêm Vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm Vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.[28]

15.SỰ TÍCH CHÙA BÓNG

Xưa, xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, có tên là làng Bóng. Làng này, có ngôi chùa, tên chữ là Quang Minh Tự, nhưng dân gian vẫn thường gọi là chùa Bóng, các thư tịch cổ như Lĩnh Nam chích quái, Công dư tiệp ký, Đại Nam nhất thống chí…đều có chép về chùa này.
Chùa Bóng được khởi công xây cất vào cuối thời Trần. Lúc đầu, chùa chỉ có quy mô nhỏ, vật liệu thuộc loại thường. Các đời nối nhau cũng tổ chức trùng tu, nhưng chùa Bóng cũng chẳng thể nhờ thế mà tồn tại được thật lâu. Năm 1578, triều đình vua Lê Thế Tông ( 1573-1599) và phủ chúa Trịnh Tùng (1570-1623) đã cấp kinh phí để xây cất lại chùa Bóng gần như mới hoàn toàn. Đến cuối thế kỷ mười chín, chùa Bóng vẫn còn nổi tiếng là một trong những ngôi chùa đẹp. Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép rằng: “ Chùa Quang Minh ở xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc có ngàn cây xanh biếc, bốn mặt nước trong, xa xa phía trước có đường cái chạy qua và có dòng sông bao bọc, thật xứng đáng là một thắng cảnh của thiền lâm”.
Quang Minh tự rất đẹp, nhưng ngôi chùa này được biết đến nhiều nhất không phải là vẻ đẹp của khuôn viên nơi chùa tọa lạc, mà trước hết là bởi công lao hoằng dương Phật phápđạo hạnh của một trong số các bậc cao tăng Trụ trì tại chùa này là Thiền sư Huyền Chân ( tức Ma-ha Sa-môn). Quang Minh tự sự tích cho hay, Thiền sư Huyền Chân người làng Hàm Nghi, xả Danh Hương (nay thuộc huyện Kiến xương, tỉnh Thái Bình) thế danh là Đức, sinh và mất năm nào chưa rõ. Sách Công dư tiệp ký của Tiến sĩ Vũ Phương Đề ( 1698-?) còn cho biết thêmrằng, Thiền sư Huyền Chân cũng tức là Thiền sư bật Sô.
Tương truyền rằng khi đã về già, một hôm, Thiền sư Huyền Chân nằm mơ thấy Phật A Di Đà ( Amitabhâ) đến nói cho biết rằng:
-Ngươi dày công với Phật sự đã lâu, lòng tư bi của ngươi đã dược Phật Tổ thấu hiểu, vì thế, đến kiếp sau, ngươi sẽ được làm Đại đế ở phương Bắc.
Tỉnh dậy, Thiền sư Huyền Chân liền kể hết với đệ tử của mình và dặn:
-Sau này, lúc thầy viên tịch, các con hãy lấy son viết lên vai thầy mấy chữ An Nam quốc, Quang Minh tự, Sa Việt Tì khưu trước khi đem nhục thân của thầy đi hỏa thiêu.
Đệ tử chăm chú lắng nghe và về sau làm theo đúng ý của Thiền sư Huyền Chân.Nếu dừng lại ở đó, chuyện này bất quá chỉ có Thiền sư Huyền Chân cùng các đệ tử và một số Phật tử nhất định nào đó của chùa Quang Minh biết được mà thôi.
Năm Hoằng định thứ sau (tức năm Giáp Thìn 1604), triều đình vua Lê Kỉnh Tông ( 1599-1619) và chúa Trịnh Tùng ( 1570-1623) mở khoa thi Hội, lấy đỗ bảy vị, gồm hai Hoàng Giáp và năm Tiến sĩ. Trong số năm Tiến sĩ này, có Nguyễn Tự Cường[29], người làng Tiền Liệt, huyện Vĩnh Lại ( nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Ông sinh năm 1570, tức khi đỗ đại khoa, ông đã 34 tuổi, làm quan, trải phong dần đến chức Lễ Bộ Hữu thị lang, tước Xuân Quận công. Ông từng được cử đi sứ sang nhà minh ( Trung Quốc) và chuyện ly kỳ về Thiền sư Huyền Chân gắn chặt với chuyến đi sứ này của ông. Tương truyền, khi sang Trung quốc, Hoàng đế của Trung Quốc lúc bấy giờ là Minh Thần Tông ( tức Chu Hủ Quân, sinh năm 1563, lên ngôi năm 1572, mất năm 1620, hưởng thọ 57 tuổi), có nói với Nguyễn Tự Cường rằng:
-Người ở nước Nam, vậy có biết chùa Quang Minh của nước Nam ở đâu hay không?
Nguyễn Tự Cường đáp là không biết. Minh Thần Tông nhân đó mới nói với Nguyễn Tự Cường rằng:
-Lúc mới sinh ra, trên vai ta đã có hàng chữ son, nói rõ kiếp trước của ta chính là vị Thiền sư ở chùa Quang Minh. Nay, ta muốn xóa dòng chữ ấy đi mà chưa biết phải làm như thế nào.
Nguyễn Tự Cường thưa:
-Thần nghe nói nhà Phật có nước công đức để tẩy trần. Nếu Bệ hạ là kiếp sau của Thiền sư Trụ trì chùa Quang Minh thì phải lấy nước giếng của chính chùa Quang Minh mới có thể rửa được.
Về nước, Nguyễn Tự Cường đem việc này tâu với triều đình. Triều đình quyết định lấy nước giếng của chùa Quang Minh tiến dâng cho Minh Thần Tông. Minh Thần Tông dùng nước ấy để rửa thì quả là rất hiệu nghiệm, vì thế, đem 300 lạng vàng thưởng cho Nguyễn Tự Cường. Ông liền đem toàn bộ số vàng này cúng cho chùa Quang Minh để lo việc trùng tu.
Ghi chép của Quang Minh tự sự tích chuẩn xác đến mức độ nào, có lẽ chúng ta sẽ bàn đến vào một dịp khác. Ở đây, điều đáng nói nhất lại là ở chỗ, dân làng Bóng, dân Gia Lộc, dân Hải Dương, dân của một bộ phận xứ Đàng Ngoài thuở trước, rất tin rằng, kiếp sau của Thiền sư Huyền Chân chính là vua Minh Thần Tông bên Trung Quốc. Sao lại chẳng thể tin, khi mà chuyện gắn liền với cuộc đờisự nghiệp của một bậc đại khoa Nho học, từng là người cầm đầu phái bộ sứ giả của nước nhà sang Trung Quốc? Sao lại chẳng thể tin, khi mà chuyện liên quan đến những quyết định hệ trọng của triều đình vua Lê-chúa Trịnh đương thời?
Xưa nay vẫn vậy, đôi khi vì mãi tìm cái sai, người ta không còn thấy được cái đúng ở đâu nữa. Có địa linh tất sẽ sinh nhân kiệt. Xin hãy gạt ra ngoài những điều khó tin để thấy một niềm tin đúng đắn và mãnh liệt của dân làng Bóng, dân Gia Lộc…rằng, nếu Thiền sư Huyền Chân là nhân kiệt thì đất quê hương họ, nơi Thiền sư Huyền Chân tu hành, chính là địa linh. Trong mọi niềm tin, niềm tin rằng đất sinh thành của mình thực sự là địa linh, có lẽ đáng xếp vào hàng thiêng liêng và có giá trị quan trọng nhất. Nghị lực vươn lên, chí tiến thủ và bản lĩnh vào đời của mỗi người thường có một trong những nguồn gốc tạo lập từ đây. Vị trí của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam nào phải chỉ bó hẹp trong những trang giáo lý, trong những buổi thuyết giảng, trong những nghi lễ chùa chiền…Lý lịch của Thiền sư Huyền Chân trong Quang Minh tự sự tích chừng như còn có một cái gì đó đặc biệt hơn, đáng quý hơn và đã góp phần làm tỏ rõ được điều này.
Triết lý sống của tổ tiên ta là vậy. Tất cả những ai trọn kiếp dày công tu nhân tích đức đều là những người sống mãi với muôn kiếp sau. Như Thiền sư Huyền Chân chẳng hạn. Ngẫm mà xem!
(Truyện kể về một trong những bậc Trụ trì của chùa của Gs.Nguyễn Khắc Thuần)
(Giác Ngộ số 163 ra ngày 15/5/99)

16.SỰ TÍCH THIỀN SƯ PHÁP THUẬN

Ngài tu ở chùa Cổ Sơn,làng Thừ, quận Ái. Không biết người ở đâu, Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Đang vào lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch định sáng lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng, Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 7 ( 987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:
“Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời”.
Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
“Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi”.
Giác do đó thán phục.
Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh.
Năm Hưng Thống thứ 2 (990) Sư tịch, thọ 76 tuổi (925-990).
(Thiền Uyển Tập Anh-Lê Mạnh Thát dịch-NXB,TPHCM 1999).
Khảo dị
Đỗ Pháp Thuận, nhà Sư, nhà Sử, nhà Thơ[30], thường được gọi là Đỗ Thuận hay sư Thuận là người học rộng, tho hay, giỏi việc đối đáp nên được vua Lê Đại Hành mời vào triều bàn việc nước. Nhiều lần vua định phong chức nhưng ông đều không nhận.
Vào mùa xuân năm 987, vua Tống lại sai Lý Giác sang sứ nước ta. Vua Lê Đại Hành biết Lý Giác là người giỏi văn thơ nên đã sai sư Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ Lý Giác ở chùa sông Sách Giang. Khi qua sống, Lý Giác trông thấy xa xa có hai con ngỗng trời bay, liền đọc hai câu thơ:
“Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha”
Dịch Nghĩa:
“Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng
Ngửa mặt nhìn chân trời”
Sư Thuận nghe xong, tay vẫn nhịp nhàng chèo thuyền và đọc tiếp 2 câu thơ sau thành một bài thơ tứ tuyệt:
‘Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”
Dịch nghĩa:
“Nước lục phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh bơi”[31]
Lý Giác thấy người lái đò cũng hay chữ như vậy đã kinh ngạccảm phục. Khi về đến công quán, Lý Giác làm một bài thơ gửi cho sư Thuận. Bài thơ viết bằng chữ Hán:
(Dịch):
“May gặp thời binh giúp kế hay
Thân này hai lượt sứ Giao Châu.
Đông đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu,
Ngục vượt khói mây xuyên sóng núi,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa.
Sóng lặng khe dầm bóng nguyệt thâu”.
Sư Thuận đem bài thơ ấy dâng vua. Vua triệu sư Khuông Việt vào xem. Khuông Việt nói: “Bài thơ này sứ giả tôn bệ hạ không khác gì vua của ông ta”. Vua khen bài thơ và tặng Lý Giác rất hậu. Khi Lý Giác từ biệt, vua sai Khuông Việt làm một bài thơ tiễn chân. Bài thơ theo điệu “ Tống Vương lang quy”.
Dịch:
‘Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương
Trông vị thần tiên về đế hương.
Muôn lần non nước vượt trùng dương.
Đường về bao dặm trường,
Tình lưu luyến chén đưa đường,
Nhớ vị sứ lang
Xin lưu ý việc biên cương,
Tâu rõ lên thánh hoàng”.
Lý Giác lạy tạ vua lên xe về Bắc.

17.SỰ TÍCH ÔNG BÌNH VÔI

Ngày xưa, có một người con gái con một nhà giàu có. Cô rất đẹp nhưng cũng rất kiêu. Cô đã từng làm cho các bạn gái xa lánh mình. Cô làm cho các chàng trai ghét cô vô hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, cô gái vẫn chưa có đám nào vừa ý. Chàng trai nào cũng bị cô sổ toẹt, vì”cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn bày ra”.
Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng. Chồng cô yêu vợ nhưng lại bực mình vì thói ghen của vợ. Cô ghen chồng làm cho xóm giềng luôn luôn cau mặt vì những lời qua tiếng lại của họ. Cuối cùng hai người không vừa ý nhau và ly dị. Buồn bựcduyên phận, cô bỏ đi tu.
xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi gần hai mươi năm. Những con chim, những con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của người sư nữ. Hai mươi năm qua, cô vẫn chưa đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn người và chịu đủ mọi sự khổ hạnh của nhà chùa. Một ngày kia, cô quyết định sang Tây Trúc một phen để tìm cho ra lẽ. Đường sang Tây Trúc thiên nguy vạn hiểm, nhưng cô quyết đi cho bằng được.
Một hôm, sau khi qua khỏi một trái núi, sư nữ tìm vào một ngôi nhà hẻo lánh dọc đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhân tuy người rừng núi quê mùa nhưng vốn là kẻ ăn chay niệm Phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đãi rất hậu. Khi họ được nghe kể công trình tu luyện của sư nữ thì họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Và khi họ biết rõ ý định của sư nữ thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo thầy để mong được đắc đạo. Nghe họ cầu khẩn, sư nữ cười:
-Hai mẹ con nhà này, cũng muốn thành Phật ư? Được, cứ đi theo ta!
Nhưng bụng nàng bảo dạ:-“ Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”.
Từ hôm đó nhà sư nữ có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt mỏi, đường bớt dài, đi chẳng mấy chốc đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau hai mẹ con nhà nọ vẫn cung kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không được như trước:-“ Không biết chừng họ được thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta…Bọn này mà đắc đạo, thật là một điều nhục cho Thiền môn”.
Nói chuyện đức Phật, khi vừa nghe tin có người tìm đường đến Tây Trúc cầu đạo, vội hóa thân đi theo dõi. từ đầu đến cuối, đức Phật vẫn không bỏ sót một lời nói, cử chỉ nào cửa sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức Phật hóa phép hiện ra ở bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây Bồ-đề rất lớn, để chờ họ.
Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên khi qua sông, sư nữ giả cách ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và cây Bồ đề bảo rằng:
-Kìa , chúng ta đã tới Tây Trúc. Chóng thật! Chính là cây Bồ-đề của đức Thế Tôn tu luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông tay rơi xuống là tự khắc thành Phật!
Tin tưởnglời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo không chút ngần ngại. Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật đã đón họ đưa lên trời. Có bốn vị La Hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người bạn đồng hành.
-“ Đúng là họ thành Phật rồi!”. Sư nữ vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, vội trèo lên cây để làm như họ và để mong được như họ. Nhưng đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn bà kiêu ngạođộc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi phịch xuống đất, tan xương vỡ sọ. Và sau đó đức Phật lại bắt người khốn nạn ấy hóa thành bình vôi. Tại sao lại hóa thành bình vôi? Có người bảo chính là đức Phật muốn bắt những kẻ trong lòng bất nhân, nhưng lại đeo bộ dạng từ bi, phải để cho người đời luôn luôn móc ruột.[32]
Khảo dị
Một truyện khác có nhiều tính chất Phật thoại cũng nói về sự tích Ông Bình vôi:
Có một anh ăn trộm, từng sống bao nhiêu năm với nghề. Hắn ta không vợ con, gia sản, chỉ độc có một chiếc lều bên cạnh đường cái. Một hôm, có cặp vợ chồng người ăn mày qua đó xin trú chân. Hắn cho ở lại và sau đó hắn thấy chồng bảo vợ:
-Hôm nay không xin được tí gì cả. Gần đây có một nương khoai, chờ đến tối tôi sẽ đào trộm về ăn.
Vợ can chồng:
-Thôi đi ông! Chỉ vì kiếp trước chúng ta ăn ở thất đức nên mới như thế này. Có lý nào phạm thêm vào cho nặng tội kiếp sau. Tôi thà chết, không ăn trộm!
Người ăn trộm nghe chuyện, bỗng dưng hối hận. Cuối cùng hắn giao tất cả cho hai vợ chồng người ăn mày rồi bỏ đi. Hắn tìm đến một ngôi chùa trên núi cao, xin Hòa thượng cho cạo đầu tu hành.Người ta giao cho hắn công việc nấu ăn: một bữa phải nấu từ tinh sương và một bữa từ chiều. Phận sự của hắn là giữ lửa, không được để tắt, vì một lần tắt lửa thì lại phải xuống núi xin về, cách xa hàng bao nhiêu dặm.
Từ lúc nhận việc nhà chùa, hắn tỏ ra chu đáo lạ thường, chưa có bữa nào để lửa tắt. Một sư bác trên chùa ghét chú tiểu mới, bèn chờ một hôm tiểu ta ngủ say, tưới tắt lửa nhóm ở bếp.
Gần sáng, chú tiểu dậy thấy không còn lửa, nghĩ đến phận sự, vội vã ba chân bốn cẳng vượt mấy khi rừng tìm xuống làng xin lửa. Giữa đường hắn gặp một con cọp già đòi ăn thịt.
-Tôi vui lòng để ngài xơi thịt-hắn nói- nhưng hãy cho tôi chạy xuống làng xin lửa cho nhà chùa rồi tôi sẽ tới nộp mạng.
Cọp bằng lòng để cho đi. Khi đưa được lửa về, hắn kể sự tình và xin phép Hòa thượng cho đi nộp mình cho cọp. Đến nơi, cọp bảo:
-Tao già rồi, răng đã rụng hết mà xương mày cứng khó nhai. Vậy mày hãy trèo lên cây kia buông mình rơi xuống cho gãy xương, tao mới ăn được.
Hắn vâng lời cọp, nhưng khi buông tay thì đức Phật đã đón sẵn rước lên trời, độ cho thành Phật, tức là Phật Nhiên Đăng.
Vị sư bác kia thấy chú tiểu chỉ bằng vài hành động đơn giản mà được thành chánh quả thì cũng muốn như thế. Hắn bèn xin phép Hòa thượng cho mình ra đương việc nấu ăn và giữ lửa. Thế rồi một hôm, hắn cũng giả tảng để cho lửa tắt, rồi cũng chạy xuống núi xin lửa. Và hắn cũng gặp cọp, cũng khất cọp xin đưa lửa về cho nhà chùa dùng rồi sau đó sẽ xin nộp mình. Nhưng đức Phật vốn hiểu rõ những việc làm của hắn xuất phát từ tấm lòng không thành thực, nên khi hắn trèo lên cây và buông tay thì Phật lập tức bắt hắn hóa thành bình vôi.[33]
Một dị bản của truyện trên cũng là một Phật thoại. là Sự tích cái ống nhổ. Ở đây cũng có hai nhân vật chính là chú tiểusư bác. Chú tiểu mới đi tu nhưng rất chăm chỉ và có tinh thần trách nhiệm. Thấy lửa ở đống nhấm tắt( kỳ thực là do sư bácghen tỵ phun nước cho tắt), tiểu không nề hiểm nguy, chạy xuống núi vào lúc mờ sáng để có lửa về kịp nấu ăn cho nhà chùa. Phật hiện ra với trạng mạo một ông già khuyên can chú tiểu đừng đi, nhưng thấy chú cương quyết đi, bèn bảo chú trèo lên cây buông tay xuống, sẽ có kẻ đưa đi an toàn. Quả nhiên chú tiểu buông tay rơi xuống đúng trên lưng một con muông, nó đưa chú xuống làng rồi sau khi xin được lửa, lại đưa về vô sự.
Sư bác vốn không phải là chân tu, nhưng thấy chú tiểu gặp Phật, cũng muốn được như vậy, bèn cũng xin làm nhiệm vụ nấu ăn và giữ lửa. Sau đó hắn đã để tắt lửa và quả nhiên cũng được gặp Phật. Nhưng khi buông tay thì Phật bắt hắn hóa thành cái ống nhổ, miệng luôn luôn há ra cho người ta khạc nhổ vào để tỏ lòng khinh bỉ.[34]

18.SỰ TÍCH CÂY NÊU NGÀY TẾT

Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ, Quỷ đối với Người ngày càng quá tay. Chúng nó dần dân tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt cho chúng nó nghĩ ra là “ăn ngọn cho gốc”. Người không chịu. Chúng nó lấy áp lực, bắt Người phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý. Người cơ hồ muốn chết rũ.
Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như Phật dặn. Quỷ không ngờ Người bắt đầu có mưu kế mới chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước “Ăn ngọn cho gốc”.
Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực, nhìn thấy những gánh khoai núc nỉu chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng nó đành cứng họng không thể chối cãi vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ, Quỷ thay thể lệ mới là “ăn gốc cho ngọn”. Phật bảo Người chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ phó mặc cho bọn Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên bố “ăn cả gốc lẫn ngọn”.Lần này Quỷ nghĩ:-“ Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao”. Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp nơi mọi chỗ.
Năm ấy, lại một lần nữa Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần Quỷ, lại bị một vố cay chua, tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất, không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nó nghĩ:-“Thà không được cái gì còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình”.
Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo Cà-sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo Cà-sa, hễ bóng che bao nhiêu diện tích ở mặt đất là sở hữu của Người ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận,nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời, bèn nhận lời: “Ồ! Bằng một chiếc áo Cà-sa có bao nhiêu”. Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: ngoài bóng che là đất của Quỷ, trong bóng che là của Người.
Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn , tung áo Cà-sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn.Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. tự nhiên trời đất trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế, mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi, lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa phải chạy ra biển Đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.
Tiếc vì đất đai, hoa màu đều thuộc về tay Người, quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó ngao, bạch xà, hắc hổ,v.v… rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người, làm cho quân của Quỷ không tiến lên được.
Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi đò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả,oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đồi lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ:máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.
Lần giáo chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp mọi nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy.
Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. phật bảo người nhặt là lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch.Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.
Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật, dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại bị Phật bắt đày ra biển Đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất, cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại, hứa cho.
Vì thế hằng năm, cứ đến ngày Tết Nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục cũ, trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ Người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ.Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ[35].
Cành đa, lá dứa treo kiêu(cao),
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa, lá dứa thì ta cứa mồm.
Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi Quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp mọi nơi cho Quỷ khỏi quấy. Đàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có mục đích gần như vậy.
Khảo dị 1:
Về sự tích Cây Nêu ngày tết, Việt Nam còn có một truyện khác cũng kể việc đánh nhau giữa Phật và Quỷ, nhưng có nhiều chi tiết khác với truyện kể trên kia. Tuy trong đó có mượn những tên Tấn, Ngụy, Hàn,v.v…nhưng cốt truyện vẫn không có vẻ là của nước ngoài:
Xưa có một ông vua nước Tấn hiếm hoi. Ao ước có một mụn con, vua bèn lập đàn khấn trời cầu tự. Lòng thành của vua cảm động đến Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng hỏi các thiên thần xem ai muốn đầu thai làm con vua Tần, nhưng các thiên thần đều từ chối. Sau cùng Ngọc Hoàng bắt con gái mình là công chúa Lý Hoa giáng sinh làm con vua Tần trong một hạn là 40 năm.
Từ đó hoàng hậu vua Tấn có mang sinh được một người con gái.Vua rất yêu quý đặt tên là Ngọc Chân. Khi công chúa đã đến tuổi lấy chồng, có nhiều con vua các nước láng giềng đến hỏi làm vợ.Vua Tấn không biết gả cho ai, bèn yết bảng ở trước cửa thành rằng: “ Ai có voi chín ngà,gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, ngao chín mắt và chín mâm ngọc quý đem đến thì sẽ gả công chúa”.
Buổi ấy, ở trên tầng mây thứ ba có chúa quỷ cầm đầu một nước dân Quỷ. Ngày 24 thánh chạp là ngày Quỷ xuống hạ giới chơi. Lần ấy, khi Chúa Quỷ đi qua nước Tấn, thấy bảng yết thế bèn hóa phép chỉ trong một chốc có đủ mọi thứ lễ vật, rồi tự xưng là con vua nước Ngụy đến hỏi công chúa Ngọc Chân.
Vua Tấn y ước gả con. Chúa Quỷ ở gửi rể được ba tháng, xin vua đưa vợ về nước. Vua Tấn phái quan quân 500 người hộ tống hai vợ chồng. Khi đến cửa ải, Chúa Quỷ hóa phép làm cho trời tối tăm mù mịt, bão táp nổi lên đùng đùng, quân gia tán lạc, mỗi người một ngã. Thừa dịp đó Chúa quỷ đưa Công chúa cưỡi voi chín ngà đi biệt. Sau khi bão tạnh, quan quân tìm mãi không thấy hai vợ chồng Công chúa, đành trở về triều.
Lại nói chuyện giữa lúc Chúa quỷ nổi gió bão thì chính là lúc Phật Bà Quan Âm đi qua vùng đó.Bà thấy Công chúa mắc nạn, Phật Bà hóa thân xuống làm một bà lão bán hàng đón đường Chúa quỷ để cứu Công chúa. Chúa Quỷ đưa Công chúa đi một quãng xa, thấy đói bụng, bèn nghỉ lại rồi bắt voi rút ruột ra ăn. Công chúa trông thấy rất sợ hãi. Ăn xong, Chúa quỷ đưa Công chúa đi qua mấy khoảng rừng rậm rạp đầy gai góc. Trông thấy một cái quán bán hàng, Chúa Quỷ bèn gửi Công chúa cho bà lão để mình về trước đem quan ra đón vợ. Bà lão bán hàng, tức là Phật Bà Quan Âm, sau khi hỏi Công chúa, biết rõ sự tình bèn trao cho nàng một cái áo khoác và chỉ cho lối về.
Khi Chúa quỷ đưa quân đến nơi thấy mất vợ, nổi giận sai quân bắt bà lão. Nhưng Phật Bà đã sai Kim Cương La Hán phục sẵn mọi nơi, xông ra đánh Quỷ. Hai bên đánh nhau mấy ngày đêm chưa phân thắng bại. Quỷ hỏi Phật sợ gì?-Phật bảo sợ oản chuối. Phật hỏi lại Quỷ sợ gì thì Quỷ đáp là sợ cung tên. Quỷ lấy oản chuối ném quân Phật.Các vị Kim Cương La Hán nhặt lấy làm lương ăn. Trong khi đó Phật làm cung tên bắn vào Quỷ, Quỷ thua. Phật bắt bỏ được bỏ vào túi. Thấy Chúa quỷ van lạy xin tha, Phật đày cả bọn ra biển rồi cắm cây nêu bắt chúng phải ở phía Đông, không được tự tiện vào đất của Phật.
Công chúa Ngọc Chân thoát khỏi tay Quỷ cứ theo đường Phật chỉ, chạy mãi không kể bụi bờ, gai góc chi cả. Qua mấy khoảng rừng rầm đến bờ sông lớn,Công chúa mệt quá bèn trèo lên một hòn đá lớn ngủ thiếp đi. Tình cờ hôm ấy vua Thủy có việc đi qua đó, thấy một người con gái rất đẹp đang ngủ mê mệt, hai bàn chân đầy gai cắm vào, máu chảy ròng ròng, vua bèn tiến lại nhổ gai cho nàng. Đến cái gai cuối cùng cắm sâu quá, nhổ đau, làm cho Công chúa thức dậy.Thốt nhiên Công chúacảm tình với người trai lạ, bèn kể mọi chuyện vừa qua cho nghe.Vua Thủy đưa Công chúa về Thủy cung làm vợ, yêu chiều rất mực.Cũng vì thế những người vợ khác của vua Thủy nổi ghen.Họ lừa khi chồng lên chầu Ngọc Hoàng vắng, đẩy Công chúa xuống một cái vực sâu thẳm đầy thuồng luồng. Nhưng họ không ngờ Công chúa được quân hầu thân tín của vua Thủy cứu thoát.Khi vua Thủy về, Công chúa khóc lóc xin trở về trần.Vua Thủy đành để nàng lên đất, lại cho nàng một cành hoa, dặn hễ lúc nào có việc cần cứ đem cành hoa ra gọi, vua sẽ đến giúp đỡ.
Khi Công chúa Ngọc Chân lên trần thì lên ngay vào giữa địa phận nước Hàn. Người ta đưa nàng về triều.Vua nước Hàn say mê sắc đẹp của nàng bèn lấy làm vợ, yêu mến hơn tất cả các vợ khác.Các cung tần nhà vua thấy thế làm ghen tức,bèn xin vua mở một cuộc thi khâu vá và nấu ăn giữa các vợ vua, ai vụng sẽ phải đày ra lãnh cung. Công chúa không quen việc khâu vá, nấu ăn, đành ngồi bó tay, Nhưng bỗng nàng nhớ đến cành hoa, bèn cầu vua Thủy.
Vua Thủy đến hỏi chuyện đầu đuôi rồi sai bộ hạ giúp nàng.Vua còn hóa phép làm một trận bão lớn, bụi bay mịt mù vào bàn cỗ của các cung tần khác của vua Hàn.Vì thế khi chấm thi, Công chúa được giải nhất,còn các cung tần khác đều bị đày ra lãnh cung. Nhưng Công chúa xin chồng tha cho tất cả. Bọn họ cảm cái ơn của nàng, ai nấy xin vua tôn làm chính cung Hoàng hậu.
Công chúa về sau sinh được hai con trai. Nàng để một con nối ngôi Hàn và một con về nối ngôi Tấn.
Người ta nói ngày 24 tháng chạp là ngày Quỷ hay vào đất liền, nên trồng nêu vào ngày đó[36].
Khảo dị 2:
Ngày Tết Nguyên đán , ở nông thôn, trước đây, nhà nào cũng có cây nêu trước cổng để trừ tà ma, quỷ quái. Cây nêu làm bằng tre trên đỉnh có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa, thêm một hình cung tên, hướng mũi nhọn về phía đông.
Cành đa, lá dứa treo cao,
Vôi bột rắc ngô, chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì quỷ lại ra,
Cành đa, lá dứa thì ta cứa mồm.
(Ca dao)
Ngày xưa,Quỷ sống chung với Người. Quỷ lấn đất của Người, chúng bắt Người làm thuê và đòi chia hoa lợi.
Năm ấy, lúa nẩy hạt, Quỷ đòi ăn ngọn, trả Người gốc. Người bị cướp hết thóc, chết đói như rạ. Phật thương giúp Người chống lại Quỷ. Phật bảo Người trồng khoai lang. Đến mùa, theo luật “ăn ngọn , cho gốc”. Quỷ bị lấy toàn lá khoai, ức lắm nhưng không làm gì được.Năm sau, Quỷ đòi “ăn gốc, cho ngọn”. Năm đó, Người trồng lúa. Người thu hết lúa. Quỷ còn rạ, Quỷ tức sôi lên,mùa tới đòi ăn “ cả gốc lẫn ngọn”. Phật bèn cho Người hạt ngô để trồng. Hoa lợi lại về tay Người. Quỷ uất, đòi lại tất cả ruộng đất, không cho Người làm thuê nữa.
Phật bảo Người tậu của Quỷ một miếng đất rộng bằng chiếc áo cà sa. Người trồng một cây tre, trên mắc áo cà sa, phần đất rợp bóng đến đâu thì Người sẽ lấy đất đến đó. Quỷ nhận lời.
Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn tung áo cà sa bay tỏa thành một miếng vải tròn, Phật hóa phép, cây cao vút lên. Bóng rợp của áo cà sa lấn dần vào đất Quỷ. Quỷ dắt nhau lùi ra tận biển Đông.
Bị Người đuỗi ra biển, Quỷ tiếc đất đai, của cải nên chúng chiêu hồi ma quỷ tìm cách cướp lại đất. Phật cầm gậy xích tầm giúp Người diệt đội quân ma quỷ.
Dùng vũ lực không thắng nổi Người, quỷ giở trò đấu trí. Quỷ tưởng Phật sợ hoa quả, oản chuối, xôi, cơm nắm, trứng luộc. Quỷ ném xôi, oản chuối, cơm nắm, trứng vào Phật. Người thu lấy làm lương ăn. Người dùng tỏi, lá dứa, máu chó, vôi bột, ném tung tóe vào Quỷ. Lũ Quỷ gian tham chạy tán loạn. Cuối cùng Quỷ phải vái lạy Phật, xin hằng năm được phép về đất liền thăm phần mộ tổ tiên. Vì thế, ngày Tết Nguyên đán, Quỷ thường kéo nhau về. Người trồng cây Nêu đuổi Quỷ.
Chuyện Cây nêu ngày Tết nhắc nhở mọi người sống với nhau công bằng. Người lao động phải được hưởng thành quả lao động. Những kẻ gian tham, bóc lột tước đoạt công sức lao động của người khác sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng. Đó là ước mơ của nhân loại.
(Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu: Điển tích Văn học,NXBGD,1996).

19.SỰ TÍCH HỒ BA BỂ

Vào hồi đó, ở xã Nam Mẫu có mở một hội “ vô già” cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như: buông cá, thả chim,v.v…để cầu phúc trong mấy ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày.Người ta không biết mụ ta từ đâu lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc; những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: -“Đói lắm các ông các bà ơi!” Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn.
Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi, nhất là các cô gái cho mụ là hủi, nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng “ Nam Mô Phật” lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội.
Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu tiến vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp,người mẹ đưa về nhà mình, lấy cơm nguội cho ăn.
Khuya hôm đó, hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ người ta đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác.
Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy cái chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất.Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi.
Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chả thấy giao long dâu cả.Trên chõng, mụ ăn mày già đã dậy và sắp sửa ra đi.Trước khi từ biệt mụ nói:
-Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có hai mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong đêm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh.
Người mẹ băn khoăn hỏi thêm:
-Nhưng làm thế nào để cứu mọi người?
Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói:
-Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp cho hai mẹ con làm việc thiện.
Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe chỉ mĩm cười, cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó, giữa đám hội náo nhiệt lúc thiện nam tín nữa đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên lại càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ mong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái, đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. Ở dưới chân họ, đất nứt nẻ, rung động, hất họ ngã xuống. Bỗng chốc, một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước hiện ra bay vòng quanh xã Nam Mẫu.Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc được nâng cao hơn mực nước.
Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền.Thế rồi, mặc gió, mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi,cố sức vớt những người bị nạn.
Chổ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy, tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương thường gọi là Pò-già-mải.[37]

20.SỰ TÍCH ĐẦM NHẤT DẠ hay BÃI TỰ NHIÊN

Vua Hùng Vương thứ ba có một nàng công chúa rất xinh đẹp. Người ta nói thuở mới lọt lòng, nàng được các bà tiên tô điểm, nên về sau mới có nhan sắc như thế. Vì vậy vua đặt tên là Tiên Dung. Vua Hùng là người hay nuông con. Đối với Tiên Dung vua lại càng yêu chìu, muốn gì được nấy.
Nhưng công chúa Tiên Dung chỉ có mỗi một sở thích là đi chơi mọi nơi trong nước. Vua phải sắm cho nàng một chiếc thuyền rất xinh, có đủ mọi người hầu hạ và mọi thức cần dùng. Mỗi năm vào khoảng cuối mùa xuân, chiếc thuyền công chúa bắt đầu xuất phát. Cho đến lúc những con chim hậu điểu bay từng đàn ở phương Bắc sang thì công chúa mới trở về cung cấm.Cũng có lúc công chúa quá vui quên cả về, làm cho vua lo lắng. Năm nàng mười tám tuổi, từng có một vài hoàng tử ở các nước láng giềng ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng công chúa nhất thiết từ chối. Nàng nói với vua Hùng trong một bữa tiệc:
-Cha à! Con sẽ không lấy chồng đâu!
Lúc bấy giờ làng Chử xá, có người đánh cá tên là Chử Cù Vân, sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo nhưng họ sống rất vui vẻ trong túp lều dựng trên bãi cát.
Không may một hôm trong khi cha con đi câu vắng, ở nhà lửa bén cháy sạch chả còn tỳ gì. Hai cha con chỉ còn có một bộ đồ nghề và mỗi một cái khố vải đang mặc.Chiếc khố độc nhất ấy dùng để làm vật che thân cho hai mỗi lần ra ngoài, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc.
Cha con họ Chử hết hạn này lại tiếp nạn khác. Chử Cù Vân tuổi già thiếu áo không chịu được lạnh, dần dần sinh bệnh. Bệnh của ông mỗi ngày một nặng. Trước còn gắng gượng đi câu được, nhưng sau nằm liệt ở nhà. Một hôm biết mình sắp chết, ông gọi con lại dặn dò mọi việc.Qua hơi thở phều phào, ông trối:
-Có mỗi một chiếc khố…con giữ lấy mà mặc…cứ chôn trần là được rồi!
Nhưng Chử Đồng Tử rất thương cha, không muốn để người chết lạnh lẽo,-“Rồi ta sẽ cố kiếm nhiều cá để đổi lấy một cái khố khác!”.Nghĩ thế, anh quyết định dùng chiếc khố độc nhất đó cuốn cha lại từ đầu đến chân. Rồi chờ đến nửa đêm, anh đưa lên cồn cao vùi lại.
Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, nên phải làm việc ban đêm. Cứ đến chiều hôm, khi không còn trông rõ mặt người nữa, anh bắt đầu ra bãi câu cá. Cho đến mờ sáng, anh sẽ lội ngập nửa người, lần mò đến bến đổi cá cho những thuyền buôn lấy gạo.Thế rồi lại lội đến bến vắng người, lẻn về lều của mình nấu ăn và ngủ một giấc đến chiều mới dậy. Rồi lại ăn uống và chuẩn bị đi câu nữa. Đồng Tử đã sống một cuộc đời cô đơn lẩn lút như thế đã hơn hai năm. Có lúc anh câu được nhiều cá, lúc ít cá không chừng. Cũng có lúc không câu được gì cả đành phải men theo các thuyền xin ăn. Nhưng chả có lúc nào câu được một số cá đủ để đổi lấy một cái khố cả. Vì thế anh vẫn phải chịu trần truồng mãi. Một hôm, Đồng Tử đang mang cá đổi gạo thì chợt có tiếng huyên náo. Mọi người kháo nhau có thuyền của công chúa sắp tới địa phương.Từ đàng xa, chiếc thuyền sơn hiện ra mỗi lúc một lớn,có quân gia cờ quạt, chiêng trống đàn sáo vang động cả một khúc sông. Thấy mọi người đổ ra đường, ra bến đi xem rất đông, Chử Đồng Tử bí lối không về lều được. Anh đành rúc vào một bụi lau ở bãi rồi bỗng nghĩ ra được một kế giấu mình kín hơn là bới cát thành một cái huyệt rồi nằm xuống, tự vùi mình lại.
Giữa lúc đó, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó, nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín chỗ lau sậy để tắm. Không ngờ chỗ mà bọn thị tỳ quây màn lại chính là chỗ Đồng Tử vùi mình dưới đó. Anh nằm dưới đất chả biết gì hết, chỉ nghe tiếng chân người giẫm thình thịch và tiếng nước dội rào rào.Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm, cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra. Biết là bại lộ, Đồng Tử ngượng ngùng ngồi nhỏm dậy. Công chúa xiết bao kinh ngạc, khi thấy có một người lạ cũng trần truồng như nàng ở trong màn. Thoạt đầu Tiên Dung tưởng là ma quái, toan la lên để bọn quân hầu vào cứu, nhưng thấy người con trai đó chẳng có chút gì là độc ác, nên nàng cố trấn tĩnh, ôn tồn bảo:
-Người là ai? Tại sao lại vùi mình ở đây? Nói mau!
Nghe người trai lạ kể nông nỗi của mình, công chúa rơm rớm nước mắt. Nàng không ngờ trong đất đai của cha nàng trị vì lại có hạng người đói khổ đến nỗi không có lấy một mẫu vải che thân.
Cảm lòng chí hiều của người con trai ngồi trước mặt, Tiên Dung nói một mình:-“Ta đây không thích lấy chồng, nay lại gặp người này trong huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng?” Bỗng chốc nàng đưa gáo cho Đồng Tử:
-Thôi người hãy dậy mà tắm rửa đi!
Bọn thị tỳ và lính tráng hôm đó rất lấy làm sững sốt vì thấy từ trong màn bước về thuyền không phải một mình công chúa mà là hai người và người thứ hai lại là một chàng trai khỏe đẹp. Rồi nàng ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống, hoan lạc. Bấy giờ trước mặt mọi người, công chúa thẳng thắn kể cuộc gặp gỡ kỳ dị lúc nãy rồi nói:
-Người này sẽ là chồng tôi!
Nghe thế Chử Đồng Tử đỏ mặt:
-Tôi không dám, không dám.
Tiên Dung bảo:
-Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà phải từ chối.
Tất cả đều theo ý Tiên Dung. Duy chỉ có hai viên quan hầu và một số thị tỳ, lính tráng không cho là cuộc phối hợp tốt đẹp. Nhưng thấy công chúa táo bạo lại thường được vua chìu chuộng cho nên cuối cùng họ cũng không dám cản. Và rồi hôn lễ cử hành ngay trên sông, có một số đông bô lão địa phương tới dự.
Nhưng khi tin bắn về cung, vua Hùng không ngăn được cơn giận dữ. Vua giận bảo quần thần rằng:
-Thà nó không có chồng còn hơn. Thực là đốn mạt! Tại sao nó không chịu hỏi ta? Thôi từ nay nhất thiết cấm cửa. Hễ nó vác mặt về Phong Châu thì cho phép Lạc tướng chém chết trước tâu sau.
Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về, mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch. Dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn,(nay là chợ Hà Loa), thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán. Có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:
-Quí nhân xuất ra một thỏi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra biển mà mua vật quí, sang năm sẽ lời được một thỏi.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:
-Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho. Bây giờ nên lấy một thỏi vàng cùng với nhà buôn ra ngoài biển mà mua hàng làm kế sinh nhai.
Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn, Họ dong buồm đi về phương Nam. Giữa biển có một ngọn núi tên là Quỳnh Viên, trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đây mà múc nước ngọt.
Đồng Tử lên chơi trên am, có một đạo sĩ tên là Phật Quang đang ngồi định thần trên một phiến đá. Anh bước tới toan cất tiếng thì người kia đã hỏi trước:
-Thằng bé Chử! Sao lại muộn thế?
Biết là bậc thần dị, anh phủ phục xuống bên cạnh người lạ, xin làm đồ đệ. Đạo sĩ truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, hẹn lúc nào về thì ghé lại am chở Đồng Tử về. Đạo sĩ mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:
-Linh thông tại đây đó.
Đồng Tử trở về đem chuyện kể lại cho Tiên Dung nghe và truyền đạo Phật lại cho vợ, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, ghe buôn đem nhau đi tìm thầy học đạo.
Một hôm trời đã tối mà chưa tới nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy, úp nón lên trên để che sương. Đêm đến canh ba, bỗng có tiếng chuyển động dữ dội. Thế là phút chốc thấy hiện ra thành quách, lầu son, đền báu, đài cát, lăng miếu, kho tàng, miếu xã, vàng bạc châu báu, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng, ngọc nữ, tướng sĩ, thị vệ la liệt, đầy ở trước mặt. Sáng ngày, ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần.Văn võ bá quan, phán quan tục vệ, biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay tin, cho là con gái của mình làm loạn, tự nhiên lòng giân lại bốc lên bừng bừng, mới phát binh đi đánh. Quan quân đến rồi, quân đội của Lạc tướng đã hạ trại án ngữ ở bên kia bờ sông.Tiên Dung cười bảo:
-Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun rủi.Sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điêu chính, chờ lệnh chém giết.
Lúc bấy giờ, những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bải Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn, ngày sắp tối nên chưa kịp định binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng, đổ cây, quan quân đại loạn bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời, đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn, đầy nước trắng xóa. Duy chỉ có cái nền cung của hai vợ chồng công chúa thì vẫn còn. Người ta gọi cái đầm ấy là đầm Một Đêm ( Nhất Dạ) và cái nền ấy là bãi Tự Nhiên.Về sau trên cái nền ấy,người ta có lập miếu thờ hai vợ chồng Chử Đồng Tử.[38]

21.HUYỀN THOẠI VỀ NGUYÊN PHI Ỷ LAN

Cho đến bây giờ người ta chưa biết ngày sinh của bà và lịch sử ghi lại ngày bà mất khoảng tháng 6 hoặc tháng 7 năm Đinh Dậu (1117).
xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thổ Lỗi ( sau đổi là Siêu Loại, nay là làng Sủi,xã Thuận Quang, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Tên thật của bà là gì cũng chưa ai nêu được rõ, chỉ biết bà là một người con gái xinh đẹp, chăm chỉ, chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm.
Tương truyền rằng lúc bấy giờ vua Lý Thánh Tông (1023-1072) đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi. Nhà vua và triều đình rất buồn phiền, thường đi cầu tự ở các đền chùa. Một hôm, nhà vua được các quan hộ giá đi cầu tựchùa Dâu ( Thuận Thành-Bắc Ninh). Nhân dân già trẻ, trai gái kéo nhau ra các làng ven đường xem rước vua.Riêng cô gái làng Sủi vẫn dửng dưng trước tiếng chiêng trống khua vang, cờ xí ngợp trời, nhân dân hò reo chúc tụng nhà vua. Cô gái vẫn không ngừng tay hái lá, ẩn hiện trong nương dâu. Tới khi xe vua tới gần, chị em bạn bỏ chạy ra đường xem trước, cô mới tạm ngừng tay đứng tựa gốc cây, mắt lơ đãng nhìn xa.
Thấy bóng cô thôn nữ một mình thấp thoáng trong ruộng dâu, nhà vua lấy làm lạ, sai người đòi cô đến trước xe hỏi chuyện. Cô bước tới trước xe vua, quỳ tâu:
-Thiếp là con nhà nghèo, phải làm việc đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng mẹ cha, không dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng.
Thấy cô gái xinh đẹp, ăn nói lễ phép, dịu dàng, nhà vua lại đang đi cầu tự nên rất ưng ý, bèn truyền đưa cô về cung, xây riêng cho cô một cung để ở, gọi cô là Ỷ Lan cung phi. Cái tên Ỷ Lan đặt ra là để ghi sự tích nhà vua gặp cô thôn nữ xinh đẹp đứng tựa gốc cây ngày nào bên quê Bắc Ninh. Và từ đấy người ta quen gọi là bà Ỷ Lan ( tương truyền rằng cung của cô được xây, sau này là chùa Kim Cổ, này là số nhà 73 phố Đường Thành, Hà Nội).
Ít lâu sau, Ỷ Lan sinh con trai (sau này là vua Lý Nhân Tông, một ông vua nổi tiếng thương dân), Lý Thánh Tông càng yêu quý Ỷ Lan gấp bội. Nàng được tôn làm Nguyên Phi Ỷ Lan(đứng đầu các phi, sau này được phong làm Hoàng hậu); con trai nàng được phong làm Thái Tử.
Điều nổi bật nhất ở con người này là tài kinh bang tế thế. Sử cũ chép rằng: Bà Nguyên Phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến nhân tâm hòa hiệp, đất nước được thanh bình. Nhân dân tôn sùng, đạo Phật tôn bà là “Quan Âm nữ”.
Khi vua Lý Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành hay tràn sang bờ cõi nước ta để quấy phá, đánh lâu mà không thắng, nhà vua đem quân trở về. Đến Châu Cư Liên ( Tiên Lữ-Hưng Yên), vua hỏi thăm nhân dân về tình hình đất nước khi vua vắng mặt ở kinh thành, nhân dân đều hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan Nguyên Phi được tạm giao quyền nhiếp chính. Nhà vua thở dài:” Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông lại tầm thường thế hay sao?” và nhà vua lại quay đi đánh giặc và lần này thắng to.
Trong hai lần chống quân Tống xâm lược( 1075-1077), vua Lý Nhân Tông còn bé, mới lên 10 tuổi, bà Nguyên Phi Ỷ Lan đã cùng triều đình bày mưu đánh giặc, tạo nên những kỳ tích trong cuộc chống Tống bảo vệ độc lập cho nước nhà. Lý Thường Kiệt điều binh khiển tướng xông pha trận mạc ngoài chiến trường, còn bà đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành dốc sức lo việc triều chính, việc hậu phương.
Là người xuất thân từ nông dân nên bà rất hiểu đời sống của dân lành. Khi Lý Thánh Tông vừa băng hà, con bà lên ngôi còn bé, bà đã nhiếp chính việc triều đình thay con và đã làm được nhiều việc có lợi cho người nông dân ở nông thôn bấy giờ. Có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình, hoặc cha mẹ đem bán, đem thân thế nợ không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền cọc trong kho nhà nước chuộc cho những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.
Ỷ Lan rất chú trọng đến việc khuyến nông và hiểu rằng” Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Để phát triển nông nghiệp, bà đã nhiều lần nhắc nhở vua Lý Nhân Tông phạt tội nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu.Trước khi bà mất, tháng hai năm Đinh Dậu (1117), bà còn nhắc vua Lý Nhân Tông một lần nữa:
-Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề ăn trộm trâu. Nông dân cùng quẫn, mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây ta đã mach việc ấy và Nhà Nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại còn nhiều hơn trước.
Tuân lệnh mẹ, vua Lý Nhân Tông, năm Đinh Dậu (1117) đã xuống chiếu rằng: “ Những kẻ ăn trộm trâu làm thịt, xử tội 80 trượng, đồ làm lính, vợ cũng xử 80 trượng, đồ làm người đàn bà nhà tằm, cùng nhau phải đền cho người mất trâu,láng giềng không tố cáo cũng xử 80 trượng”. Đến tháng 4 năm Quý Mão, nhà vua lại có lệnh cấm giết trâu.Vua xuống chiếu rằng: “ Con trâu làm việc cày cấy rất trọng, có lợi cho người ta không ít, từ nay về sau cứ 3 nhà làm một “bảo” vô cớ không được giết trâu ăn thịt, nếu trái lệnh thì đưa ra hình hiến trị tội”.
Bà Nguyên Phi Ỷ Lan không những giỏi giang việc chính trị, chăm sóc kinh tế, làm cho đời sống nhân dân được thịnh vượng, còn là người chịu khó học hỏi, hiểu biết nhiều và rộng. Qua việc trao đổi với các vị Sưgià, học rộng bà đã trao đổi về nguồn gốc đạo Phật trên thế giới và nước ta. Câu chuyện được sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục đời Trần ghi lại và chính vì vậy đến nay còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật và nước ta.
Bà đã xây dựng hơn 100 ngôi chùa tháp nổi tiếng, có quy mô to lớn bề thế với những dáng hình, cấu trúc phong phú, bền chặc, bố cục đăng đối, trang trí đẹp mắt…và chỉ có một số ít ỏi di tích đó còn lại đến nay như chùa Phật Tích Tiên Sơn-Bắc Ninh (1100), chùa Bà tấm hay còn gọi là Linh Nhân Từ Phúc, mang chính tên hiệu Ỷ Lan(1115).
Mùa thu, tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), bà qua đời. Thi hài bà được hỏa táng theo tục lệ nhà Phật.
Câu chuyện đến nay còn được nhân dân truyền tụng về “Bà Tấm xứ Bắc” là như thế đó. Sử sách thì còn cho rằng cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII, có thể gọi là “ Thời đại Ỷ Lan” của Thăng Long-Đại Việt, một thời đại,một vương triều đã biết” lấy dân làm gốc”.
(Toàn cảnh-Sự kiện Dư Luận-Cơ quan, Bộ VHTT,số 106-1999)

22.SỰ TÍCH SÔNG NHÀ BÈ hay TRUYỆN THỦ HUỒN

Ngày xưa ở Gia định có một người tên là Thủ Huồn.Hắn xuất thân làm thư lại. Trong hơn hai mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của. Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết. Ngoài số chôn cất, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn”giạ”lúa.’
Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả.
Một hôm, có người mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh Ma ở Quảng yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một tháng sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu.
Khi gặp vợ,Thủ Huồn không dám gỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kễ cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ:
-Mình lâu nay làm gì?
-Tôi làm vú nuôi trong cung vua, Cuộc đời tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
Hắn nói:
-Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có được không?
-Đi được.Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng đi.Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rung mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:
-Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục, trước mặt là cung Hoàng hậu, chỗ tôi trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được.Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó, người vợ về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:
-Chỉ có cung vua và cung hoàng hậu thì đừng có vào, còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục.Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn.Qua mấy phòng chuyên mổ bụng, móc mắt, cắt tay,v.v…hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế.
Sau cái bàn xẻo thịt là cả một khi gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục:
-Thứ gông này để làm gì?
-Để chờ một thằng ác nghiệt ở trần xuống đây.Bao nhiêu cái gông trong này đều đã có chủ cả. Cứ xem to hay nhỏ thì biết tội ác của nó.
Thủ Huồn lại hỏi:
-Thế cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai?
Lão cai ngục thủng thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: “ Hắn là Võ Thủ Hoằng[39]tức là Thủ Huồn”. Rồi nói tiếp:
-Thằng cha đó ở Đại Nam Quốc, Gia Định tỉnh Phúc Chính huyện…
Nghe nói thế, Thủ Huồn giật mình mặt xám ngắt, Nhưng hắn vẫn giữa được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi thêm:
-Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn không rời quyển sách:
-Khi làm thư lại, hắn bẻ mặt ra trái, làm bao nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy đây. Này nghe tôi đọc này: năm Ất Sửu hắn sửa hai chữ “ngộ sát”thành “cố sát” làm cho hai mẹ con Thị Nhàn bị chết để cho người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc, một trăm quan tiền.Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình Ca bị hai mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng .Năm…
Thủ Huồn tái mặt, không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn một.Hắn ngắt lời đánh trống lãng:
-Thế vợ hắn có cùng đeo gông không hở ông?
-Ồ! Ai làm người ấy chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng:
-Ví thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào?
Lão cai ngục bỏ sách xuống bàn đáp:
-Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp được bố thí và cúng lễ cho hết đi.
Từ biệt lão cai ngục và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa. Vợ thấy chồng đòi về , lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm Vương và ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay, hắn bảo vợ:
-Tôi về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống.Mình nhớ lên đón nghe!
Về tới Gia Định, Thủ Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát cho họ tiền,lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư sãi các chùa gần vùng tới nhà mình cúng cơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường.Ai xin gì được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn.Nhiều người bảo nhau:-“Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thế nào cũng chả làm gì nên tự làm cho vơi bớt”. Thủ Huồn có nghe rất nhiều lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sốt, cứ việc quẳng của không tiếc tay.
Cư như thế sau ba năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tan được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh Ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống thăm cõi âm một lần nữa.
Khi trở lại nhà ngục, Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về trước. Cách bố trí y hệt như xưa; cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay,v.v..Duy chỗ để gông xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái trước lớn nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ đã rút ngắn lại, tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tí. Hắn lân là hỏi lão cai ngục:
-Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ hình như tolắm thì phải.
-Đúng đấy!Lão đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi, nên nó đã nhỏ lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất, trở về Gia Định.Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng.Lần này hắn bán hết tất cả những gì còn sót lại , kể cả nhà cửa của mình.Hắn đến Biên Hòa dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng Nai để làm một việc nghĩa cuối cùng. Hồi đó, ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Gia Định việc đi lại rất bất tiện, cũng vì thế mà bên kia sông Đồng Nai người ta còn ngần ngại chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn bèn quyết định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình, kẻ năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền.Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung Quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi nhà vua mới sinh, người ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”, nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Huồn là ai? Sau khi sứ giả cho biết rõ lai lịch Thủ Huồn, vua Trung Quốc có cúng vào ngôi chùa Biên Hòa ba pho tượng vàng. Do việc đó, người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất cái gông chờ hắn ở cõi âm, mà còn được Diêm Vương cho đi đầu thai làm vua Trung Quốc.
Ngày nay, ngôi chùa ở Biên Hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng Nai và Gia Định, còn gọi là sông Nhà Bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách bộ hành Nam Bắc qua con sông đó[40].Có câu tục ngữ:
Nhà Bè nước chảy phân hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Khảo dị:
Truyện trên giống với truyện Người đi dạo âm phủ cũng do Génibre sưu tập:
Có hai vợ chồng một người Nam Định, nhà giàu có lớn. Họ sinh được một cô con gái rất xinh và khôn ngoan, tên là Trần Thị Xuân. Đặc biệt là mỗi bàn tay của cô có sáu ngón. Không may năm nàng mười ba tuổi, thì bị lên đậu trời mà chết.Thương nhớ con gái, hai vợ chồng không thiết làm ăn gì nữa. Nghe nói ở Quảng yên có chợ Mạnh Ma, ở đấy dương gianâm phủ có thể gặp nhau được. hai vợ chồng bèn tìm đến, mong được gặp con.Họ có mang theo một cái quả bằng bạc sắm cho cô gái lúc còn sống. Nhằm ngày mồng một tháng sáu, họ đã đến chợ giả bày hành ra bán. Lát sau, người con gái đến hàng mua trầu, trông thấy cái quả của mình liền hỏi chuyện. Cha mẹ nhận ra con nhờ có bàn tay sáu ngón của cô và được con mời đi dạo cảnh âm phủ.
Chồng của cô là một viên quan giám thành, đưa cha mẹ vợ đi coi các cửa ngục. Khi đến cửa thứ nhất, hai vợ chồng thất kinh thấy tên tuổi của họ có yết ở cửa ngục. Họ vờ hỏi chàng rể tại sao có tên yết ở cửa, thì hắn bảo:-“ Hai người đó ở dương gian cho người ta vay nợ một lớp vốn năm bảy lớp lời làm cho người ta phải bán vợ đợ con nên yết lên để chờ làm tội”. Hai vợ chồng lại hỏi:-“Vậy chúng nó muốn khỏi tội thì phải làm thế nào?”.-“Phải làm chay bố thí cho hết của đó, mới mong thoát khỏi được”.
Trở về làng cũ, hai vợ chồng dốc của cải ra đón sư làm chay và mạnh tay bố thí. Sau khi hết của họ lại lần mò ra chợ Mạnh Ma tìm con gái và định đòi xuống âm phủ xem thế nào.Nhưng cô gái vừa gặp cha mẹ đã bảo:-“Cha mẹ đã sạch tội rồi, không còn thấy tên ở cửa ngục nữa. vậy chả cần xuống làm gì”.
Cả hai truyện trên có lẽ chịu ảnh hưởng từ một số Phật thoại Phật giáo trong đó có truyện Mục Liên thăm mẹ ở địa ngục khá phổ biếnViệt Nam.
Phần cuối truyện Thủ Huồn tương tự với Sự tích sư ông Huyền Chân và Truyện bà Hiếu.
Sự tích sư ông Huyền Chân; Xưa, ở chùa Quang Minh, xã Hậu Bổng (Hải Dương) có một Hòa thượng nổi tiếng chân tu. Lúc về già, Phật Di Đà hiện lên báo mộng rằng:-“Nhà ngươi có công với đạo Phật, kiếp sau sẽ cho giáng sinh làm vua Trung Quốc”. Khi Hòa thượng chết, đệ tử vâng lời thầy viết vào vai mấy chữ: “ Hòa thượng Huyền Chân chùa Quang Minh”.
Về sau, có lần Sứ bộ Việt Nam sang Trung quốc. Khi yết kiến, chính sứ Nguyễn Tự Cường được vua Minh Hy Tông cho biết là mình sinh ra trên vai có mấy chữ, rửa mấy cũng không sạch, không biết đầu đuôi vì sao. Nguyễn Tự Cường về dò hỏi mới biết câu chuyện sư Huyền Chân, vội mang nước giếng chùa Quang Minh sang cho vua Trung Quốc.Kết quả, nước rửa đến đau chữ mất đến đấy.[41]
Truyện bà Hiếu: Ở làng Linh Chiểu Đông ( Gia Định) có người đàn bà tên là Hiếu, nhà giàu, không có con cái.Bà bèn lập chùa Hoa Nghiêm bao lấy một khoảng đất rộng để cho kẻ nghèo chôn cất làm phúc. Nhờ có công đức đó, nên khi chết được đầu thai làm con gái vua Trung Quốc.Công chúa khi đẻ ra có chữ son” Gia Định, Linh Chiểu Đông, chùa Hoa Nghiêm”. Vua Trung Quốc cho là sự lạ,gửi giấy sang hỏi bên ta. Sau đó vua sai cúng vàng bạc vào chùa và xin đưa bài vị sang để thờ.Làng không chịu, chỉ làm một bài vị khác đưa sang cho vua Trung Quốc.[42]

23.KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG HAY SỰ TÍCH TRÂU VÀNG HỒ TÂY

Ngày xưa vào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng lồ. Nhìn thấy thân thể ông, các tay lực sĩ trong triều ngoài quận đều khiếp sợ, mặc dầu ông chưa từng đọ sức với ai.Từ trẻ, Khổng lồ đã đi tu, ông thường đi chu du thiên hạ.Vật tùy thân của ông là một cây gậy sắt nặng không thể tưởng tượng được. Lại có một cái đãy rất mầu nhiệm. Đãy trông không khác gì những đãy thường, nhưng có thể bỏ lọt vào đấy bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh, dù chất chứa thế nào cũng không đầy và cũng không to thêm.
Buổi ấy nhà vua cần nhiều đồng để đúc các khí vật thờ Phật, nhưng ngặt vì ở đất Việt không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ, nhà vua cho triệu đến kinh nhờ sư đi sang Trung Quốc quyên giáo. Khổng Lồ nhận lời và xách đãy đi về phương Bắc.
Sau bao nhiêu ngày trèo non, lội suối, Khổng Lồ đã đến kinh đô Trung Quốc. Thấy một nhà sư to lớn xin vào yết kiến, vua Trung Quốc lấy làm lạ hỏi:
-Hòa thượng từ phương nào lại và đến đây làm gì?
Ông đáp:
-Chúng tôi cầu cầu Bệ hạ một ít đồng đen để mở rộng Phật pháp trong nước Đại Việt.
Vua ngỡ là còn nhiều người theo ông nữa, bèn hỏi:
-Quý quốc cần dùng bao nhiêu đồng? Hòa thượng đem theo cả thảy bao nhiêu đồ đệ?
Khổng Lồ giơ tay lên và tâu:
-Kẻ hạ thần chỉ sang có một mình và củng chỉ xin một đãy này là đủ.
Thấy cái đãy bé tí, Vua Trung Quốc mĩm cười:
-Hòa thượng có lấy cả trăm đãy, trẫm cũng vui lòng, huống chi là một đãy.
Đoạn vua sai nội thị mang lệnh cho quan giữ kho, mở kho đồng đen cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiêu thì lấy.
Trước khi vào kho phải đi qua một cái sân rộng. Ở đó có một cái nền gạch, trên nền dựng tượng một con trâu bằng vàng to như một cái nhà, sáng chóe cả một vùng trời đất. Quan giữ kho chỉ vào con trâu vàng hỏi đùa nhà sư:
-Hòa thượng có cần dùng cả con trâu này không?
-Không, tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi.
Rồi đó, Khổng Lồ trút tất cả đồng trong kho lọt thỏm vào đãy của mình mà đãy vẫn còn vơi. Đoạn Khổng Lồ mắc đãy vào đầu gậy quảy về nước.
Quan giữ kho thấy hết nhẵn cả đồng, vội vã đem sự việc trình báo cho vua mình biết.Vua Trung Quốc không ngờ có sự phi thường như thế, lấy làm hối và tiếc, bèn sai năm trăm quân sĩ đuổi theo Khổng Lồ. Lúc ấy mặc dầu gánh nặng đè trên vai, nhưng Sư cũng đã đi được ba trăm dặm đường. Vừa đến một khúc sông rộng, Sư bỗng nghe tiếng reo dậy trời ở sau lưng. Ông ngoảnh cổ lại thấy bụi bốc lên mù mịt, đoán biết là vua Trung Quốc đã cho quân đuổi theo. Ông lật đật thả chiếc nón tu lơ xuống nước, đặt đãy lên rồi vừa bơi vừa đẩy qua sông. Bọn quân sĩ vừa tiến đến bờ thì Khổng Lồ đã ra đến giữa sông rộng. Bọn chúng đánh lừa nói rằng:
-Hòa thượng hãy chờ một tí, Hoàng đế cho chúng tôi khiêng giúp đồng và hộ tống ngài về.
Nhưng Khổng Lồ nói với lên:
-Bần Tăng gửi lời về cám ơn lòng tốt của Hoàng đế.Còn như cái đãy này để mặc Bần Tăng mang lấy, đâu dám làm phiền đến thiên sứ.
Bọn chúng biết là không thể đuổi kịp, bèn quay lại.
Sau đó, Khổng Lồ cứ theo dọc bờ biển đi bộ lần về phương Nam. Đến một cửa sông, ông gặp một chiếc tàu lớn, sắp sửa kéo buồm sang nước Việt. Khổng Lồ đặt đãy ở bến, đến gặp người chủ tàu xin cho đi nhờ. Chủ tàu thấy một mình Hòa thượng với một chiếc đãy, ước lượng không nặng thêm cho tàu bao nhiêu nên vui lòng cho ông đi.
Nhưng khi một thủy thủ xuống bến xách đãy hộ cho nhà sư lên tàu thì anh ta cảm thấy chưa bao giờ có vật nào nặng đến như thế.Người thứ hai nữa xuống giúp cũng chịu. Người thứ ba, thứ tư, cho đến mọi thủy thủ trên tàu cùng nhau khiêng, ai nấy đều cũng phải lắc đầu vì chiếc đãy vẫn không hề nhúc nhích.Bấy giờ Khổng Lồ ở trên tàu xuống, cười và bảo:
-Để Bần Tăng tự mang lên cho, không phiền đến các người!
Nói rồi một tay xách đãy, một tay cầm nón và gậy bước lên tàu trước mắt kinh ngạc của mọi người.
Thấy tàu quá nặng, nước mấp mé then, mọi người ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ bảo họ:
-Các người chớ ngại, tôi quyết không để cho tàu chìm đâu.
Thuận buồm xuôi gió, tàu rẽ nước đi băng băng. Được mấy ngày, bỗng xảy ra một trận phong ba dữ dội. Một con ngô công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa đang vẫy vùng sóng gió chồm đến toan nuốt tàu. Mọi người trên tàu chòng chành, vô cùng kinh sợ.Khổng Lồ nói to:
-Các người cứ ngồi yên, để mặc ta trừ con quái vật này!
Nói đoạn sẵn có quả bí lớn, ông cầm lấy đứng ở mũi tàu ném vào miệng ngô công. Ngô công vừa đớp lấy thì ông đã nhảy xuống nước cầm gậy đánh vào mình nó. Ngô công chạy không kịp bị gãy xương, đứt làm bao đoạn và hiện thành ba hòn đảo nổi lên giữa biển. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng, tàu lại đi một mạch về tới đất Việt.
Về tời kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi việc. Vua sai Sư đem đồng ra đúc bốn thứ bảo khí thờ Phật để mọi người ngưỡng mộ và lưu truyền lâu dài lại ngàn đời sau.Khổng Lồ bèn cho gọi bao nhiêu thợ đúc tài giỏi trong nước đến, rồi mổ đãy lấy đồng ra chia làm bốn phần. Đầu tiên ông đúc một cái tháp cao chín tầng, gọi là tháp Bảo Thiên.Tháp đúc xong hiện ra giữa kinh thành vòi vọi, đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng Phật cao vừa 6 trượng, một cái đỉnh to vừa bằng 10 người ôm. Rồi còn lại bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả “hồng chung”…Chuông đúc xong to lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh lên hồi đầu tiên, tiếng ngân vang cùng khắp bốn cõi, vang vang đến tận Trung Quốc.
Lại nói chuyện con trâu vàng nằm trước kho đồng của nhà vua Trung Quốc, khi tiếng chuông , nó tự nhiên như được thức tỉnh dậy. Vì đồng đen là mẹ của vàng, cho nên do tiếng ngân ấy, nó biết là mẹ nó đã ở nước Việt. Nó bèn đứng dậy vươn người rồi ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang Nam, không một sức mạnh nào có thể cản nổi. Cuối cùng nó tìm đến quả chuông do Khổng Lồ mới đúc, hôn hít hồi lâu rồi nằm xuống bên cạnh.
Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, Khổng Lồ tự nghĩ:-“Nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng trong bốn bể sẽ qui tụ về nước mình, mà đà như thế thì sẽ rất nguy hiểm, vì sẽ gây hiềm khích với mọi nước”. Ông bèn tâu vua đem quả chuông ném cho mất tích để tránh cuộc đao binh tai hại có thể xảy tới.Nhận thấy lời tâu có lý, vua đành phải đồng ý. Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi, xách quả chuông vứt xuống hồ Tây. Chuông bị tung lên không bay ra giữa hồ, vang lên một hồi rất dữ dội.Con trâu vàng nghe tiếng,vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ. Từ đó về sau, thỉnh thoảng giữa những lúc thanh vắng, người ta vẫn thấy quai chuông nổi lên mặt nước.Còn con trâu vàng thì thỉnh thoảng lên bờ hồ đi dạo, hễ thoạt thấy bóng người thì thoắt lặn xuống ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà hồ Tây còn có tên là Vực Kim Ngưu ( Trâu vàng). Riêng Khổng Lồ, về sau được thợ đúc đồng thờ làm thần nghề đúc đồng.[43]

24.TỪ ĐẠO HẠNH hay SỰ TÍCH THÁNH LÁNG

Vào thời nhà Lý, có một ông sư quê ở làng Láng gần kinh đô, tên là Từ Vinh.Từ Vinh học được phép tàng hình. Không những thế,hắn còn biết cả phép biến mình thành bất cứ một con vật gì hay bất cứ một người nào khác. Khi học được phéplạ, hắn không nghĩ đến việc lợi dụng phép thuật để giúp đỡ người nguy kẻ khó, mà chỉ nghĩ cách tìm khoái lạc cho bản thân, Cho nên, hắn đi khắp mọi vùng, bề ngoài làm bộ giảng đạo, nhưng kỳ thực là để gần gũi những người đàn bà mà hắn ưa thích. Hắn đã có phép, lại không kém khôn ngoan, nên chả một ai hay biết cả.
Từ lúc Từ Vinh thi đậu khoa thi Bạch Liên, được vua thăng chức Tăng quan Đô Sát, một chức quan lớn trong triều đình, thì hắn lại lén lút tìm gái ở vùng kinh kỳ. Bấy giờ, ở kinh có một nhà quý tộc tên là Diên Thành Hầu, có phủ đệ đẹp đẽ trên bờ sông Cót, gần làng Từ Vinh. Diên Thành Hầu có một đám vợ và nàng hầu, trong đó có một nàng trẻ tuổi, nhan sắc xinh đẹp, dễ thường trên đời khó ai sánh kịp. Từ Vinh chú ý đến nàng.
Phủ đệ Diên Thành Hầu canh gác rất nghiêm nhặt, nhưng đối với Từ Vinh thì chẳng mùi gì. Nhè những đêm Diên Thành Hầu vắng mặt, Từ Vinh tàng hình lọt vào buồng của nàng, rồi biến thành chồng nàng lên giường giao hoan.Sáng dậy, y lại tàng hình đi ra khỏi cổng trước mắt bọn gác.Vì thế, chẳng những cả nhà Diên Thành Hầu không một ai biết mà chính người đàn bà nọ cũng không ngờ là ngoài chồng mình ra còn có một người đàn ông thứ hai nữa.
Một hôm,giữa lúc Từ Vinh tàng hình bước ra khỏi buồng người đàn bà, thì chính là lúc Diên Thành Hầu lại vào với vợ. Người đàn bà vội kêu lên:
-Sao phu quân vừa ra đã lại trở vào?
Nghe nói thế, Diên Thành Hầu hiểu ngay nông nổi và sau khi tra gạn vợ, ông mới biết gian phu không phải là người tầm thường, nếu không có một pháp sư cao tay thì đừng hòng trị nổi.Diên Thành Hầu căm tức vô cùng, sau một lúc lâu suy nghĩ, ông sực nhớ đến nhà sư Đại Diên phép thuật cao cường nhất trong nước, từng được vua ban tước Quốc sư và đã trổ tài mấy phen trị tà bắt quỷ.
Khi nghe Diên Thành Hầu kể lại câu chuyện, Đại Diên đưa cho ông ta một sợi chỉ ngũ sắc và dặn rằng:
-Hầu về đưa sợi chỉ này cho bà ấy, chờ lúc gian tế đến, lẳng lặng buộc vào ngang lưng. Một mặt cho rắc một lớp tro mỏng trước cửa buồng, cho người nấp chỗ kín canh gác. Đợi lúc nào thấy có dấu chân giẫm lên tro thì đóng ngay cửa lại, dán lá bùa này vào rồi cho người tức tốc đến đây báo tin cho bần đạo. Bần đạo sẽ vì Hầu trừng trị con dâm quỷ.
Diên Thành Hầu về, làm đúng như lời dặn. Quả nhiên một đêm nọ, Từ Vinh tàng hình mò tới. Hai tên nô chầu chực đêm ngày ở cửa ,bỗng nhìn thấy có những dấu chân tiến vào buồng mà không thấy có người, vội dán lá bùa lên cánh cửa rồi phi báo cho chủ biết. Đêm âý, Từ Vinh vô tình, không ngờ có cạm bẫy đang giương ra chờ mình, nên chỉ một lúc sau, người vợ Diên Thành Hầu đã buộc được sợi chỉ ngũ sắc vòng quanh lưng mà hắn cũng không hay biết gì cả.
Nghe có tiếng động, Từ Vinh vội niệm chú biến thành một con gián. Nhưng khi bay đến cửa, hắn mới biết rằng khắp mọi nơi đều có phép thần kín mít như bưng, không một khe hở nào chiu lọt. Giữa lúc đó thì Đại Diên đã cầm đuốc tiến vào buồng. Gián ta hoảng hốt bò vào một khe vách, nằm im tại đó. Cuộc tìm tòi của Đại Diên đã tưởng trở nên vô hiệu. Mãi về sau, vì có sợi chỉ ngũ sắc buộc quanh mình thò ra ngoài vách, nên Đại Diên lôi ngay được gián ra.Trong tay thần của Đại Diên, Từ Vinh hết phương trốn tránh, đành chỉ kêu van xin tha mạng. Đại Diên hỏi:
-Mày là ai?
Đáp:
-Tôi là Từ Vnh.Xin Hòa thượng nghĩ đến tình đồng triều, đồng đạo, tha cho tội chết.
Nghe kẻ tội phạm xưng tên, Đại Diên nghĩ bụng:-“Phép thuật của hắn có tiếng là cao cường không kém gì ta. Nếu không sa cô vì mấy lá bùa, chưa chắc hắn đã chịu kêu van như thế này đâu. Tha cho hắn sẽ nguy hiểm cho ta. Tất phải trừ đi để khỏi hậu hoạn”. Nghĩ vậy sư ta cười gằn bảo Từ Vinh:
-Mày là kẻ tu hành, lại được triều đình trọng dụng mà cố tình phá giới, phạm tội chồng chất như thế này ru? Tha cho mày sao được! Thôi ta hóa kiếp cho mày để lo tu chỉnh về sau.
Từ Vinh chưa kịp kêu thì đã bị bàn tay Đại Diên bóp nát vụn. Xác con gián vừa rơi xuống đất thì đã hiện nguyên hình thành Từ Vinh. Đại Diên đá vào cái thây nói:
Kiếp này đã vụng đường tu,
Hãy đền tội lỗi, đền bù kiếp sau.
Đoạn, ngoảnh bảo Diên Thành Hầu:
-Thế là trừ được một con dâm quỷ. Hầu cứ bảo người nhà vứt thây nó xuống sông.
Diên Thành Hầu hết lời cảm tạ và sai người nhà mang mười lạng vàng tống tiễn Quốc sư về chùa.
Nhưng sáng hôm sau, giữa lúc Đại Diên đang tụng kinh thì một tên nô của nhà Diên Thành Hầu đã hốt hoảng chạy tới báo tin:
-Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi. Nó cứ đứng sững giữa sông Cót trên mặt nước, tay chỉ vào nhà hầu tôi, mắt nhìn trừng trừng , rất dữ tợn. Hầu tôi kính mời Sư cụ tới trị ngay cho!
Nghe nói, Đại Diên theo đến, chỉ tay vào thây Từ Vinh, đọc một câu quyết:
Sống chết là giấc chiêm bao,
Dầu giận thế nào không để cách đêm[44]
Tự nhiên cái thây chìm xuống nước và trôi đi mất.
Lại nói chuyện Từ Vinh có một người con trai tên là Từ Đạo hạnh. Chàng mới hai mươi lăm tuổi, rất chăm học và rất có hiếu.Cái đêm cha bị giết, Từ Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự tình và nhắc đi nhắc lại tên Đại Diên, dặn phải trả thù cho bằng được. Tỉnh dậy, chàng hốt hoảng đi tìm cha, và chàng xiết bao đau đớn khi thấy thây cha nổi lên mặt nước. Nóng lòngbáo thù, chàng cầm côn đi tìm Đại Diên. Chờ lúc Đại Diên đi đường một mình, chàng đuổi theo kẻ thù toan chuyện phang cho một côn trên cái đầu trọc. Nhưng vừa định vung côn, chàng bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng can của cha mình: “ Chớ!Chớ nóng nảy!Muốn bóc vỏ quit dày cần có móng tay nhọn đã!”
Vì thế Từ Đạo Hạnh lại thu côn vào nách, nuốt giận trở về. Chàng tính chỉ có cách tìm thầy học phép mời trừ được kẻ thù lợi hại kia. Nghĩ vậy, chàng bỏ nhà đi khắp mọi nơi tìm thầy, thề quyết bao giờ “đắc đạo”mới chịu trở về.
Hồi ấy, ở miền ven biển phía Nam, có hai người bạn tâm giao: một người là Nguyễn Minh Không và một người là Dương Không Lộ.Cả hai người đều làm nghề chài lưới nhưng rồi rủ nhau cắt tóc đi tu.Sau bao nhiêu năm đọc kinh gõ mã vẫn chưa đắc đạo, một hôm Nguyễn Minh Không nói với bạn:
-Tôi nghe muốn nhìn được xa thì phải trèo lên núi cao, muốn uống nước ngọt thì phải tìm đến tận nguồn. Vậy muốn đắc đạo trừ phi tìm đến quê hương của Như Lai thì không còn cách nào khác.
Dương sẵn lòng đi với bạn, dù có gặp núi cao biển rộng, khó khăn đến đâu cũng không quản ngại.
Thấy hai chú tiểu cùng phát thệ đi đến đất Phật, một vị sư bác trong chùa cũng hăm hở đòi đi theo.Nhưng hồi ấy, đường đất từ nước nhà sang đến Thiên Trúc thật là muôn vàn nguy hiểm và vô cùng gian khổ. Cho nên sau khi đi được mấy ngày, vị sư bác đã thấy chùn chân, đành cáo bệnh trở về chùa cũ. Chỉ có hai người bạn trẻ vững lòng nhắm hướng Tây tiến bước.
Một hôm, họ đến một vùng núi cao. Hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen vá biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh cũng lặn lội đi tìm thầy học phép để trả thù cha. Sau một đêm chuyện trò, ba người kết bạn với nhau.Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn làm anh cả, Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út.
Cuộc hành trình vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đã trèo qua bao nhiều là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, chung sống với bao nhiêu là người dị chủng. Mặc cho ốm đau, đói khát, rách rưới họ vẫn không chịu nản.
Một hôm, vừa qua xứ Mán Răng Vàng,họ bỗng gặp một ông cụ chở chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ thì không còn bao lâu nữa. Ông cụ còn sẵn lòng chở họ đến nơi. Mừng quá, ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt, chả mấy chốc đã đến đất Phật.
Ông cụ lái đò chính là đức Phật Như Lai. Nghe tin có người thành khẩn mộ đạo đến nỗi không quản gian lai nguy hiểm, nên đức Phật hiện xuống ,dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh thì đức Phật không bằng lòng.Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đò bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm dò trước đã rồi có gì sẽ trở lại báo sau. Thế rồi đức Phật đưa Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về độ cho thành chính quả và truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu. Sau khi đắc đạo, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước.
Nói chuyện Từ Đạo Hạnh, ngồi chờ mãi không thấy hai em trở lại, trong bụng lấy làm lo lắng, chưa biết nên tìm cách gì. Xảy gặp một bà cụ già từ trên bờ đi xuống bến, xin sang sông.Chàng vui lòng chống đò giúp bà cụ,luôn tiện chàng hỏi thăm:
-Cụ có thấy một ông già và hai anh chàng đi về ngả ấy không?
Bà cụ đáp:
-Có.Họ đã gặp đức Phật và đã đắc đạo rồi!
Nghe nói thế,Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài:
-Xin cụ rủ lòng thương cho, kẻ đệ tử này mối thù cha trong lòng canh cánh, không lúc nào nguôi.
Bà cụ vốn là một vị Bồ-tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời:
-Chính vì tìm đến cõi Phật với một điều ác trong lòng nên không được độ.
Chàng mếu máo bày tỏ lời thề của mình trước linh sàng của cha cho bà cụ nghe và lạy lục, vật nài đến kỳ cùng. Bà cụ bảo:
-Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi nghiệp báo. Nhưng vì người có lòng thành khẩn nên ta cũng truyền cho.
Đoạn dạy cho Từ Đạo Hạnh mọi thuật biến hóa mầu nhiệm và để cho chàng có thể đối địch với kẻ thù, nên Bồ-tát còn dạy cho phép hô thần, tróc quỷ bằng cách tụng chú Đà-la-ni.v.v…
Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Cho nên, lúc Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không từ đất Thánh trở về thì chàng đã độn biết được trước, mới định tâm đùa một mẻ để hai bạn hoảng sợ chơi. Khi họ sắp sửa đến bến đò phải đi qua một khu rừng rậm, Từ đã hóa thành một con hổ lớn từ trong bụi xông ra định vồ, nhưng chàng không ngờ rằng hai bạn mình đều đã học được phép Phật, nên khi nhìn thấy hổ thì đếu đoán ran gay đó là Tư. Họ đồng cười lên.Nguyễn Minh Không đi đầu nói:
Thôi đừng đùa cợt chi nhau
Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm.
Nghe thế, Từ Đạo Hạnh giật mình tỉnh ngộ. Nhờ phép thần, chàng thấy được kết quả của tội lỗi mình ở kiếp sau. Chàng bèn niệm chú hiện lại nguyên hình rồi cười đỡ thẹn:
-Anh chỉ định tâm thử chơi, không ngờ mua cười với hai em. Phép thuật của hai em như thế đủ biết không phải tầm thường.Anh chỉ mong em ba đến lúc đó sẽ hết sức giúp anh qua khỏi nghiệp chướng.
Thế rồi ba anh em lên đường về nước.Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đã thấy sông Lô, núi Tản. Ba người chia tay nhau .Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ trở về quê hương. Còn Từ Đạo Hạnh thì không về nhà. Chàng nghĩ bụng:-“Ta phải tìm mộtnơi nào yên tĩnh để tu luyện thêm cho đến chừng hơn hẳn kẻ địch, lúc bấy giờ sẽ gọi hắn đến đương trường tỷ thí chứ không them đánh lén lút”. Chàng bèn tìm đến thạch thất, vào một hang đá ngồi xếp bằng, tu theo lối trường định. Theo như lời dặn, hàng ngày chàng niệm chú Đà-la-ni một vạn tám nghìn lần.
Sau ba tháng mười ngày khổ luyện, tự nhiên một hôm chàng vừa đọc câu chú, bỗng có một vị thần mặt xanh mỏ đỏ hiện ra trước mặt rồi nói:
_Từ Đạo Hạnh, anh cần sai bảo gì, tôi xin tuân lệnh.
Từ biết là đạo pháp của mình đã đến ngày thông được với Thần, mừng quá vội nói:
-Ta cần trả được thù cha.Lập tức đưa ngày ta về kinh thành.
Thốt nhiên, chỉ trong nháy mắt, Từ Đạo Hãnh đã xuất hiện ở phía Bắc Hoàng cung. Chàng bước lần đến ngã ba sông Cót, ném xích trược xuống nước. Giữa dòng nước chảy xuôi, gậy cứ lừ lừ trôi ngược. Chàng đuổi theo cây gậy bấy giờ đã lướt sóng như một con rồng cho đến cầu Tây Dương thì dừng lại.Chàng vội tàng hình bước vào nhà Đại Diên.Bấy giờ Đại Diên đang ngồi nói chuyện trước một số đông quan khách. Chàng tiến đến trước mặt, hiện lại nguyên hình và bảo Đại Diên:
-Đại Diên! Mày có biết tao là ai không? Tao là Từ Đạo Hạnh, con Từ Vinh. Ác giả ác báo. Mày giết chết cha tao,tao phải giết mày! Thôi mày sửa soạn đi!
Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Đại Diên khởi thế tấn công ngay.Nhưng phép thuật của hắn không thể nào đương nổi chiếc gậy thần của Từ Đạo Hạnh. Vì thế cuộc chiến đấu diễn ra không lâu. Chỉ một gậy của Từ giáng xuống, hắn ngã vật chết ngay, chỉ kịp nói được mấy tiếng:
-Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ diệt mày!
Nói chuyện vua nhà Lý, hồi ấy tuổi đã già mà không có con. Bao nhiêu Hoàng hậu và Phi tần trong hậu cung chưa từng có một người nào chửa đẻ. Nhà vua hết cầu trời khấn phật, đến tìm thầy chạy thuốc, nhưng chẳng ích gì. Những bùa phép, thuốc men của các Pháp sư, các lang y, chả có một thứ nào ra hồn. Người ta đều nói, vì mẹ của vua ác nghiệt nên bị trời phạt như thế, mà trời đã phạt thì đừng hòng cưỡng lại.
Thất vọng, nhà vua dự định nuôi con nuôi. Một hôm, viên Chuyển vận sứ Thanh Hóa về kinh chầu vua, có báo một tin rất lạ:
-Một nhà dân chài ở miền biển có sinh một đứa bé thần dị. Lên ba tuổi, nó đã biết nói và tự xưng là Giác Hoàng. Nó biết tất cả các việc trên trời dưới đất và tất cả mọi việc trong triều,ngoài nội.Và điều này mới đáng chú ý là Hoàng thượng làm gì nó cũng biết cả.Nó còn tự xưng là con của Hoàng thượng.
Nghe nói thế, vua liền cho đứa bé về cung. Thấy mặt mũi nó sáng sủa, hỏi đâu biết đấy, nhà vua đem lòng yêu dấu, muốn nuôi làm con để một ngày kia trăm tuổi sẽ truyền cho ngôi báu. Có mấy vị đại thần khi nghe vua dò ý tứ thì vội can ngay:
-Tâu Bệ hạ, Bệ hạ làm thế sợ lòng dân không phục. Nếu nó linh dị như thế, sao không thác sinh vào cung để mang lấy dòng máu của Hoàng đế, lại đi làm kiếp con nhà bần tiện?
Nhà vua mang lời tâu ấy kể lại cho đứa bé nghe. Giác Hoàng xin vua dựng cho một cái đàn tràng, mời thầy làm lễ trong bảy đêm ngày, nó sẽ có cách đầu thai được. Vua mừng lắm. vội sai các quan làm y như lời nó dặn.
Tin ấy truyền đi khắp mọi nơi và đến tai Từ Đạo Hạnh. Biết ngay đó là kẻ thù của mình, chàng bèn tìm đến nhà chị ruột, đưa cho chị bốn lá bùa, nhờ về kinh đô, tìm đến đàn tràng, giắt lên mái; mỗi lá giắt về một phương. Quả nhiên sau đó ba ngày, Giác Hoàng bỗng bị bệnh nguy kịch.Gặp vua, hắn tâu:
-Tâu Bệ hạ, bây giờ thì khắp mọi nơi đâu đâu cũng có lưới sắt vây kín, không thể nào thác sinh được. Hạ thần chỉ còn chờ chết.Mong Bệ hạ trị tội Từ Đạo Hạnh, vì chính hắn đã âm mưu giết hạ thần và phá hoại cơ nghiệp lâu dài của Bệ hạ.
Nói xong thì chết.
Thấy Giác Hoàng chết,Vua nổi cơn thịnh nộ, lập tức sai người đi tra xét, quả bắt được mấy lá bùa có pháp ấn Từ Đạo Hạnh. Vua vội sai mấy đội vệ sĩ đi bắt Từ về kinh trảm quyết.Bị quân lính giải đi,Từ ĐạoHạnh không dám trái lệnh.Qua phủ đệ Sùng Hiền Hầu ở phía Tây kinh thành, chàng cố nài bọn họ cho mình vào yết kiến.Sùng Hiền Hầu nguyên là em ruột vua và cũng như vua, hắn không có con trai.Từ Đạo Hạnh chợt nghĩ ra được một kế.Cho nên khi gặp hắn, chàng cố nài hắn tâu giúp để vua tha tội cho mình. Đổi lại, chàng sẽ tìm cách đầu thai làm con hắn và chắc chắn thế nào cũng phải được.Sùng Hiền Hầu nghe bùi tai, liền đi vào Hoàng cung bênh vực cho Từ:
-Tâu Bệ hạ, không nên nghe lời một đứa bé để giết hại một nhà tu hành.Nếu Từ Đạo Hạnh mà diệt được Giác Hoàng thì phép thuật của Giác Hoàng sao ví được với Từ Đạo Hạnh.Bệ hạ nên lưu ý lại để dùng khi quốc gia hữu sự…
Nhân đấy, Từ Đạo Hạnh cũng tâu thêm:
-Tâu Bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hãm hại mọi người.Bần Tăng không thể ngồi yên mà nhìn, để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép Bệ hạ trừ bỏ nó đi.Nay việc đã xong, Bần Tăng xin cuối đầu chịu tội.
Nghe mấy lời nói có lý, nhà vua dần dần nguôi giận ,tha bổng cho Từ.
Hôm đó, về đến nhà Sùng Hiền Hầu,Từ Đạo Hạnh xin phép vào gặp vợ hắn.Người nhà cho biếtphu nhân đang bận tắm.Từ bảo:
-Thế thì lại càng hay!Xin cho đưa vào ngay!
Bấy giờ người vợ Sùng Hiền Hầu đang giội nước trong buồng tắm, bỗng thấy có một vị Hoà thượng xô cửa bước vào.Trong lúc hoảng hốt, chưa kịp kêu la thì đã thoáng thấy ở trong bồn nước có bóng một đứa trẻ.Người đàn bà ấy chưa hiểu ra thế nào cả thì Từ Đạo hạnh đã bước ra khỏi nhà tắm.Dặn lại Sùng Hiền Hầu:
-Bao giờ phu nhân sắp ở cữ, xin cho người hỏa tốc báo tin cho biết ngay.
Dặn xong, đoạn lại trở về thạch thất.
Từ hôm ấy,Sùng Hiền Hậu trông trông mừng mừng.Một đêm nọ thấy vợ chuyển bụng,hắn theo đúng lời dặn,vội sai gia nhân phi ngựa lên thạch thất báo tin.Hôm đó,Từ Đạo Hạnh đang ngồi trước hang đá thuyết pháp.Học trò có đến hàng ngàn người vây quanh cửa hang.Bỗng có tin người nhà Sùng Hiền Hầu xin ra mắt Hòa thượng.Từ Đạo Hạnh bảo các môn đồ:
-Thời đã đến rồi vậy!Ta sắp sửa đi đây!
Nói xong, đọc mấy câu kệ dặn dò, rồi ngồi xếp bằng lại mà hóa.
Gữa lúc Từ Đạo Hạnh chết thì ở Thăng Long người vợ Sùng Hiền hầu sinh hạ một đứa con trai, đặt tên là Dương Hoán. Năm mười lăm tuổi, Dương Hoán được vua nuôi làm con.Và sau đó lấy làm đẹp lòngtính nết có thể giữa được ngôi báu dòng họ Lý,nhà vua phong cho làm Hoàng Thái tử.Năm hai mươi tuổi,Dương Hoán đã lên ngai vàng kế vị cha nuôi, trị vì thiên hạ, tức là Lý Thần Tông.
Nhưng sau khi lên ngôi báu được ba năm thì Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ lùng.Thoạt tiên, nhà vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy, càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc nhiều bấy nhiêu.Mãi về sau, toàn thân mọc đầy thứ lông màu vàng có vằn đen như da hổ, miệng thỉnh thoảng lại gầm lên những tiếng dễ sợ.Nhà vua suốt ngày ngồi lù lù trong một góc buồng, áo quần mặc vào bao nhiêu xé rách bấy nhiêu.Trước tin này, khắp mọi thần dân đều ngơ ngác.Tất cả các viên ngự y đều lắc đầu bó tay, không biết bệnh gì mà chữa.Bọn nội thị kháo nhau:-“Có lẽ Hoàng đế hóa làm chúa sơn lâm thì phải”.
Triều đình và nội cung vì việc vua đau cuống quýt cả lên.Ngoài những vị lương y, còn có những pháp sư, phù thủy được triệu đến làm phù phép, nhưng luôn trong năm tháng, bệnh của vua chỉ ngày một tăng chứ không có giảm.Hoàng Thái hậu lo sợ quá, sai yết bảng rao:-“Nếu ai chữa được vua lành bệnh sẽ chia cho nửa nước”.
Thì bỗng nhiên, một hôm có vị đại thần đi ra ngoài cửa ô, nghe đám trẻ chăn trâu hát lên mấy câu:
Tập tầm vông!
Có ông Nguyễn Minh Không,
Chữa cho vua khỏi hóa.
Tập tầm vá!
Muốn chữa vua khỏi hóa,
Phải đón Nguyễn Minh Không.
Viên đại thần vừa ngạc nhiên, vừa mừng,vội về triều báo tin cho Hoàng gia biết.Lập tức triều đình phái một viên võ tướng mang năm trăm quân sĩ xuống mười chiếc thuyền lớn,xuôi sông đi về miền biển, triệu Nguyễn Minh Không.
Lại nói chuyện,từ khi chia tay hai bạn,Nguyễn Minh Không vào Ninh Bình trụ trì ở một ngôi chùa nhỏ,lấy tên là Giác Hải.Trong những cuộc đi chơi,chàng đã dùng pháp thuật của mình giúp đỡ mọi người.Một lần đi qua xã An Vệ, thấy người dân ở đây đang khổ vì đại hạn:lúa héo khắp cả cánh đồng.Chàng bảo người làng đan gấp cho mình một cái giỏ bằng tre thật lớn, ngoài phết giấy. Đoạn đưa ra sông cả múc nước, một mình đội về giội xuống ruộng.Nước chảy lênh láng khắp cả cánh đồng.Chỗ nước giội xuống, nay hóa thành cừ.Nhờ thế mà lúa lại mọc khỏe,dân làng lại được mùa.
Khi quân sĩ tìm được đến chùa thì Nguyễn Minh Không đang tụng kinh buổi trưa.Viên võ tướng mang quốc thư lên trình.Chàng đọc xong, quay lại nói với bọn họ:
-Bây giờ đã quá trưa, các vị đi đường chắc là đói bụng.Nhà chùa thanh đạm chẳng có gì, nhưng cũng mời tất cả các vị dùng cơm chay một bữa rồi hẵng nhổ sào cũng chưa muộn.
Nói đoạn chàng giục một chú tiểu bắc nồi thổi cơm và làm thức ăn.Nhìn thấy chú tiểu bắc một chiếc nồi tí tẹo lên bếp, lại thấy Hòa thượng giết thịt một con chim sẽ thì viên võ tướng không nhịn được cười:
-Bạch Hoà thượng, chúng tôi đi đây có đến năm trăm quân sĩ.Nay Hòa thượng cho ăn như thế chỉ sợ một người vẫn chưa thể nào thòm thèm,huống hồ là năm trăm người.Hiện nay lương thực còn ở dưới thuyền, xin để chúng tôi tự lo lấy cái ăn, khỏi phải làm phiền đến cửa Phật.
Nguyễn Minh Không đáp:
-Các vị chớ ngại, nhà chùa tuy nghèo, nhưng không để các vị phải đói đâu.
Nói xong,quay ra đun nấu một tý rồi bảo quân sĩ sắp hàng theo từng đội ngũ, lần lượt vào nhận phần cơm.Quân sĩ lũ lượt từng người đến trước hai cái nồi đất tý hon xới cơm và gắp thịt chim sẻ vào bát.Không ai không ngạc nhiên vì từ hai cái nồi mầu nhiệm ấy bới bao nhiêu lại đầy ùn lên bấy nhiêu.Nguyễn Minh Không luôn luôn giục họ bới cho thật đầy để ăn cho rõ no.Và rồi chỉ trong một lúc, năm trăm quân sĩ dự xong bữa tiệc của nhà chùa thết.
Ăn xong, chàng bảo họ ai về thuyền nấy nghỉ ngơi trước khi nhổ sào tiến kinh.Cả tướng lẫn quân quay ra làm một giấc ngủ ngon lành. Nhưng khi tỉnh dậy,tất cả mọi người đều hết sức sửng sốt, vì họ thấy mình đã đến bến Ngự từ lúc nào rồi.Nguyễn Minh Không theo viên tướng vào cung.Bấy giờ các pháp sư ngồi đầy cả điện Thái Hòa.Họ đang tụm năm tụm bavẽ bùa thử phép rì rầm khắp nơi.thấy một nhà sư có vẻ quê mùa bước vào, họ liền bỉu môi:
Chuông khánh còn chả ăn ai,
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre.
Chàng không nói gì cả,cúi đầu chào mọi người, rồi rút trong áo lấy ra một chiếc đinh dài, đóng sâu vào cột chừng một tấc, đoạn ngoảnh lại nói to lên, bảo mọi người rằng:
-Ai tay không nhổ được cái đinh này thì người ấy sẽ chữa lành bệnh cho Thiên tử.
Nghe nói thế, các pháp sư đều chạy lại thử rút cây đinh, nhưng chả một ai lắn nổi.Cuối cùng, Nguyễn Minh Không bước lại, dùng hai ngón tay khẽ rút ra như bỡn trước con mắt kính phục của mọi người.Thế rồi chàng đi thẳng vào nội điện, đến trước long sàng.Lý Thần Tông bấy giớ đang nằm ngửa, xunh quanh có đến hàng chục nội thị đang giữ lấy tay chân.Thỉnh thoảng, bệnh nhân lại gầm lên và cố sức giãy giụa.Nguyễn Minh Không nhìn trừng trrừng vào mắt bệnh nhân và nói lớn:
-Còn nhớ cố nhân nữa không? Được làm con Trời giàu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư?
Nghe nói, nhà vua bắt đầu có vẻ sợ, nằm im thin thít.Chàng sai đặt trước sân điện một cái vạc lớn đổ thuốc và dầu vào, bắt đầu nấu sôi lên sùng sục. Đoạn chàng xắn tay áo, thò tay vào vạc quấy đều lên.Chàng ra lệnh vực vua lại gần, rồi tự tay cầm gáo múc dầu trong vạc ra tắm cho vua.Dầu chảy đến đâu lông lá trôi đến đấy, da thịt nhà vua lại trắng trẻo như xưa.
Sau khi nhà vua lành bệnh, triều đình không ngớt lời khen ngợi phép thần diệu của Nguyễn Minh Không.Họ y ước, cắt đất phong thưởng, nhưng chàng không nhận nói:
-Bần tăng chỉ vì một lời hứa với người bạn cũ chứ không phải vì phú quý.
Đoạn bỏ về chùa cũ.
Khảo dị 1:
Truyện này đã được nhà chùa uốn nắn lại với dụng ý đề cao Phật giáo, lại cắt xén đi nhiều chỗ như những đoạn về Từ Vinh, về Từ Đạo Hạnh làm phép đầu thai,v.v…Mặt khác,câu chuyện còn bị nhập cục với truyện”Sư Khổng Lồ”. Ở đây, chúng tôi dựa vào lời kể của nhân dân, khôi phục lại cái đoạn bị cắt, tách riêng truyện Khổng Lồ đúc chuông ra, vì nhận thấy nó có một kết cấu độc lập. Nhưng chúng tôi vẫn không làm sai nguyên ý của truyện thường kể.
Về chỗ nồi cơm thần diệu ăn mãi không hết, chúng ta còn có truyện Sự tích Bồ-tát Chân Nhân.Bồ-tát ở làng Bối Khê, huyện Thanh Oai(Hà Đông), cũng có những phép gần như phép Nguyễn Minh Không đãi khách.Bồ-tát Chân Nhân thuê một trăm người thợ dựng ngôi chùa lớn ớ núi Tiên Lữ.Mỗi bữa chỉ thổi một niêu con cơm.Lúc đầu đám thợ trông thấy đều bật cười.Bồ-tát bảo:
-Khi cơm chín cứ bới ra rá để tôi còn về quê lấy tương cà làm thức ăn.
Thợ lại càng cười, cho là nhà sư chỉ nói bỡn, vì quê của Bồ-tát cách đấy gần một ngày đường .Nhưng chỉ trong nháy mắt,Bồ-tát Chân Nhân từ chùa núi Tiên Lữ sang chợ Bảo Đà làng Đan Vị lấy hai lọ tương, một lọ muối, rồi từ chợ lại trở về chùa.Lúc về cơm vừa chín tới.Bồ-tát gọi thợ lại ăn, nhưng họ ăn không hết một niêu cơm, vì hễ bới lưng lại đầy.[45]
Cổ tích và Phật thoại Ấn Độ cũng có truyện Du-đích-thi-ra nhận được của Mặt trời một nồi đồng lấy ra rau,thịt,cá vô tận; và Mác-nu-da vâng lệnh Phật sai đi quyên giáo không được gì, bỗng chốc thấy xuất hiện năm trăm bát đầy thức ăn;lại nhờ phépPhật mà hiện ra trước một nghìn vị Tỳ-khưu, mỗi người một bát đầy thức ăn,v.v…[46]
Về chỗ Từ Đạo Hạnh học phép và kiếp sau của ông hóa hổ,sách Lĩnh ngoại u linh lục chép:lúc bấy giờ có Phật Bà giáng xuống chùa Tây Phương ở Sơn tây dạy đạo.Từ cùng hai ông bạn rủ nhau lên đó học phép của Phật bà.Hai ông kia sáng dạ nên buổi nào cũng được về trước, còn Từ tối dạ cứ phải ở lại sau.Một hôm, thấy Từ ngồi khóc,Phật bà hỏi duyên cớ, ông nói vì ở lại sau nên sinh xấu hổ.Phật bà thương hại,cho một cái gậy để có thể theo kịp hai ông bạn.Nhờ đó ông vượt trước họ một đoạn đường. Đến cửa chùa làng La Cả, ông ẩn vào một bụi rậm. Đợi hai bạn đến, Từ giả làm hổ gầm lên một tiếng đề lòe chơi.Không ngờ, một trong hai ông biết Từ bỡn cợt, bèn đọc câu “phát nguyện”rằng:
Phật cho như ý sở cầu,
Muốn làm loài ấy, kiếp sau được làm.
Kiếp thứ hai,Từ được giáng sinh cửa đế vương, tức là vua Lý Thần Tông, đang làm vua tự nhiên hóa hổ.
Đến kiếp thứ ba, Từ lại được giáng sinh vào cửa đế vương, tức là vua Lê Thần Tông, cũng đang làm vua tự nhiên hóa hổ.Triều đình nhờ đức Thượng sư nội đạo tràng ở Thanh Hóa về chữa.Lúc ấy, dân có dịch tễ. Thượng sư bận bèn sai môn đồ mình đi thay với phép “trịch hùng trì chú”.Sau khi thiết lập đàn tràng, môn đồ ra phép “hai tay đấm vào ngực, hai chân giẫm xuống đất, đọc chú ba lần”.Tự nhiên vua thấy nhẹ nhõm, lông lá rụng hết;diện mạo lại đẹp đẽ như xưa.[47]
Khảo dị 2:
Xưa, Đạo Hạnh họ Từ, tên là Lộ, cha là Vinh theo học đạo Phật, làm chức Đô sát ngạch tăng quan đời Lý,thường đến chơi làng An Lãng (làng Láng gần hà Nội bây giờ)lấy người con gái họ Tăng tên là Loan dựng nhà ở xóm Nam làng ấy.Nhà ở được kiểu đất quý, sinh ra được Từ Đạo Hạnh có khí cốt tiên Phật, lúc còn trẻ hay chơi bời phóng túng, nhưng có chí lớn, cách cử động ít người lường biết.
Đạo Hạnh thường kế bạn với một nhà nho tên là Phi Sinh, một đạo sĩ tên là Lê Toàn Nghĩa và một người đàn hát tên là Phan Ất, đêm thì chăm đọc sách, ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui, thường bị cha mắng là đồ rông rài.Một đêm, cha lẻn vào dòm trong buồng, thấy bên ngọn đèn tàn, sách vở la liệt, Đạo Hạnh ngồi dựa án ngủ gật, tay vẫn cầm quyển sách. Từ đấy biết con chăm học,cha không lấy làm lo.Sau Đạo Hạnh thi khoa Bạch Liên, đỗ thứ nhất, nhưng không chịu ra làm quan, chỉ ngày đêm nghỉ cách phục thù cho cha.Nguyên trước đây, cha dùng pháp thuật vi phạm vào nhà ông Diên Thành Hầu.Nhà Hầu có vị Pháp sư tên là Đại Diên dùng bùa trấn áp, giết chết vứt xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi đến cầu Tây Dương, trước nhà Diên Thành Hầu, dừng lại đấy, suốt ngày không trôi đi.Hầu sợ báo cho Đại Diên biết.Diên tớinơi nói to lên rằng:
-Người tu hành không được giận mãn kiếp, nên biết:sống chỉ là một trường đùa bỡn, chết mới thành đạo Bồ đề!
Nói dứt lời, cái xác liền trôi đi, đến xứ Hàm Rồng thuộc xứ Nhân Mục thì dừng lại, người làng thấy thiêng mới dựng lăng, miếu và đắp tượng để thờ, hàng năm cứ đến ngày 19 tháng giêng là giỗ, tại đền có tế lễ.Còn mẹ, sau mất táng tại chùa Ba Lăng ở xã Thượng An, chùa Ba Lăng này tức là chùa Hoa Lăng, thờ hai vị Thánh phụ và Thánh mẫu.
Đạo Hạnh ở nhà thờ tự cha mẹ, lúc nàocũng nghĩ đến sự phục thù mà chưa có kế gì. Một hôm rình Đại Diên đi ra đường, Đạo Hạnh toan dùng pháp thuật cầm gậy xông đến đánh, chợt nghe trên không có tiếng thét:
-Không được!Thôi ngay đi!
Đạo Hạnh liền bỏ gậy trở về, trong lòng buồn bực đau xót, định sang nước Ấn ĐộTây Thiên học cho được thuật lạ về đánh Đại Diên. Đạo Hạnh bèn đi cùng với Minh KhôngGiác Hải cùng đi, đến nước Sĩ Man, thấy đường đi rất hiểm trở nên định quay về.Bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ đến bến sông, ba người cùng đến hỏi cụ già rằng:
-Thưa cũ, đây sang Tây Thiên còn xa không?
Cụ già đáp:
-Đường núi hiểm hóc đi bộ không được, tôi có chiếc thuyền này, có thể chở giúp các ông sang, lại có cây gậy cho các ông cầm, cứ chỉ thẳng về phía Tây thì sẽ đến ngay.
Nói xong, cụ già đọc câu kệ rằng:
Đạo lý đương nhiên lộ cộng hành,
Đa công viễn học, chí thành danh.
Uông dương vạn phái, hà lao thiệp.
Chi nhật Hoàng Giang đổ Thánh sinh[48]
Đọc vừa dứt câu kệ, thì thuyền đã ghé bến Tây Thiên, phép thần thông thật là linh thiêng lắm vậy. Đạo Hạnh ở giữ thuyền,Giác Hải, Minh Không lên bờ học được phép thiêng, hai người liền trở về nước. ĐạoHạnh giữ thuyền tới ba ngày không thấy tin tức hai bạn, tự nhiên bỗng thấy một bà cụ đi đến. Đạo Hạnh vái chào rồi hỏi:
-Cụ có thấy hai người lên học đạo không?
Bà cụ hỏi:
-Hai người đó đã học được nhiều phép thiêng của ta và trở về nước rồi!
Đạo Hạnh bèn vái lạy và kể rõ cho bà cụ biết:Ba người cùng đi học đạo, thực đáng buồn vì hai người nỡ bỏ mình về trước! Bà cụ nghe nói,liền sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, rồi bà cụ dạy cho mọi phép thiêng, lại trao cho phép rút đất và lời thần chú Đà-la-ni. Đạo Hạnh giận hai bạn phụ mình,mới đọc một câu thần chú,Minh KhôngGiác Hải đang đi đường, bị lời thần chú đau bụng quá, phải ngồi nghỉ. Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất, tiến về phía trước, ẩn vào bụi rậm ở xã Ngải Cầu thuộc huyện Từ Liêm,hóa hình làm con hổ gầm thét xông ra coi rất ghê sợ.Hai người bèn nhìn nhau lấy làm kinh lạ.Bề ngoài tuy lấy làm lạ, nhưng vì đã có phép thiêng , sáng suốt, phân biệt thực hư, cho nên biết ngay là Đạo Hạnh hóa mình,mới nói rằng:
-Ngươi muốn biết kiếp sau, ta sẽ nói cho mà nghe!
Đạo Hạnh nghe nói tỉnh ngộ, liền hiện lại nguyên hình rồi bảo hai bạn rằng:
-Chúng ta cùng học đạo của đức Thế Tôn, nhưng tôi còn vướng trần duyên, sau này sẽ lại ra thế gian ở ngôi nhân chủ, lúc ấy sẽ không tránh khỏi bệnh nạn,các anh có duyên với ta xin cứu cho.
Thế rồi bỏ mối giận cũ, ba người cùng truyền phép thuật:xuống nước,lên không; bắt rồng, hổ phải hàng phục;xuất quỷ nhập thần không ai lường được. Đạo Hạnh được nhường làm anh cả, rồi đến Minh Không,còn Giác Hải là em thứ ba.Chỗ gặp nhau nay gọi là cầu Báo.
Minh Không, Giác Hải về chùa Giao Thủy, Đạo Hạnh thì lên tu luyện ở chùa Thiên Phúc, thuộc huyện Thạch Thất, Sơn Tây.Trước chùa có hai cây thông cổ người ta thường gọi là cây “rồng”. Đạo Hạnh hàng ngày trông vào cây mà đọc chú “Đại bi tâm Đà ni la”, đọc tới ức vạn lần, cây thông rơi dần từng cành, rồi cả hai cây đều mất hết.Biết rằng đức Quan Thế Âm đã ứng hộ lời chú, Đạo Hạnh càng ra tâm tụng kinh đọc chú, cầu cho thấu đến Thiên đường.Một hôm thấy vị thần đến trước mặt, đứng lơ lửng không sát đất, Đạo Hạnh hỏi:
-Vị thần nào đó?
Thần thưa rằng:
-Đệ tử là Tứ Trấn Thiên Vương,cảm vì nhà thầy có công đức tụng niệm, cho nên lại hầu để thầy sai bảo.
Đạo Hạnh xét biết mình đã thông cả lục trí,có thể báo được thù cha, mới về ở làng An Lãng.Một buổi ra cầu An Quyết ở sông Tô Lịch, ném cây gậy xuống sông, gậy đứng dựng trên mặt nước chạy ngược dòng như bay, đến cầu Tây Dương thì dừng lại. Đạo Hạnh mừng nói: “ Phép của ta hơn hẳn Đại Diên rồi!” Liền xông vào nhà Đại Diên, Diên trông thấy, bảo rằng:
-Người không nhớ việc trước à?
Đạo Hạnh trông lên không, chẳng thấy gì, mới đánh chết Đại Diên, đem xác quăng xuống sông Tô Lịch để trả lại thù trước.
Thù đã trả xong, mối tục lụy đã lắng, Đạo Hạnh mới đi chơi khắp các nơi rừng sâu để cầu ấn quyết.Nghe nói Cao tăng Trí Huyền ở Thái Bình tu rất đắc đạo, mới đích thân yết kiến, hỏi về “chân tâm”, đọc câu kệ rằng:
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm,
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như, đoạn khổ tầm.[49]
Trí Huyền cũng đọc mấy câu kệ đáp lại:
Bí quyết chân truyền trị vạn câm,
Cá trung mãn mục thị thiền tâm.
Hà sa cảnh giới ưng hưu thoại
Bất tất Bồ đề cách vạn tầm.[50]
Đạo Hạnh chưa hiểu được rõ,mới sang chùa Pháp Vân hỏi sư Sùng Phạm.
Phạm đáp:
-Cái gì mà chẳng là chân tâm!
Đạo Hạnh nghe hiểu luôn,mới trở về chùa Thiên Phúc,huyện Thạch Thất tu đạo và luyện phép như trước.Từ đó pháp thuật ngày càng cao, lòng thiện ngày càng chín, khiến được các chim, các thú đến đầy trước mặt để sai bảo.Dân ở quanh vùng ấy hễ có bệnh tật đến xin bùa dấu đều được khỏi luôn, lấy đạo giúp người, mọi người đều được nhờ ơn.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tông (1072-1127) không có con trai, cầu tự mãi cũng không được, em Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu,bèn mời Đạo Hạnh đến nhà cầu tự cho mình, để sau con mình sẽ được lập làm Thái Tử. Đạo Hạnh xin đầu thai để tạ ơn.Bấy giờ Sùng Hiền Hầu phu nhân đang tắm trong phòng, bỗng thấy Đạo Hạnh hiện hình ở trong thùng nước.Phu nhân kinh hãi nói với Hầu.Hầu đã biết ý, mật bảo phu nhân rằng:
-Thấy hình ở trong thùng nước tức là chân nhân đã nhập thai rồi, đừng sợ!
Thế rồi phu nhân có mang. Đạo hạnh khi từ biệt ra về có dặn rằng:
-Đến ngày phu nhân sinh đẻ,xin báo cho biết ngay.
Đến ngày sinh,phu nhân khó đẻ.Sùng Hiền Hầu nói:
-Phải kíp báo cho Cao Tăng biết.
Đạo Hạnh được tin, họp các đồ đệ,bảo rằng:
-Ta chưa hết nhân duyên với đời,lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết về làm chủ”Tam thập tam thiên”, nếu thấy chân thân của ta bị nát hết, bấy giờ ta mới vào cõi “bất sinh,bất diệt”.
Các đồ đệ đều cảm tiếc ứa nước mắt khóc, Đạo Hạnh đọc kệ rằng:
Thâm thu bất báo nhạn lai qui
Di sử nhân gian động phát bi
Trứ tích, thời nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.[51]
Đọc xong, lên động tiên, đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa.Nay vết đầu và vết chân trên đá vẫn còn in.
Đó là ngày mồng 7 tháng 3 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), Đạo Hạnh từ cõi Nát bàn về cõi đời thác sinh làm con trai Sùng Hiền Hầu, không cần nuôi mà chóng lớn, không cần học mà thông suốt, người đẹp và có tài vô song.Vua Lý Nhân Tông đem vào trong cung nuôi dạy, rồi lập làm Hoàng Thái Tử. Đến khi Nhân Tông mất,Thái Tử lên nối ngôi, tức là vua Thần Tông.
Năm Bính Thìn(1136),Thần Tông đã 21 tuổi, bỗng phát bệnh ,mình mọc đầy lông, biến hình như con hổ.Các danh sư trong nước đến chữa rất nhiều, bệnh vẫn không khỏi.Minh KhôngGiác Hải nghe tin biết là đúng với lời trước, liền đặt ra câu ca dao cho trẻ con hát: “ Muốn chữa Lý cửu trùng, phải đi tìm Nguyễn Minh Không”. Câu hát truyền đi, triều đình nghe được, mới sai sứ đến chùa Giao Thủy đón Minh Không về kinh đô chữa bệnh.Minh KhôngGiác Hải thổi một niêu cơm rất nhỏ mời quan quân ăn. Quan quân rất đông người mà ăn mãi không sao hết. Đoạn Minh KhôngGiác Hải cùng với sứ giả xuống thuyền.Minh Không bảo quan quân hãy tạm nằm nghỉ, đợi sáng nước triều lên hãy cho thuyền đi.Ai nấy nằm ngủ yên giấc,hai sư dùng phép làm cho thuyền không cần chèo lái mà đi nhẹ như tên, chốc lát đã đến bến kinh đô.Hai sư đánh thức mọi người dậy, thì trông lên đã thấy Tháp Báo Thiên rồi!Mọi người đều rất kính phục.
Sứ giả mời hai sư vào trong điện, các sư trong nước ngồi đó rất đông, thấy hai sư hình dáng cục mịch, ăn mặc cũ kỹ, nên coi thường không ai đứng dậy.Hai sư bèn lấy một cái thanh sắt ở trong túi ra dài ước 5 tấc đóng lên cột điện,lấy tay vỗ lên cái đanh cắm rất sâu vào gỗ.Hai sư dõng dạc cất tiếng nói:
-Ai nhổ được cái đanh này ra thì mới chữa được bệnh vua.
Mọi người lần lượt hết sức nhổ đanh không được.Minh Không lấy hai ngón tay trái nhổ đanh ra dễ như chơi.Bây giờ ai nấy đều phục Minh Khôngphép lạ.
Minh Không sai lấy một cái vạc to, đổ 12 hủ dầu và bỏ một trăm cái đanh vào vạc, lại sai lấy một cành cây hòe,rồi xin rước vua ra chỗ đó.Minh Không nhường cho Giác Hải đốt lửa đun vạc, lửa cháy rất mạnh, dầu sôi lên sùng sục.Minh Không nhúng tay vào trong vạc dầu lấy đủ 100 cái đanh ra.Giác Hải nhường Minh Không làm phép,Minh Không lấy cành hòe nhúng xuống dầu, vẩy khắp mình vua rồi nói lớn lên rằng:
-Đã làm đến Thiên tử sao lại còn bệnh thế?
Dầu vẩy đến đâu, lông trên mình vua biến hết đến đấy,vuốt ở chân tay cũng rụng đi tiệt, bệnh vua liền khỏi,thân thể lại tươi đẹp và khoan khoái như trước.
Sau khi vua mất, chùa Thiên Phúc hiện lên khí thiêng lạ thường, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Địa phương tâu lên,vua Anh Tông(con vua Thần Tông) liền sai sứ lên tế, tôn phong làm “Thượng đẳng tối linh thần”.
Khi Đạo Hạnh hóa,xác còn ở trong động, trải qua hàng tháng vẫn thơm tho, người làng lấy làm lạ, để vào trong cái khám để thờ. Đến thời Vĩnh Lạc (1403-1424) nhà Minh, quân Minh sang ta, đến chỗ này thấy mùi thơm nức,tìm đến trong khám thấy Chân nhân một vị đạo nhân, nét mặt tươi như lúc còn sống.Người Minh cho là “Tiên’,mới rước sang chùa Hương Sơn làm phép hỏa táng.Lửa đốt đến bảy đêm ngày vẫn không cháy đến “Chân thân”, người Minh định bỏ, đến đêm mộng thấy người đến bảo:
-Chân thân ta trải qua đời Lý tới nay không nát, phép thiêng không phải là ngẫu nhiên.Nay các người muốn hỏa táng, phải lấy gỗ rào mộ mới mà đốt thì mới được.
Người Minh làm theo như thế, quả nhiên đốt được cháy, bèn nhặt lấy tro đắp thành tượng, bỏ vào khám cũ để thờ ở bên trái chùa Thiên Phúc.
Trong thời Quang Thuận (1460-1469), đời vua Lê Thánh Tông, Trường Lạc Hoàng hậu sai Thái Úy Trinh quốc Công ( Nguyễn Đức Trinh?) lên động chùa Thiên Phúc cầu tự. Khi làm lễ, có một phiến đá ở ngoài động bay vào, Trinh Quốc Công mang về trình Hoàng hậu. Ít bữa sau, Hoàng hậu mộng thấy rồng vàng vào bên sườn, rồi có mang, sinh ra vua Lê Hiến Tông.Nhân thế mới dựng am “ Hiển thụy” ở chùa Thiên Phúc, có khắc bia để ghi.Từ đó, chùa càng nổi tiếng thiêng, nhà nước và dân gian cầu đảo việc gì cũng được linh ứng.Tới nay, hương khói không lúc nào dứt.
Sự tích Thiền sư Đạo hạnh kết thúc bằng việc nhà sư chết đi, đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu để về sau nối ngôi vua, trở thành Lý Thần Tông. Việc Lý Thần Tông là hậu thân của Từ Đạo Hạnh hiện còn thấy qua việc bố trí tượng thờ của Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông ở chùa Thầy (Quốc Oai, Hà tây) và chùa Láng (Quận Đống Đa, Hà Nội). Đó tất nhiên là chuyện bịa, phản ánh đầu óc mê tín dị đoan của người xưa.Nhưng đối với chúng ta, thì điều đó có nghĩa là Tăng sĩ đời Lý không những tham gia vào việc chính trị của Nhà nước mà còn can thiệp vào nội bộ hoàng gia:những việc chữa bệnh cho vua, cầu tự, làm cho Hoàng hậu có con, lập Hoàng Thái tử,v.v….đều có sự tham gia của các nhà sư.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nhân vật được miêu tả với những nét kỳ dị hoang đường. Thiền Uyển Tập Anh kể về việc nhà sư báo thù cho cha như sau…” Cha nhà sư dùng pháp thuật làm phật ý Diên Thành Hầu,Hầu sai Thiền sư Đại Diên dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành Hầu, hốt nhiên đứng dựng lên, trỏ vào nhà, ở lại đấy suốt một ngày không trôi đi. Diên Thành Hầu sợ hãi, nói với Đại Diên. Đại Diên đến và hét lên: “ Người đi tu không được phép giận quá một ngày”. Dứt lời thì thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ tìm cách báo thù cho cha, nhưng chưa nghĩ ra kế gì.Một hôm rình Đại Diên ra ngoài, định đánh, chợt nghe trên không trung có tiếng thét: “Dừng lại!” Lộ sợ hãi, quẳng gậy mà chạy.Lộ muốn sang nước Ấn Độ cầu phép lạ để đánh Diên, đường đi qua đất rợ Răng Vàng, thấy hiểm trở quá bèn quay về, ở ẩn tại núi Từ Sơn, hàng ngày đọc kinh Đại bi-tâm-đà-la-ni, đọc trọn 18.000lần.Một hôm, thấy có vị thần đến trước mặt, thưa rằng: “Kẻ đệ tử là Tứ trấn Thiên vương, cảm phục công đức trì kinh của thầy, nên lại đây theo hầu để thầy sai khiến”. Lộ biết rằng đạo pháp đã thành, thù cha có thể rửa, bèn đi đến cầu An Quyết, ném thử cây gậy xuống dòng nước chảy xiết. Gậy trôi ngược dòng nước tới cầu Tây Dương thì dừng lại,Lộ mừng mà nói rằng: “Phép của ta thắng được rồi!”.Bèn đến thẳng chỗ Diên ở, Diên thấy mặt nói rằng: “Mày không nhớ việc ngày trước hay sao?”.Lộ nhìn lên không trung, không thấy gì, bèn đánh liền,Diên đau thành bệnh mà chết.Từ đó, thù xưa đã rửa, tục lự nguôi dần, mới du ngoạn các miền rừng rú để tìm ấn chứng…Phép lực ngày càng mạnh, duyên thiền ngày càng kết.Các giống rắn núi, thú rừng đều đến quanh mình chịu sự dạy dỗ.Lộ đốt ngón tay cầu đảo, chú phép lạ vào nước trị bệnh, không điều gì không ứng nghiệm…”.
( Văn học VN-Đinh Gia Khánh chủ biên-NXB.GD 2001)
Khảo dị 3:
Sách Thiền Uyển Tập Anh kể rằng:Sư ở chùa Thiên Phúc[52],họ Từ ,tên Lộ.Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan Đô án, thường đi học tại làng An Lãng.Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ.Sư là con nàng Tăng thị vậy.
Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp,có chí lớn, lại có hàng động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà Nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui.Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.
Một hôm ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.Từ đấy ông cụ không lo nữa.
Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch Liên. Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu, Hầu nhờ Pháp sư Đại Diên dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch.Xác trôi đến cầu Quyết là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi.Hầu sợ, đi báo cho Đại Diên, Đại Diên đến nơi đọc một câu kệ: “Tăng giận không cách đêm”.Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.
Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm Sư rình Diên đi ra khỏi nhà, muốn đánhlén, chợt nghe trên không có tiếng la: “Đừng! Đừng!”.Sư sợ hãi vứt cây mà chạy.Sư muốn sang Ấn Độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Diên. Đi đến xứ Mọi răng vàng, đường sá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thất thần nhân đến trước mặt mình nói: “Đệ tử là Tứ Trấn Thiên Vương, cảm động đức trì chú của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”.Sư biết đạo nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”. Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha mới đến bên Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây Dương dừng lại.Sư mừng nói: “ Pháp ta thắng rồi!”.Bèn đến thẳng chỗ Đại Diên, Diên thấy nói:
“Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?”
Sư ngửa mặt nhìn lên trời, niệm tục tiêu tan.Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạoThái Bình, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:
“Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ rõ bày phưong tiện
Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm”.
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
“Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao
Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào”.
Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp Vân hỏi: “ Thế nào là chân tâm?”.
Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”.
tỉnh ngộ nói: “ Làm thế nào bảo đảm?”.
Phạm đáp: “Đói ăn, khát uống”.
Sư lễ tạ, từ giã ra đi, Từ đấy pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng,họp nhau đến chịu thuần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm”.
Có vị Tăng hỏi: “Đi, đứng ,nằm ,ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?”.
Sư dạy bài kệ:
Tạo có,mảy may
Làm không, tất cả không,
Có không như trăng nước,
Chớ vướng có không không”.
Lại bảo:
“Trời trăng đỉnh núi cao
Người người mất hết châu
Kẻ giàu có ngựa tốt
Đi bộ chẳng cỡi câu.”
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng.Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh Hóa dâng sớ tâu rằng: “Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng là con đích của bệ hạ, tên là Giác Hoàng.Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết”.
Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa BáoThiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập thành Hoàng Thái tử.Quần thần hết sức can gián, cho là không được, và nói: “Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập”. Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.
Sư nghe chuyện, riêng nóirằng: “Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm.Ta há nhẫn tâm ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối Chánh Pháp sao!”.
Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm.Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh , nói với mọi người: “Đầy khắp cả nước đều đã có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh,mà sợ không có đường vào”.
Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng Thánh, hợp quần thần nghị tội.Khi Sùng Hiền Hầu đi quang qua, Sư kêu van: “ Xin hết sức cứu bần tăng một phen,may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn”.
Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: “ Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, nên kết án tử hình để tạ lòng thiên hạ.”
Hầu chậm rãi thưa: “ Nếu Giác Hoàngthần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được.Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy.Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ thì đừng cho y thác sinh”.
Vua xá tội.
Sư đến nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân.Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu.Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì.Phu nhân từ đó biết mình có thai.Sư dặn Hầu rằng: “ Khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết”.
Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần áo, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: “ Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm Quốc vương. Đến khi thọ chung, lại làm Thiên tử cõi trời Tam thập tam.Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết Bàn, không ở cõi sinh diệt nữa”.
Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ.Sư nói bài kệ rằng:
“Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay”.
Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.
(Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch.NXB,TPHCM-1999)

25.SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC

Vào đời nhà Trần ở châu Ái có một anh chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức.Chàng vốn con nhà quan, năm 20 tuổi, nhờ học giỏi,thi đỗ cao, chàng được bổ một chân tri huyện ở một huyện vùng Bắc.Khác với bọn quan lại khác, Từ Thức vốn là người phóng khoáng, không chịu ràng buộc vào khuôn phép.Chàng lại không thích những chuyện nịnh trên, nạt dưới, mà chỉ thích uống rượu,ngâm thơ, và đi chơi ngắm cảnh. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có một ngôi chùa lớn.Trước sân và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn.Mỗi năm vào khoảng tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật.Nhân dịp đó, các thiện nam tín nữa các nơi đua nhau về chùa lễ Phật và ngắm hoa. Vì thế người ta cũng gọi là hội xem hoa hay là hội mẫu đơn.
Một năm, vào lỳ hội xem hoa,Từ Thức cũng có cái hứng đi hành hương ngắm cảnh.Để khỏi làm kinh động dân chúng, Từ thức cải trang thành một người học trò.Chàng cũng không cho mang lính hầu và cáng xa đi theo.Hồi này các chùa chiền được triều đình vị nể, nên có những người lợi dụng chùa chiền ỷ thế hoành hành.Để bảo vệ hoa, chùa này đặt ra một cái lệ, ai bẻ hoa hoặc là gãy cây sẽ bị phạt vạ một số tiền.Nếu không có tiền thì nhà chùa sẽ bắt làm công quả. Ngày hôm ấy có một cô gái đẹp đi xem, vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở cạnh lối đi, bèn rón tay ngắt một bông.Thấy vậy, bọn thủ hộ trong chùa xông ra bắt giữ lại đòi tiền vạ.Cô gái thú thực là mình đi xem hội không mang tiền theo nên không biết lấy gì đền.Nghe nói thế, bọn thủ hội liền giữ cô lại để đòi tiền chuộc.
Vừa lúc ấy,Từ Thức tiến vào cổng chùa. Thấy một người con gái yếu ớt bị làm khó dễ. Từ Thức không ngăn được cơn giận dữ.Chàng sấn đến đòi thả cô gái.Bọn thủ hộ nhất định không cho và chỉ vào mặt chàng:
-Này, nếu không có đủ một quan tiền chuộc thì anh chớ có động đến côgái mà sinh chuyện rầy rà đấy.
Nghe chúng thách thức,cơn giận của Từ Thức bừng bừng bốc lên.Đã toan dùng đến chức vị của mình để trị bọn bất lương, nhưng rồi chàng lại kịp gạt đi vì chẳng muốn làm to chuyện. Không nghĩ ngợi, chàng cởi phăng chiếc áo ngoài vứt cho bọn thủ hộ để chúng trả tự do cho cô gái. Dây trói vừa cởi, cô gái ngỏ lời cảm tạ Từ Thức. Thấy nàng xinh đẹp lại bạo dạn, Từ Thức cũng muốn làm quen.Chàng hỏi:
Nhà nàng ở đâu?Tôi nghe giọng nói hình như không phải là người vùng này.
Cô gái đáp:
-Quê thiếp ở tận trong châu Ái huyện Tống Sơn…
Không ngờ người đẹp lại là người cùng quê,Từ Thức càng thêm niềm mở. Hai người men theo lối cổng chùa, vừa đi vừa ngỏ ít lời tâm sự.Trước khi từ giã, nàng còn không quên mời chàng đến chơi nhà nếu có dịp về thăm quê.
Vốn không ưa cái nghề roi vọt trị dân.Từ Thức thường bị bọn quan trên hạch tội.Một lần vì để vụ thuế chậm trễ, chàng bị viên an phủ gọi đến quở mắng nặng lời. Chàng than:
-Ta há vì mấy bó thóc mà chịu nhục như thế này ư!
Lúc trở về huyện lỵ,lập tức chàng cởi bỏ ấn tín treo ở trước mái công đường, rồi bỏ đi biệt.Chàng đi thẳng về quê thăm bố mẹ và bà con làng nước. Ở nhà được ít lâu, nhớ đến lời mời của cô gái trong hội xem hoa.Từ Thức liền cất công ra đi.Theo lời chỉ dẫn, chàng lặn lội tìm kiếm, nhưng bóng chim tăm cá mịt mù.Vùng Tống Sơn có bao nhiêu cảnh đẹp, chàng đều có để lại dấu chân và những bài ca vịnh, vậy mà chàng vẫn ân hận không gặp lại người đẹp năm xưa.Mặc dầu vậy, Từ Thức vẫn không nản lòng.
Một hôm trên đường đi tìm, từ sáng sớm, Từ Thức đã trèo lên núi cao nhìn ra giữa cửa Thần Phù.Tự nhiên trước mắt chàng hiện lên một hòn đảo trông y như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả.Say sưa nhìn ngắm, chàng bèn dong buồm ra khơi.Chẳng bao lâu thuyền đã ghé đảo. Đang mải mê nhìn, chàng bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó có một cửa hang khá rộng.Bèn vin cây rẽ cỏ tìm đến tận nơi.Vừa bước vào hang được một quãng thì bỗng dưng cửa hang tối sầm lại.Từ Thức vẫn cứ sờ soạng bước liều. Đi một đoạn nữa thình lình lại thấy có áng sáng.Trông ngược lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lởm chởm.Khi leo lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện ra trước mặt.Chưa hết ngạc nhiên trước cảnh lạ,chàng bỗng thấy bóng hai người con gái nhỏ mặc áo xanh.Một người nói:
-Chú rễ mới nhà ta đã đến kia kìa!
Chàng hết sức bỡ ngỡ nhưng vẫn bạo dạn đi theo hai cô gái.Trên đường đầy hoa thơm cỏ lạ. Đi một chốc thì đến lâu đài.Vừa bước lên thềm, Từ Thức đã thấy một người đàn bà dáng quý phái ra đón.Bà tươi cười bảo chàng:
-Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu hang động ở cõi tiên.Từ lâu ta cai quản thế giới này.May mắn hôm nay lại được đón người trẻ tuổi phong nhãchí tình.Thế nào,cảnh trí ở đây có làm cho du khách ưa thích không?
Thấy Từ Thức gật đầu, người đàn bà lại nói:
-Khoan đã.Để còn gặp một người quen cũ.
Đoạn,ra hiệu cho người hầu gái đi gọi. Chốc sau,một cô tiên từ trong hành lang bước ra, dáng thướt tha kiều diễm, mĩm cười chào chàng.Từ Thức nhìn kỹ thì ra đấy là cô gái bẻ hoa mẫu đơn năm nào.Chàng mừng rỡ nói to:
-Ô hay, tôi đi tìm nàng khắp nơi mà không thấy, không ngờ lại gặp ở đây!
Câu chuyện từ đấy trở nên thân mật đậm đà hơn .Bà chúa động nói:
-Em nó tên là Giáng Hương.Ngày trước đi xem hội mẫu đơn không may gặp rủi ro,nhờ có chàng tận tình cứu giúp.Âu đó cũng là duyên trời.Chàng đã có lòng cất công đi tìm, nay đến gặp nhau, hãy mở tiệc hoa để phỉ lòng khao khát.
Từ Thức thấy không có gì đẹp lòng hơn thế nữa.Lập tức đêm hôm ấy trong bữa tiệc tưng bừng có quần tiên hội tụ, hai người chính thức là lễ giao bôi.Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng rể mới đến nhập tịch làng tiên, và chúc tụng cuộc tình duyên tốt đẹp của hai người.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua.Từ Thức làm rể cõi tiên bấm đốt ngón tay đã được ba năm.Cuộc đời mới hoàn toàn khác với cảnh sống trần gian ngày trước.Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết, chàng đều có sẵn, không thiếu một thứ gì.Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu của Giáng Hương luôn luôn làm cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du các động tiên, thơ ngâm vịnh làm ra thao thao bất tuyệt.tuy nhiên,dần dần Từ Thức lại thấy như thiếu một cái gì.Một hôm chàng tâm sự với Giáng Hương:
-Xa cha ngái mẹ đã lâu, muốn về thăm một chuyến có được chăng?
Thấy vợ ngần ngừ chàng nói thêm:
-Chỉ cho về gặp bà con xóm làng một lần chót, rồi tôi sẽ đến đây ở với mình mãi mãi.
Giáng Hương thủ thỉ khuyên dỗ chồng hãy bỏ cái ý nghĩ trở về vì cõi tục và cõi tiên là hai con đường cách biệt.Nhưng Giáng Hương càng khuyên bao nhiêu thì nỗi nhớ nhà của Từ Thức càng nặng bấy nhiêu.Thấy chồng tuy không đòi về nữa nhưng nét mặt ngày một héo hon, Giáng Hương đàng phải thưa với mẹ.Mẹ nàng thương hại:
Nói rồi cho người đẩy xe mây đến cho Từ Thức trở về.Chàng vội vã từ giã vợ và mẹ vợ, từ giã các bạn tiên, rồi bước lên xe.Chỉ trong chớp mắt, chàng đã thấy lại quê hương cũ.Các rặng núi, con sông, những lũy tre dưới mắt chàng vẫn không có gì khác xưa.Xe đặt chàng xuống giữa một bến sông , nơi mà ngày còn nhỏ chàng vẫn ra đấy tắm mát và bơi lội.Nhưng khi nhìn kỹ cảnh vật thì Từ Thức lấy làm ngờ ngợ.Mới ba năm mà nhà cửa, vườn tược làm sao đã khác.Hỏi một người đi đường, người ấy cho biết đúng tên của làng chôn nhau cắt rốn của mình.Nhưng khi hỏi đến bố mẹ và em gái thì ai cũng lắc đầu trả lời không biết.
Sau cùng, Từ Thức đem họ tên của mình hỏi thăm các cụ già trong làng, thì một người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
-Từ lúc còn nhỏ, tôi có nghe truyền lại rằng các cụ tổ năm đời nhà tôi có một cụ cũng tên họ như thế, trước làm quan huyện rồi treo ấn từ quan, một hôm đi chơi sa vào hang núi mất tích.Từ bấy đến nay dễ gần ba trăm năm.
Nghe kể chuyện, Từ Thức mới thấm thía lời nói của vợ.Chàng bùi ngùi đứng nhìn cây đa mình trồng đầu ngõ bây giờ đã thành cổ thụ, cây to hàng vầng,cành lá rườm rà, rễ buông từng chùm chi chít.Chàng thẩn thờ trước đám đông đang vây quanh mình.Sau cùng Từ Thức trở lại chỗ xe mây, thì không ngờ xe đã biến mất từ lúc nào.Buồn rầu vô hạn, chàng lại khăn gói lần mò đến cửa Thần Phù, định bụng tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt mù cây đá kín lối không thể tìm ra được nữa.Chàng đi, đi mãi,về sau không biết là đi đâu.Từ đấy người ta gọi là hang núi ở chỗ này là động Từ Thức.[53]

-------------------------------

CHÚ THÍCH

[1] Việt Nam Văn Học Toàn Thư của Hoàng Trọng Miên, tập II,tr,177,do Văn Hữu Á Châu xb năm 1960 tại SG.
[2] Đã chú thích trong phần đầu “ Thắng cảnh Hà Nội”.
[3] Tư tưởng Phật giáo.
[4] Nguyễn Đổng Chi.KTTCTVN tập 1,tr.97,NXBGD,2000.Theo Lĩnh Nam Chích Quái và Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Thanh Hóa.
[5] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,T.1.Tr.107,NXBGD,2000.
[6] Theo lời kể của người miền Bắc.
[7] Theo gia phả Trung cân công ở Tiên Điển ( Hà Tỉnh).
[8] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,T.1,tr.110,NXBGA,2000.
[9] Trước tên là Chân Lưu.
[10] Có nơi nói thọ 79 tuổi
[11] Theo lời kể của người Hà Tĩnh và theo Pháp Á tạp chí.
[12] Nguyễn Đổng Chi, KTTCTVN,tập 1,tr,116,NXBGD,2000.Xem sách Vị thành giai cú tập.
[13] Nguyễn Văn Ngọc. Tục ngữ phong dao, tập II.
[14] Theo Landes. Cổ tíchtruyền thuyết An Nam.
[15] Nguyễn Đổng Chi, KTTCTVN,tập 1,tr.133,NXBGD,2000.Theo tạp Chí chúng tôi (1910)
[16] Theo Lăng-đờ ( Landes)
[17] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN, tập 1,tr.136.NXBGD,2000.Theo lời kể của đồng bào Bắc bộ.
[18] Nguyễn Đổng Chi, KTTCTVN,tập1,tr.144 NXBGD,2000.Theo lời kể của người Sơn Tây, Vĩnh Yên.
[19] Tục truyền bà Liễu Hạnh quê ở Thanh Hóa.
[20] Bà Liễu Hạnh là một trong bốn vị thần tiên được phong là bất tử ở nước ta. Ba vị kia là : Sơn Tinh, Thánh Gióng và Chữ Đồng Tử.
[21] Tức là cá lợn, cá heo hay hải trư (marsoruin). Ở Nam bộ còn gọi là cá nược.
[22] Theo Jénibrel và Landes Sách đã dẫn.
[23] Theo Thực nghiệp dân báo.
[24] Theo Trung Bắc chủ nhật(1943)
[25] Nguyễn Đổng Chi, KTTCTVN,tập,tr.164,NXBGD,2000.Chavanes.Năm trăm truyện cổ và ngụ ngôn trích từ Kinh Đại Tạng Trung Quốc.
[26] Theo Lăng-đờ (Landes). Sách đã dẫn.
Truyện bà mẹ Mục Liên đại khái như sau:
Xưa có ông La Bốc mồ côi cha rất có hiếu với mẹ-Nhưng mẹ ông lại tham lam quỷ quyệt. Ông chịu khó làm ăn được nhiều tiền gởi cho mẹ. Mẹ phung phí hết nhưng lại nói dối với con là đem cúng Phật. Mẹ chết, La Bốc theo đức Phật tu hành, lấy tên là Đại Mục Kiền Liên ( hay Mục Liên). Trong một chuyến đi vào nơi âm hồn ở, Mục Liên chỉ gặp bố không thấy mẹ, hỏi Phật thì Phật cho biếtgian tham nên bị đày xuống địa ngục. Mục Liên xin phép xuống thăm. Qua ngục Hung-giao, ngục Khôi-hà, hết ngục này đến ngục khác, được xem hàng nghìn cách hành hạ tội nhân, nhưng ông vẫn chưa gặp mẹ. Mãi sau một tên quỷ đưa đến ngục A-tỳ mới gặp. Thấy mẹ kêu cứu, ông thương quá toan đưa mẹ đi nhưng quỷ không cho. Sau xin mãi với Phật, Phật biến người mẹ chó cái đi theo Mục Liên.Sau đó, Mục Liên hóa phép cho mẹ thành người và khuyên phải sửa đổi tính xấu. Bà mẹ nghe lời và nhớ đó, một hôm, vào ngày rằm tháng bảy được Phật cho lên trời. Từ đó vào ngày rằm tháng bảy, người ta quen cúng lễ người chết, nhà chùa thường làm chay “phá ngục” cho tội nhân, cũng gọi là ngày “ vong nhân xá tội” (theo Mục Liên cứu mẫu kinh diễn âm), xem thêm truyện Thủ Huồn số 22.
Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN, Tập1,tr202,NXBGD,2000.
[27] Tức là ba hòn đất nung dùng để kê nồi lên mà nấu. Người miền trung gọi là ông núc. Người miền Bắc gọi hòn ở giữa là cái đầu rau cái, hai hòn hai bên là đầu rau đực, gọi chung là ông đầu rau.
[28] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.207,NXBGD,2000.Theo Pháp Á tạp chí (1952).
[29] Nước ta có đến bốn người cùng họ tên là Nguyễn Tự Cường đỗ đại khoa. Người thứ nhất quê ở Bắc Ninh, đỗ Hoàng Giáp năm 1514. Người thứ hai quê ở Vĩnh Phúc, đỗ Tiến sĩ năm 1574. Người thứ ba quê ở Hải Dương, đỗ Tiến sĩ năm 1604. Và người thứ tư tuy cũng đỗ vào năm 1604, quê ở Hải Phòng, tức là nhân vật vừa kể ở trên.
[30] Chuyện đi sứ-Tống sứ thời xưa của Nguyễn Thế Long,NXB.TTVH 2001.
[31] Bốn câu thơ sư Thuận và Lý Giác đọc nguyên gốc ở bài thơ Vĩnh Nga của nhà thơ đời Đường là Lạc Tâm Vương làm lúc lên 10 tuổi. Nguyên văn:
Nga,nga,nga,
Khúc hạng hướng thiên ca.
Bạch mao phù lục pthủy
Hồng chưởng bát thanh ba”
Dịch nghĩa cùng tương tự như trên. Lý Giác và Đỗ Thuận chỉ là người ngâm lại chứ không phải là sáng tác. Song câu chuyện ở đây cho sứ Trung Hoa thấy một người lái đò bình thường ở Giao Châu cũng học rộng, thông thạo thơ Đường, đủ biết nước Nam là một nước văn hiến, có lắm người tài không kém gì phương Bắc.
[32] Theo Landes, sách đã dẫn và lời kể của người miền Nam.
[33] Theo Landes, sách đã dẫn, và Vương Hồng Sển, trong tập san của Hội nghiên cứu Đông dương (BSEI), tạp XXV, số 1 (1950).
[34] Nguyễn Đổng Chi,KTTTCTVN,tập 1,tr.215.NXBGD,2000.Theo Lê Văn Phát. Sách đã dẫn.
[35] Đoạn giữa này theo Tạp chí chúng tôi, đã dẫn(1910).
[36] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập,tr.219,NXBGD. Theo Thực nghiệp dân báo ( 1924).
[37] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.244,NXBGD,2000.
[38] Nguyễn Đổng Chi, KTTCTVN,tập1,tr252,NXBGD,2000.
[39] Theo Trương Quốc Dụng trong Thoái thực kỳ văn.
[40] Theo Genibre,sách đã dẫn, và tham khảo Thơ ông Thủ Huồn của Nguyễn Hữu Rằng.
[41] Theo Vũ Phương Đế, Công dư tiệp ký.
[42] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập1,tra.262,NXBGD,2000.Theo Landes, sách đã dẫn.
[43] Nguyễn Đổng Chi, ATTCTVN,tập1,tr.509,NXBGD,2000.Theo lời kể của người miền Bắc.
[44] Dựa vào câu: Tăng hận bất cách túc,
Sinh tử nhất mộng tường.
Ý muốn nói:Thôi!Ghét ai giận ai qua một đêm thời thôi mới là quân tử; sống chết cũng chỉ là một giấc chiêm bao.( Đoạn này theo Thiền uyển tập anh.0
[45] Theo Vũ Phương Đế, Công dư tiệp ký.
[46] Van Gennep, Tôn giáo, phong tục và truyền thuyết.
[47] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập1,tr.824,NXBGD,2000.Theo Lăng Tuyết.Sùng Sơn đại chiến.
[48] Đạo lý nên theo cùng một đường đi.
Khen ông chịu đi học xa, chí muốn nên danh.
Mênh mông muôn phái, không cần lặn lội khó nhọc.
Rồi nay mai ở Hoàng Giang sẽ thấy Thánh sinh ra.
[49] Lâu nay tôi ở lẫn với phàm trần, chưa rõ được “Vàng” (Kim thân:minh vàng,tức là Phật).
Tôi chẳng biết chỗ nào là chân tâm.
Xin rũ lòng chỉ bảo mở lối phương tiện cho tôi.
Để được biết rõ đạo “như như”( đạo Phật),khỏi phải khó nhọc đi tìm.
[50] Bí quyết truyền cho đáng giá nghìn vàng.
Trong đó, rõ rệt là lòng Phật.
Ngay chỗ bãi cát sông cũng là cảnh Bồ đề.
Chẳng cần phải tìm chốn Bồ đề cách xa đến muôn tằm.
[51] Mùa thu đã lâu, chẳng thấy chim nhạn báo thời tiết về.
Dễ khiến cho dân gian động lòng thương.
Nhắn bảo bọn người đời đừng mến tiếc
Ông thầy cổ mấy lần làm thầy ngày nay.
[52] Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh.Sợ e sai Nay y theo Bản truyện.
[53] Nguyễn Dổng Chi, KTTCTVN,tập 1,tr.946,NXBGD,2000.Theo Thỉnh văn dị lục và lời kể của người Thanh Hóa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34219)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16804)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22837)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12979)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21839)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22057)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14820)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23433)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23981)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23519)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17065)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19278)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26912)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14337)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13788)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14668)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17281)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12594)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13771)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10335)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14609)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17134)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12471)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12635)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10301)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28626)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10636)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11066)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16824)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15717)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13289)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11275)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12963)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19241)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12183)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28466)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 9999)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21407)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12750)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17771)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26066)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11643)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10797)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22640)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11981)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10560)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11341)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11479)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant