Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 3

18 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7276)
Phần 3

Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo

Lệ Như Thích Trung Hậu
Sưu tầm & giới thiệu


nhung-chuyen-co

flowerba

PHẦN 3

51. SỰ TÍCH VỀ THIỀN SƯ VẠN HẠNH

Sự tích Thiền sư Vạn Hạnh kể rằng Thiền sư giúp Lý Công Uẩn lên vua, lập ra triều đại nhà Lý.Những sự việc ấy được kể lại với những chi tiết ly kỳ như các điềm lạ được báo trước qua việc sét đánh thành chữ ở vỏ cây gạo,sâu ăn thành chữ ở vỏ cây đa,lông chó trắng có vết chữ “Thiên tử” và việc Thiền sư đã đặt ra những lời phù sấm về sau có ứng nghiệm,v.v… Những chi tiết ly kỳ như thế thường gặp ở nhiều sự tích, đặc biệt là ở các Thiền sư Giác Hải,Thiền sư Không Lộ,Thiền sư Từ Đạo Hạnh,…
Thiền Uyển Tập Anh còn cho biết thêm:Ngài ở Chùa Lục Tổ,làng Dịch Bảng,phủ Thiên Đức.Người Cổ Pháp,họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ Phật.
Thuở nhỏ Sư đã khác thường,gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận,xem thường công danh.
Năm 21 tuổi xuất gia,cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy.Ngoài lúc hầu hạ,Sư học tập quên cả mỏi mệt.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa,lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đếĐại Hành hết lòng tôn kính Sư.
Năm Thiên Phúc thứ I (980) tướng Tống là Hầu Nhân bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương Giáp,Lãng Sơn.Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi,Sư đáp:
“Trong vòng 3,7 ngày giặc phải lui”.Sau quả nhiên như thế.
Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành,việc bàn định chưa dứt khoát,Sư tâu: “Xin mau cất binh,nếu không, ắt mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường có kẻ gian là Đỗ Ngân,muốn mưu hại Sư.Khi việc chưa phát,Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
“Cây đất sinh nhau bạc với vàng
Cớ sao thù nghịch mãi cưu mang
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt
Thật đến về sau chẳng bận lòng”.
Ngân sợ liền thôi. Ấy,tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược,trời người oán ghét.Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ,chưa lên ngôi.Trong khoảng thời gian này, những điểm tốt xấu xuất hiện lẫn lộn nhau.Như việc Hàm Toại chùa Ứng Thiên Tâm,châu Cổ Pháp,có con chó trắng,lông trên lưng kết thành chữ “Thiên Tử”.Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ.Ngôi mộ Hiển Khánh Đại vương,bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng.Cây đa chùa Song Lâm sâu ăn vỏ,thành nét chữ “Quốc”. Ấy đại khái những việc mà tùy theo chổ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt,Lý hưng.Vì vậy,ngày Lý Thái Tổ lên ngôi,Sư ở tại chùa Lục Tổ đã biết trước,bảo với người bác và người chú của vua rằng:
“Thiên tử đã băng ,Lý Thân Vệ hiện đang ở nhà,tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn.Trong trưa này,Thân Vệ ắt được lên ngôi”.Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
“Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo dẹp
Tám cõi mừng bình an”.
Hai Vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức,quả đúng như lời Sư nói.
Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025),Sư không bệnh,nói bài kệ:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương.”
Rồi Sư dạy đệ tử rằng: “Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ,không nương vào chỗ không trụ để không trụ”.
Nói xong giây lát thì tịch.Vua và sĩ thứ làm Lễ trà tỳ,lượm cốt đựng tháp để thờ.Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:
“Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh đô.”
Về chuyện một Đại Vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bốn phía mộ đều có tiếng:
Tiếng phía đông nói:
Khánh vạn Tường nham với Quế phong
Ruột dễ,rồng thế,phụ nhau vờn
Triều tôn, Đông liệt ba trăm thế
Sáu tuất tời đây nhắm Thiên bồng.
Tiếng phía nam nói:
Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà
Đời tươi trai gái lắm người ra
Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa
Tám phương gặp Nữ thường xuất vua.
Tiếng phía tây nói:
Trông tây xa ngóng ngó Thiên trụ
Trai gái đời cao thượng tướng thủ
Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế
Thọ mạng quân vương chín chín đủ.
Tiếng phía bắc nói:
Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ
Yên vui trai gái thường không khổ
Sống lâu Thiên đức sướng đời đời
Thế thế quân vương cầu Lục tổ.
Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem.Bèn nói bài kệ rằng:
Đông có Vũ long xóm
Nam có Vũ long bờ
Tây có quán Rừng hạc
Bắc có Trấn hải hồ.
Chặng lâu Sư lại hỏi:
Chỉ trong ba tháng thôi
Thân vệ lên ngôi xã tắc
Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất
Gặp Thánh gọi Thiên đức.
Sau vua cải Cổ Pháp làm Thiên Đức ấy bởi đúng lời Sư vậy.Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử.
(Thiền Uyển Tập Anh-Lê Mạnh Thát dịch-NXB.TPHCM 1999).

52.QUẬN HE

Vào thời nhà Lê, có hai vợ chồng một nhà nghèo ở làng Đồng Lủi,sinh được một người con trai, đặt tên là Nguyễn Hữu Cầu.Thuở trẻ,Cầu mồ côi bố,người mẹ túng bấn phải cho chàng đi ở,nhưng sau cũng cố gắng cho đi học.Trong lớp,chàng là người ngỗ nghịch,không chịu kém ai.Bấy giờ có một bạn học kình địch với Cầu là Phạm Đình Trọng.Hắn là người thường được thầy khen nết na chăm chỉ,nhưng Cầu thì nhất định không phục.
Một hôm thầy đi đám,có cho Cầu và Trọng cùng theo.Lúc về,nhà đám biếu thầy một cái thủ lợn.Hai người ganh tỵ nhau không chịu xách.Thầy liền ra một câu đối Huề trư thủ,nghĩa là “xách đầu lợn”,bảo ai đối hay thì được miễn.Trọng đối lại là Phan long lân,nghĩa là “vin vảy rồng”,còn Cầu thì đối là Phá tần diệt Sở.Thầy gõ một giáo quạt vào đầu Cầu,chê Cầu đối gì mà lại thừa chữ.Nhưng Cầu cố cãi:
-Tôi dẫu đối sai,nhưng tôi không muốn vin vảy rồng mà lóc vảy rồng kia!
Thầy mắng:
-Thế thị tội to đấy,không phải chơi đâu,con ạ!
Cuối cùng,chàng bị thầy bắt phải xách thủ lợn về nhà.
Hôm khác,thầy lại ra một câu đối:Mười rằm trăng náu,mười sáu trăng treo.Trọng đối:Tháng Giêng rét đài,tháng Hai rét lộc.Câu của Cầu là:Tháng Mười sấm rạp,tháng Chạp sấm động.Thầy bảo cả hai người:
-Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to,thằng Cầu thì chỉ làm giặc!
Lúc ra chơi,Trọng bảo Cầu:
-Tao sẽ cầm quân tiêu diệt mày.
Cầu đáp:
-Nếu tao làm giặc thì tao sẽ đánh tan xác những đứa vào luồn ra cúi.
Được ít năm,Cầu lại đi học với một thầy đồ khác.Một hôm nhà thầy có việc phải mổ trâu thết khách,nhân ra cho học trò câu đối: Tể hoàng ngưu,Cầu đối: Trảm bạch xà.Thầy cho biết như thế là sai luật.Cầu đáp:
-Tôi chỉ nhìn vào ý mà không nhìn vào chữ. “Giết trâu vàng” chính là đối với “chém rắn trắng” đó ạ!
Thầy tấm tắc khen:
-Thằng bé này ngày sau có chí lớn.Hãy cố lên con ạ!
Nhưng rồi sau đó ít lâu,Cầu bỏ văn học võ.Năm mười tám tuổi,người chàng khỏe như voi,tiếng to như sấm,có thể hai tay cầm hai cối đá ném xa vài trăm thước.Chàng lại giỏi nghề bơi lặn,lặn suốt một hơi từ tả ngạn sông Bạch Đằng đến bãi huyện Yên Phong mới lên.
Bấy giờ chúa Trịnh chuyên qưyền làm nhiều điều bạo ngược:trăm tình nghìn tội đều đổ vào đầu dân.Dân tỉnh Đông rủ nhau làm giặc.Cầu cũng gia nhập vào đám giang hồ.Dần dần, chàng là bộ hạ đắc lực của Nguyễn Cừ.Bấy giờ Cừ xưng hùng một dải Hải Đông.Cừ rất yêu tài chàng,gả con gái cho và phong làm Quận công.
Có lần Cầu bị quan quân bắt được.Chúng đưa chàng ra xử trảm.Sắp bị chém,chàng nói với quản ngục:
-Chém thì chém! Nhưng hãy lập đàn chay,dựng cột phướn cho ta lễ Phật,rồi sẽ chịu hành hình.Như thế ta sẽ thỏa cái linh hồn mà không quấy nhiễu ai nữa.
Bọn quan quân nghe nói cũng sợ, bèn cho lập đàn bên sông.Cầu được cởi trói,thong thả vào lễ Phật,rồi trèo lên đài,quan quân vây bọc kín ở dưới.Chúng thấy Cầu chắp tay niệm “Nam-mô”hai tiếng rồi vụt một cái đã đâm đầu xuống sông.Chúng hốt hoảng rải quân vây đón hai đầu,nhưng tìm mãi không được.Trong khi đó thì Cầu đã lặn suốt theo dọc sông hơn ba mươi dặm mới bò lên bộ.Khi quan quân biết,thì chàng đã cướp được một con ngựa chạy như bay,không còn ai đuổi kịp.
Từ thất bại,Cầu tự lập thành một đảng riêng,tiếp tục công việc của bố vợ.Chàng đem đồ đảng chiếm Đồ Sơn làm căn cứ.Khi tế cờ, chàng bắt kỳ dịch trong làng ấy phải dọn đền thờ Thành hoàng,vứt hết bài vị của thần đi,rồi dựng bài vị mới đề danh hiệu của mình vào mà thờ.Chàng bảo họ:
-Trên có trời, dưới có đất,giữa chỉ có mình ta là hơn cả,thứ thần linh này không đáng thờ bằng ta !
Hôm khởi nghĩa,có con cá he lớn vào sông nên người ta gọi Cầu là “Quận He”.Thấy chàng lặn giỏi và có tài đánh thủy,người ta cũng tôn làm “Thần cá biển”.Tuy vậy,chàng đánh bộ cũng rất cừ.Hồi ấy có một con ngựa thần,thỉnh thoảng cứ vào buổi trưa lại từ dưới sông hiện lên,rồi lững thững tiến vào một cái miếu ở ngoài đồng.Biết là ngựa quý,Cầu đến miếu nấp định bắt nhưng ngựa lạ hơi,vừa động vào đã bị nó đá.Cầu bèn lấy thóc mang đặt ở miếu rồi ngồi rình.Ngựa lúc đầu không chịu ăn,về sau mon men tới ăn.Mấy lần như thế,Cầu bắt đầu làm quen và dần dần ngựa chịu để cho Cầu cưỡi.Ngựa thần ngày đi ngàn dặm,hang sâu khe lớn vượt qua như bay.Ngựa lại rất mến chủ.Có khi người và ngựa bị bại trận,lìa nhau mấy ngày trời,nhưng chỉ một thời gian sau,ngựa lại tìm về với chủ.
Triều đình cho Cầu là giặc nguy hiểm,cố lo diệt trừ.Chúng sai một quan Thủy đạo đốc lĩnh rất thiện thủy chiến, đem binh thuyền đến đánh.Cầu cho mười chiếc thuyền giả cách thua chạy.Bao nhiêu quan thuyền được lệnh ra sức đuổi theo.Thuyền của Cầu lui vào bến Cát Bạc. Ở chỗ đó, gió to sóng dữ,quan thuyền cao to lại nặng không tài nào lái được,bị dạt sang bờ bên Đông.Quan quân tan vỡ,Thủy đạo đốc lĩnh giơ tay chịu trói.
Nhà vua rất lo,phái mười đạo quân,cầm đầu là một viên Đại tướng nổi tiếng tới đánh.Cầu tìm chỗ hiểm đặt quân phòng giữ,nhưng bề ngoài thì cho dàn những quân già yếu để lừa địch. Đại tướng khinh thường,dẫn mười đạo quân tiến vào.Tiến đến đâu,quân Cầu giả thua,quăng khí giới bỏ chạy đến đấy.Cầu chờ cho chúng tiến đến chỗ phải nối đuôi nhau mà đi,nổ một phát sung hiệu,quân mai phục bốn bề xông ra diệt một lúc hết cả mười đạo quân, Đại tướng chỉ còn chạy thoát lấy thân.
Mãi về sau,Phạm Đình Trọng bây giờ đã là tướng tâm phúc của chúa Trịnh,tình nguyện xin đi đánh Cầu.Trọng trước lúc xuất quân,gửi cho Cầu một vế câu đối: Thổ tiệt bán hoàng:thuận giả thượng,nghịch giả hạ (nghĩa là chữ “thổ” cắt đi một nửa ngang, để xuôi là chữ “thượng”, để ngược là chữ “hạ”). Ý bảo Cầu nếu thuận sẽ để yên,nếu nghịch thì tiêu diệt.Cầu nghĩ ngay về đối gửi lại cho Trọng: Ngọc tàng nhất điểm:xuất vi chúa,nhập vi vương (nghĩa là chữ “ngọc” giấu trong mình một chấm, đưa ra là chữ “chúa”,cất đi là chữ “vương”). Ý bảo ta là một là làm chúa,hai là làm vua, chứ không thèm đầu hàng.
Hai bên dàn quân giao chiến luôn mấy trận,quân của Trọng bị đánh tơi bời.Nhưng Trọng cố xin Chúa cho mình tập hợp quân xứ Bắc như rươi,quân xứ Đoài như trấu để vây bọc Cầu.Quân của Cầu ít, lại đóng rải rác ở cuối ghềnh đầu bãi,sau đó bị quân địch dần dần dồn lại trong vòng vây.Những kẻ xông xáo định tìm cách vượt ra ngoài đều bị chết dần chết mòn.Tình thế rất nguy ngập.Một hôm,Cầu lặn đến thuyền Trọng.Mặc dầu lính canh gác vòng trong vòng ngoài,chàng cũng bám được vào bánh lái trèo được lên quan thuyền trong đêm tối.Bấy giờ Trọng đang ngủ say,Cầu quẳng vào một bức thư, đại ý nói:- “Ta có thể lấy đầu nhà ngươi như thò tay vào túi lấy một vật gì.Nhưng nghĩ tình bạn đồng học,nên ta tha cho. Đối lại,nhà ngươi hãy mở cho quân ta một lối thoát”.Sáng dậy,Trọng đọc thư,sợ quá.Hắn một mặt trưng thu tất cả các chiếu trong vùng kết liền với nhau làm một,rồi trải ra trên mặt sông để đề phòng Cầu lại lẻn đến.Mặc khác,”tương kế tựu kế”,hắn mở một lối cho quân Cầu rút lui,nhưng lại phục binh đợi khi quân Cầu rút được nửa chừng thì hai mặt xông vào ập đánh.Trận ấy,quân của Cầu thứ bị giết,thứ bị đắm đuối,thứ chạy trốn,tan tác khắp nơi.[1]Một bộ phận thoát được theo chủ tướng chạy vào Nghệ An. Đến đây không may cho Cầu,thuyền bị bão lớn đắm gần hết,phải bỏ lên bộ. Đi qua vùng Hoàng Mai,chàng bị thuộc tướng của Trọng bắt được.Chàng than lên:
-Nếu trời không hại ta thì lũ chó chết đừng có hòng mó đến người ta !
Lúc Cầu bị tử hình,vợ yêu của chàng là Nguyễn Thị Quỳnh đến gặp mặt và rút dao đâm cổ,quyết theo chồng về cõi âm cho có bạn,Con ngựa của chàng cũng bỏ ăn ba ngày,rồi đi đâu mất biệt.
Ngày nay dân Đồ Sơn còn thờ Nguyễn Hữu Cầu.Người ta bày ra tục chọi trâu để nhớ lại sức mạnh vô địch của Quận He đã từng một thời làm cho quân triều run sợ.Người ta thường nói “gan Quận He” để chỉ những người nào gan góc dũng cảm.[2]

53.CÂY TRE TRĂM ĐỐT

Ngày xưa,có một anh nông phu,nhà rất nghèo,phải đi ở cho một phú ông.Phú ông tính rất keo kiệt. Đối với kẻ ăn người ở,hắn có rất nhiều mánh khóe để bòn công mà không phải trả thêm tiền.Trong nhà hắn có một cô con gái chưa gả chồng.Thấy anh đầy tớ tuổi đã lớn mà chưa có vợ,hắn vờ vịt:
-Cứ cố làm việc đi con ạ!Lão sẽ gả con gái cho!
Vốn tính thật thà,nên khi nghe lời đường mật của chủ,anh chàng bỗng nuôi hy vọng làm rể phú ông.Từ đó,anh đổ sức ra làm việc không biết mệt.Trời chưa sáng,anh đã lội bì bõm ở ngoài đồng;cho đến tận khuya vẫn còn trần lực xay lúa,giã gạo,kéo trục,bện thừng,v.v…Bao nhiêu công việc của chủ giao,dù khó khăn nặng nhọc thế nào,anh cũng không từ chối.
Phú ông thấy mưu mình đắt thì mừng lắm.Đứa con gái của lão đời nào lại chịu gả cho hạng người như anh.Lão đã nhận lời gả cho con một nhà giàu ở làng bên cạnh vừa mang trầu cau đến chạm ngõ.Song để giấu anh, lão bắt mọi người phải giữ kín.Còn anh,anh vẫn không nghi ngờ gì cả,vẫn quần quật làm việc và gửi gắm hy vọng vào ông chủ.
Lật đật mà ngày cưới cô gái đã đến.Hôm ấy trong nhà phú ông người ta bày bàn dọn ghế,giết lợn, mổ gà tấp nập. Để cho anh đày tớ khỏi sinh sự lôi thôi làm lỡ cuộc vui của con mình, phú ông gọi anh đến và bảo:
-Con làm việc khá lắm, nhưng mà con cũng phải có gì làm sính lễ mới được.Ta không đòi tiền bạc,ruộng vườn gì cả.Cứ lên rừng chọn cây tre nào có một răm đốt,chặt mang về đây,lão sẽ cholàm lễ thành hôn.Nếu không có thì lão gả cho người khác đấy!
Anh chàng đứng ngẩn người ra một lúc,nhưng sau đó người ta thấy anh cầm rựa cắm cúi ra đi.Lên rừng, anh cố tìm những bụi tre cao rồi lách vào mà chặt.Nhưng mỗi một cây tre ngã xuốngmột lần anh thất vọng.Tre trông cao nhất ngưỡng là thế,nhưng nhiều lắm cũng chỉ đến bốn mươi đốt là cùng.Tuy vậy,anh vẫn không chịu nản.Anh lại luồn vào những nơi hiểm hóc có những bụi tre già.Và mặc cho gai tre tua tủa cào rách cả áo,toạc cả da,anh vẫn không bận tâm,chỉ mong có một cây tre trăm đốt để mang về làm lễ dâng lên bố vợ.Anh giơ cao rựa chắt lấy chặt để,nhưng tất cả cây ngã xuống đếm đi đếm lại cũng chỉ hơn những cây trước chừng dăm bảy đốt là cùng.Buồn rầu quá đỗi,anh quẳng rựa xuống đất,ngồi khóc nức nở.
Tiếng khóc của anh vang động cả núi rừng.Nghe tiếng khóc,Bụt hiện lên trước mặt hỏi:
-Con là ai?Cớ sao ngồi đây mà khóc?
Anh gạt nước mắt kể lể sự tình cho Bụt nghe.Nghe đoạn,Bụt bảo:
-Con đừng khóc nữa.Hãy đi chặt lấy một trăm đốt tre mangvề đây cho ta.
Anh nông phu lập tức làm theo lời Bụt dặn.Nhưng khi mang đủ một trăm đốt tre về thì anh lại khóc.
-Sao con lại khóc?
Anh trả lời Bụt:
-Phú ông bảo con chặt tre có một trăm đốt chứ không phải chặt một trăm đốt tre!
Bụt an ủi,rồi bày cho anh sắp một trăm đốt tre lại thành một hàng và hô mấy tiếng:- “Khắc nhập! Khắc nhập!”.Anh làm theo lời thì mầu nhiệm thay,khi mấy tiếng hô vừa phát ra,anh đã thấy tất cả các đốt tre dính vào nhau như là từ một cây sinh ra vậy.Hết sức mừng rỡ,anh vội chạy lại định mang tre về,nhưng dù lấy hết gân sức cũng không tài nào đỡ lên vai và quay trở về được.Loay hoay mãi,cuối cùng anh buông ra ngồi phịch xuống đất khóc.Bụt lại hỏi:
-Làm sao con lại khóc nữa?
-Cây tre dài quá,anh đáp.Con không làm sao mà đưa về nổi.
Bụt lại bảo anh hô mấy tiếng:- “Khắc xuất! Khắc xuất!”.Anh vừa hô xong thì cũng mầu nhiệm không kém gì lần trước,những đốt tre tự nhiên rời ra ngay.Anh mừng quá,hết lời cảm ơn Bụt, rồi xếp tre làm hai bó,quảy ra khỏi cửa rừng.
Anh về đến nhà,giữa lúc hai họ đang cỗ bàn linh đình,cô dâu chú rễ sắp bước vào lễ cưới.Anh lẳng lặng đặt gánh tre giữa sân rồi gọi phú ông ra nhận sính lễ.Thấy các đốt tre,phú ông vội quát:
-Tao bảo mày chặt cho được cây tre trăm đốt,chứ có phải chặt một trăm đốt tre đâu! Rõ ngớ ngẩn!
Chẳng nói chẳng rằng,anh nông phu luôn miệng hô:- “Khắc nhập! Khắc nhập!”.Các đốt tre lần lượt chạy ra khỏi bó rồi dính vào nhau thành một câu cao ngất nghễu.Phú ông tức mình chạy lại định lay cây tre cho nó rời ra,nhưng những tiếng “khắc nhập”từ miệng anh hô có phép làm cả người phú ông bỗng dính liền vào cây tre như là một đốt nối thêm vào vậy.Phú ông kêu la ầm ĩ.Tiếng kêu oai oái làm cho hai họ hốt hoảng đổ ra sân.Chàng rễ là người đầu tiên chạy đến định gỡ cho bố vợ,nhưng hai tiếng “khắc nhập” của anh nông phu lại làm cho người hắn dính liền vào cây và đội phú ông lên đầu. Đến lượt ông thông gia đến gỡ con ra cũng bị dính vào nốt.Tiếp đó, họ nhà trai,nhà gái cứ mỗi người xông vào gỡ là một lần bị dính cứng vào tre.Trong khi mọi người sợ xanh cả mặt thì anh đầy tớ vẫn bình thản đứng ở góc sân để đợi phú ông trả lời.Cuối cùng,phú ông đành phải van lạy xin được thả ra và hứa gả con gái cho anh, không dám nuốt lời nữa.
Bây giờ anh chàng bèn hô lên mấy tiếng:-“Khắc xuất! Khắc xuất!”.Lập tức,phú ôngmọi người rời khỏi cây tre.Sau đó chàng rể cùng họ nhà trai cắp gói ra về.Còn anh nông phu từ đó được vợ như mong ước.[3]

54. ÔNG THIỆN ÔNG ÁC

Một ông vua mước Ba-la-nại (Bénarès) tên là Ma-la-ha-xa có hai người con: Một,do Chính phi sinh ra tên là Thiện;do Thứ phi sinh ra tên là Ác.Hai người tính nết trái ngược từ thuở nhỏ.Thiện vốn thương người,một hôm đi chơi ngoài thành thấy nỗi khổ của dân chúng thì về xin vua cha mở kho để bố thí.Vua vì yêu con nên để cho Thiện tự do.Nhưng khi thấy vơi hết hai phần ba kho tàng các quan khuyên vua hãm lại.Nghe nói Long Vương ở biển Đông có viên ngọc ma-ni có thể cứu vớt chúng sinh,Thiện không ngại hiểm nguy,cương quyết ra đi mặc dù bố mẹ can ngăn.Vua không giữ được, đành chiêu mộ năm trăm người tình nguyện trong đó có Ác đi theo.Nhưng đến bờ biển,Thiện bảo họ trở về mà đi một mình. Được Long vương tặng ngọc,trên đường về Thiện lại gặp Ác. Để chiếm viên ngọc. Ác nhân khi Thiện ngủ,chọc thủng hai mắt anh rồi về một mình,nói dối vua cha rằng anh mình đã chết.
Bị mù,Thiện lưu lạc ở nước Lợi-tu-bạt (vốn có công chúa trước hứa gả cho Thiện) làm nghề gảy đàn rong.Cuối cùng được một người gác vườn ngự cho làm nghề đuổi chim.Hàng ngày Thiện phải giật dây khi nghe có tiếng chim,nhưng anh chỉ giật khi chim đã ăn xong.Một hôm công chúa dạo vườn thấy Thiện,nhưng không biết là ngưới hứa hôn, đâm ra mê mển và xin vua lấy làm chồng.Vua không ngăn được, đành phải cho hai người lấy nhau.Một hôm,công chúa đi chơi vắng,lúc về bị chồng trách.Công chúa nói mình đến thăm chị em.Chồng vẫn không tin- “Nếu lòng tôi trung chính xin cho một mắt của Thiện tự nhiên sáng ra. Đến lượt vợ trách chồng.Thiện nói: “Nếu tôi nói đúng thì xin một mắt kia sáng nốt”. Con mắt thứ hai của Thiện trở lại sáng như xưa.Thấy rể lành mắt,vua nhường ngôi cho.
Bây giờ bố mẹ của Thiện thương khóc con đến mù lòa.Một hôm Hoàng hậu viết thư bảo con bạch nhạn-con vật nuôi của Thiện ngày trước-đi tìm.Bạch nhạn quả tìm được chủ. Đọc thư,Thiện mừng quá, liền viết thư kể hết mọi việc,sai nhạn đưa về.Vua cha được thư liền bắt Ác bỏ ngục và sai người đi đón vợ chồng Thiện về nước.Thiện về đến nơi xin tha tội cho Ác.Anh được vua cha nhường ngôi.Với hòn ngọc do Ác trả,anh giúp cho cha mẹ khỏi lòa và làm cho dân chúng được ấm no hạnh phúc.[4]

55.RẮN ĐỘC

Một người lái buôn rơi vào cảnh nghèo túng và định đổi nghề làm thầy tu.Một đêm nằm chiêm bao thấy một vị thần là Pat-ma-ni-đi,hiện thân của chín kho vàng ở Ku-ve-ra,hứa giúp cho hắn trở nên giàu có.Theo lời dặn thì ngày mai thần sẽ đến nhà dưới hình dạng một thầy tu ăn xin.Người lái buôn chỉ có việc đánh một gậy vào đầu thầy tu ấy để nó biến thành vàng.Việc xảy ra như trong giấc mộng,người lái buôn trở nên giàu có lớn.Nhưng một phó cạo nhìn trộm thấy được,bèn bắt chước người lái buôn,mời các thầy tu đến nhà và khi họ đã vào rồi,hắn cầm gậy phang vào đầu họ.Kết quả hắn bị những người lính tuần phòng xông vào túm cổ giải đi.
Các truyện trên có lẽ đều bắt nguồn từ truyện Vua nước Ba-la-nại(Bénarès) nghe tiếng gọi ở bãi tha ma trong Tạp bảo tạng kinh (được dịch ra chữ Hán từ năm 472):
Xưa ở Ba-la-nại có một ông cua tên là Bơ-ra-ma-ya-xa, đêm nào cũng nghe ở bãi tha ma có tiếng gọi:-“ Ôi vua! Ôi vua!” đến ba lần.Vua kể lại cho các thầy Bà-la-môn,các nhà chiêm tinh,thầy bói để hỏi ý kiến.Họ đáp:
_Nên cho một người nào can đảm ra đấy xem sao.
Vua treo giải năm trăm đồng vàng cho người nào dám ra chỗ ấy.Có một chàng mồ côi nghèo khổ nhận đi.Khi nghe tiếng gọi,hắn hỏi,thì có tiếng đáp:
-Ta là kho vàng chôn cất ở vùng Tao-sò Đêm nào ta cũng gọi vua để đưa vàng đến cho mà vua không hề trả lời.Nay anh đáp lời ta thì ta cho riêng anh.Ngày mai ta cùng bảy người đến nhà đấy.
-Tôi phải làm gì để tiếp đón đây?
-Quét dọn nhà cho sạch,cắm hoa và trang hoàng.Dọn ăn cho bảy nhà sư và ta.Khi cho uống thì anh cầm gậy lần lượt đánh vào đầu mỗi người,và chỉ cho họ đi vào nơi mà anh chuẩn bị chứa của.
Chàng ta trở về kiếm điều nói dối vua.Với năm trăm đồng vàng tiền thưởng anh về lo liệu mọi thứ;lại có mời một phó cạo đến cạo mặt cho mình.Quả nhiên khách y hẹn đến,anh lần lượt giáng gậy vào đầu mỗi người và bỗng dưng họ biến thành những vại tiền vàng.Phó cạo nhìn trộm qua khe cửa thấy thế,cũng bắt chước mời tám thầy tu đến nhà mình và cũng nện cho mỗi người một gậy y như chàng mô côi đã làm.Nhưng mấy thầy tu bị đánh nằm lăn lóc trong vũng máu trừ một người thoát được kêu cứu ầm ĩ.Vua sai bắt phó cạo giải đến.Hắn kể cho vua nghe đầu đuôi.Vua sai người đến khám nhà chàng mồ côi,nhưng khi họ toan chiếm kho vàng thì vàng đã biến thành những con rắn độc,miệng phun ra lửa.Vua phán:
-Của ấy thực là sở hữu của nó![5]

56.TRUYỀN THUYẾT VỀ CHUYỆN CỌP TU

Ở núi lớn thuộc xã Thắng Nhì (Vũng Tàu) chợ Bến Đá có một ngôi đền,tục gọi là Điện Bà,rất linh thiêng.Tương truyền,thuở vùng đất Vũng Tàu chưa được khai phá, ở đây toàn là rừng hoang và cọp,voi lui tới nhiều không kể xiết.Một ngày nọ,có một vị du Tăng họ Trương từ Trung Bộ trên một chiếc ghe bầu cập bến ở vùng Núi Lớn.
Thấy cảnh trí u tịch,phong thổ thuần lương nên ông đốn cây dựng một cái cốc nhỏ giữa rừng hoang bên cạnh Điện Bà để tu đạo.Khi ông qua đời, có một vị du tăng khác đến đây xây dựng một ngôi chùa khang trang hơn.Nhưng khi vị sư này qua đời thì bẵng đi một thời gian lâu không có ai lai vãng.Cảnh chùa hoang phế mãi cho đến 1949 mới có vị Yết Ma,pháp danhGiác Ngộ đến Trú trì xây dựng lại chính điện,lập thêm nhà tổ khang trang.
Cạnh bên Điện Bà, đến nay còn dấu hai miệng hang lớn,tục truyền là nơi hai “ông Hổ”tu thời du Tăng họ,Trương nọ ở đây.
Truyền rằng,vào thời ấy,khu vực này có hai vị chúa sơn lâm cai quản muôn thú.Chúng rất khỏe và tinh khôn,không một ai có thể phục được.Thế nhưng khi vị du Tăng họ Trương đến đây,lấy hang hổ làm nơi tạm trú thì chúng không phản ứng gì,Dần dần khi ông ta cất xong cốc thì cứ sáng chiều khi nhà sư gõ mõ tụng kinh thì hai vị chúa sơn lâm lại đến nghe kinh một cách đều đặn và rồi chúng không vào các thôn lân quanh vùng để bắt gia súc ăn thịt như trước nữa.Về sau,ngoài hai ông hổ này,lại có thêm một bầy khỉ kéo đến nghe kinh.Chúng thân thiết với vị du Tăng này đến nỗi ông thường dành phần hoa quả do bá tánh cúng dường để chia cho chúng.
Hai con hổ ở tu luôn trong hai cái hang ấy.Một con ở đó mãi cho đến chết và một con khác bị lính Pháp bắn chết khi nó ra ngoài mé rừng.trong chùa nghe tin này liền đến xin xác về chôn trong cái hang cũ của nó,lại lấy đầu phơi khô để thờ trong chùa.
Ở chùa Thiên Thai dưới chân núi Cô Sơn (thuộc vùng Bà Rịa)cũng có một truyền thuyết tương tự.
Tục truyền,khi vị Tổ khai sơn chùa Thiên Thai này đến đây thì Cô Sơn là một ngọn núi tứ bề là rừng hoang bao bọc. Ở phía chân núi có một thạch động là nơi ở của một con cọp trắng.Thoạt tiên,giữa chốn rừng cây rậm rạp và chưa có điều kiện để dựng am xây cốc,Tổ đã vào trú trong thạch động.Bạch hổ đi săn mồi trở về thạch động thấy có người thì gầm thét dữ dội.Tổ ôn tồn đề nghị với bạch hổ nhường nơi ấy cho ông để làm cốc thờ Phật.Nghe vậy,bạch hổ liền nguôi giận,gục gặc đầu mấy cái rồi bước đi.
Truyện kể rằng cứ đến ngày rằm,ngày mồng một,bạch hổ lại trở về thạch động,nằm im trước cửa để nghe tiếng mõ tụng kinh.Người ta kể rằng,dường như bạch hổ từ đó cũng không ăn thịt nữa mà chỉ ăn mít chín,do vậy, mỗi khi bạch hổ đi đến đâu thì mùi mít chín thơm lừng cả một vùng quanh đó.Về sau,bạch hổ già chết ở trong một hang núi,sát ngôi miếu thờ Cô Sơn Thánh mẫu gọi là Dinh Cố trên đỉnh Cô Sơn.Người ta cho rằng bạch hổ sau khi nhường thạch động cho Tổ Thiên Thai đã đến ở hang núi này.Do vậy, đến nay, ở đây có lập miếu thờ bạch hổ.
Tổ khai sơn chùa Thiên Thai (Chơn Tiên)cũng đã lập bàn thờ bạch hổ ở thạch động để nhắc nhở việc bạch hổ đã nhường nơi ấy.Hiện nay, di tích này vẫn còn.
(Theo lời kể của ông Từ ở Dinh Cố và Ni cô ở thạch động)
(Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường,NXB.TPHCM,1993)

57.TẤM CÁM

Ngày xưa,có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ.Hai chị em suýt soát tuổi nhau.Tấm là con vợ cả,Cám là con vợ lẻ.Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé.Sau đó mấy măm thì cha Tấm cũng chết.Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám.Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt.Hàng ngày,Tấm phải làm lụng luôn canh,hết chăn trâu,gánh nước, đến thái khoai,vớt bèo; đêm lại còn xay lúa,giã gạo mà không hết việc.Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng, mặc trơn,suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng.
Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ,bảo ra đồng bắt con tôm,cái tép,Mụ ta hứa hẹn:
-Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ.
Ra đồng,Tấm nhờ mò cua, bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép.Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia,mãi đến chiều vẫn không được gì.
Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:
-Chị Tấm ơi!Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.
Tin là thật,Tấm bèn xuống ao,lội ra chỗ sâu tắm rửa.Cám thừa dịp tút tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước.Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu.
Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm,liền hiện xuống hỏi:
-Con làm sao lại khóc?
Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe,Bụt hỏi:
-Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì không?
Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:
-Chỉ còn một con cá Bống.
-Con đem con cá Bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi.Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai,còn một đem thả xuống cho Bống.Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này:
Bống bống,bang bang,
Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Không gọi đúng như thế thì nó không lên,con nhớ lấy!
Nói xong Bụt biến mất.Tấm theo lời Bụt,thả Bống xuống giếng.Rồi từ hôm ấy trở đi,cứ sau nữa ăn,Tấm đều để dành cơm giấu đưa ra cho Bống.Mỗi lần nghe lời Tấm gọi,Bống lại ngoi lên mặt nước, đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống.Người và cá ngày một quen nhau,và Bống ngày một lớn lên trông thấy.
Thấy tấm sau mỗi bửa ăn thường mang cơm ra giếng,mụ dì ghẻ sinh nghi,bèn bảo Cám đi rình.Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi Bống,bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi kể lại cho mẹ nghe.
Tối hôm ấy, mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu và dặn:
-Con ơi con!Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy.Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa,chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm vâng lời,sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng,cũng gợi Bống lên ăn y như Tấm gọi.Nghe lời gọi,Bống ngoi lên mặt nước.Mẹ Cám đã chực sẵn,bắt lấy Bống đem về nhà làm thịt.
Đến chiều Tấm dắt trâu về.Sau khi ăn xong,Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng.Tấm gọi nhưng chẳng thấy Bống ngoi lên như mọi khi.Tấm gọi mãi,gọi mãi,cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước.Biết là có sự chẳng lành cho Bống,Tấm òa lên khóc,Bụt lại hiện lên,hỏi:
-Con làm sao lại khóc?
Tấm kể sự tình cho Bụt nghe,Bụt bảo:
-Con Bống của con người ta đã ăn thịt mất rồi.Thôi con hãy nín đi! Rồi về nhặt lấy xương nó,kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về theo lời Bụt, đi tìm xương Bống,nhưng tìm mãi các xó vườn,góc sân mà không thấy đâu cả.Một con gà thấy thế,bảo Tấm:
-Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc,ta bới xương cho!
Tấm bốc nắm thóc ném cho gà.Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay.Tấm bèn nhặt lấy bỏ lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội trong mấy ngày.Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem.Trên các nẽo đường,quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy.Hai mẹ con con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội.Thấy Tấm cũng muốn đi,mụ dì ghẻ nguýt dài.Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc,bảo Tấm:
-Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dỡ;về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Nói đoạn,hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường.Tấm ngồi nhặt một lúc,thấy sốt ruột,nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong,bèn ngồi khóc một mình.Giữa lúc ấy Bụt hiện lên hỏi:
-Con làm sao lại khóc?
Tấm chỉ vào cái thúng,thưa:
-Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc,gạo ra gạo,rồi mới được đi xem hội.Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi,còn gì nữa mà xem.
Bụt bảo:
-Con đừng khóc nữa.Con mang cái thúng đặt ra giữa sân để ta sai một đàn chim sẽ xuống nhặt giúp.
-Nhưng ngộ chim sẽ ăn mất thì khi về con vẫn cứ phải đòn.
Con cứ bảo chúng nó thế này:
Rặt rặt (tức chim sẻ)xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào,thì tao đánh chết.[6]
thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.
Tự nhiên ở trên không, có một đàn chim sẻ đáp xuống sân,nhặt thóc ra một đằng,gạo ra một nẻo.Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong,không suy suyển một hạt.Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi,Tấm lại nức nở khóc.Bụt lại hỏi:
-Con làm sao còn khóc nữa?
-Con rách rưới quá,người ta không cho con vào xem hội.
-Con hãy đào những cái lọ xương Bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội.
Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một bộ quần áo mớ ba,một cái xống lụa,một cái yếm lụa điều và một cái khăn miễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giày thêu, đi vừa như in.Lọ thứ ba đào lên thì thấy một con ngựa bé tí,nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất,bỗng chốc nó đã hý vang lên và biến thành ngựa thật Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.
Tấm mừng quá,vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi.Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô.Nhưng khi phóng qua một chỗ lội,Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước,không kịp nhặt.Khi ngựa dừng lại ở đám hội,Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.
Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội.Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đây tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên,không chịu đi.Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem,họ nhặt ngay được chiếc giày thêu của Tấm lúc nãy đánh rơi xuống đó.Vua ngắm nghía chiếc giày không chán mắt.Bụng bảo dạ: “Chà! Một chiếc giày thật xinh!Người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc”.
Lập tức Vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi xem hội đến ướm thử,hễ ai đi vừa chiếc giày này thì Vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà,các cô chen nhau đến chỗ thử giày.Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tý cầu may.Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả.Mẹ con con Cám cũng trong số đó.Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm.Cám mách mẹ:
-Mẹ ơi,ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy!
Mụ dì ghẻ của Tấm bỉu môi:
-Con nỡm!
Chuông khánh còn chả ăn ai
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in.Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào.Hai chiếc giày giống nhau như đúc.Bọn lính hầu hò reo vui mừng.Lập tức Vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung.Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiênhằn học của mẹ con con Cám.
Tuy sống sung sướng trong hoàng cung,Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha.Nàng xin phép Vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì.Mẹ con con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng.Nay thấy Tấm về,lòng ghen ghét lại bừng bừng bốc lên.Nghĩ ra được một mưu,mụ dì ghẻ bảo Tấm:
-Trước đây con quen trèo cau,con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời,trèo lên cây cau.Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này dì nó cầm dao đẵn gốc.Thấy cây rung chuyển,Tấm hỏi:
-Dì làm gì dưới gốc thế?
-Gốc cau lắm kiến,dì đuổi khiến cho nó khỏi lên đốt con.
Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ,Tấm ngã lộn cổ xuống ao,chết.Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối với Vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối,nay đưa em vào để thế chị.Vua nghe nói trong bụng không vui,nhưng vẫn không nói gì cả.
Lại nói chuyện Tấm chết hóa làm chim vàng anh.Chim bay một mạch về kinh, đến vườn Ngự.Thấy Cám đang giặt áo cho Vua ở giếng,vàng anh dừng lại trên một cành cây,bảo nó:
-Phơi áp chồng tao,phơi lao phơi sào,chớ phơi bờ rào,rách áo chồng tao!
Rồi chim vàng anh bay thẳng vào cung đậu ở cửa sổ,hót lên rất vui tai.Vua đi đâu,chim bay đến đó.Vua đang nhớ Tấm không nguôi,thấy chim quyến luyến theo mình,Vua bảo:
-Vàng ảnh vàng anh,có phải vợ anh,chiu vào tay áo.
Chim vàng anh bay lại, đậu vào tay Vua,rồi rúc vào tay áo.Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ.Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở.Từ đó, ngày đêm Vua chỉ mê mải với chim,không tưởng đến Cám.
Cám vội về nhà mách mẹ.Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối Vua.Trở lại cung vua,Cám nhân lúc Vua đi vằng,bắt chim làm thịt nấu ăn,rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.Thấy mất vàng anh,Vua hỏi, Cám đáp:
-Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim nên trộm phép Bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Vua không nói gì cả.Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào.Khi Vua đi chơi ở vườn Ngự,cành lá của chúng sà xuống che kìn thành bóng tròn như hai cái lọng.Vua thấy cây đẹp rợp bóng,sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát.Khi Vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại.Từ đó,không ngày nào là Vua không nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ.Mẹ nó bảo cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi,rồi kiếm điều nói dối Vua.Về đến cung,nhân một hôm gió bão,Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng làm khung cửi.Thấy cây bị chặt,Vua hỏi thì Cám đáp:
-Cây bị đổ vì bão, nên thiếp phải sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho Bệ hạ.
Nhưng khi khung cửi đóng xong,Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:
Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.
Thấy vậy con Cám sợ hãi,vội về nhà mách mẹ.Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi,rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm.Về đến cung,Cám làm như lời mẹ nói.Nó mang tro đã đốt đem đi đổ ở lề đường,cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn,cành lá xum xuê. Đến mùa có quả,cây thị chỉ đậu được có một quả,nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi.Một bà lão hàng nước ở gần đó một hôm đi qua dưới gốc ngửi thấy mùi thơm,ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao,bèn giơ bị ra và nói lẩm bẩm:
-Thị ơi thị,rụng vào bị bà,bà đem bà ngửi chứ bà không ăn.
Bà lão vừa nói dứt lời thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị.Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng,thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.
Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng.Từ trong quả thị chiu ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm.Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ,rồi đi vo gạo thổi cơm,hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu mình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị.Lần nào đi chợ về,bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp,cơm ngon canh ngọt sẵn sàng thì lấy làm lạ.
Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về,rình ở bụi cây sau nhà.Trong khi đó, Tấm từ quả thị chiu ra rồi cũng làm các việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa.Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá,bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị.Từ đó Tấm ở với bà hàng nước.Hai người thương yêu nhau như hai mẹ con.Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm,nấu nước,gói bánh,têm trầu để bà ngồi bán hàng.
Một hôm,Vua đi chơi ra khỏi hoàng cung.Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ bèn ghé vào.Bà lão mang trầu nước dâng lên Vua.Thấy trầu têm cánh phượng,Vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng như vậy,liền phán hỏi:
-Trầu này ai têm?
-Trầu này con gái già têm.Bà lão đáp.
-Con gái của bà đâu,gọi ra đây cho ta xem mặt.
Bà lão gọi Tấm ra,Tấm vừa xuất hiện,Vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước,có phần trẻ đẹp hơn xưa.Vua mừng quá,bảo bà hàng nước kể lại sự tình,rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.
Cám thấy Tấm trở về và được Vua yêu thương như xưa thì nó không khỏi sợ hãi.Một hôm Cám hỏi chị:
-Chị Tấm ơi chị Tấm,chị làm thế nào mà đẹp thế?
Tấm không đáp,chỉ hỏi lại:
-Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám bằng lòng ngay.Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi.Tấm bảo Cám xuống hố, rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố.Cám chết, Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ,nói là quà của con gái mụ gửi biếu.Mẹ con Cám tưởng thiệt,lấy mắm ra ăn ,bữa nào cũng nức nở khen ngon.Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:
-Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con,có còn xin miếng?
Mẹ con Cám giận lắm,chửi mắng rầm rĩ rồi vác sào đuổi quạ.Nhưng đến ngày mắm ăn gần hết,dòm vào chĩnh mụ thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra chết.[7]
Khảo dị:
Truyện trên do người miền Bắc kể,trong đó có một vài chi tiết mỗi nơi kể một khác.Ví dụ câu nói của vàng anh với Cám khi Cám giặt áo cho vua,người Nghệ An có nơi kể là:
-Giặt áo chồng tao,thì giặt cho sạch,nhược bằng không sạch,tao rạch mặt ra.
-Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, đừng phơi bờ rào,tao cào mặt ra.[8]
Hay là câu của quạ:
-Ngon ngỏn ngòn ngon, ăn cả thịt con,thực ngon lắm phỏng.[9]
Riêng ở vùng Bắc Ninh thì truyện Tấm Cám được truyền tụng như là lịch sử Thái phi Ỷ Lan.Quyển “Lý Triều đệ tam Hoàng hậu sự tích” đã chép truyện bà Ỷ Lan gắn liền với nhân vật Tấm (khác với truyện trên, ở đây gọi ngược lại:Tấm là Cám và Cám là Tấm. Ỷ Lan Thái phi là Cám) và tước bỏ đi nhiều chi tiết của truyện nhân gian:
Ở làng Thổ Lỗi ( hay Siêu Loại),huyện Gia Lân,có ông Lệ Công Thiết và vợ là Vũ Thị Tỉnh,chuyên trồng dâu nuôi tằm,một đêm vợ nằm chiêm báo thấy mình nuốt mặt trăng,sau đó sinh ra được một cô gái tên là Cám (hoặc Khiết Nương).Vợ chết,chồng lấy vợ kế là Chu Thị,sinh một gái khác là Tấm.Thế rồi câu chuyện cũng diễn ra với đủ các tình tiết:bắt cá,nuôi bống, ăn thịt bống và nhặt xương bống chôn chân giường, đúng như truyện trên vừa kể,chỉ có khác ở chỗ Bụt lại là nhà sư Đại Diên,tu ở chùa Linh Nhân.Và điều khác thứ hai đáng lưu ý là xương bống chôn một trăm ngày đào lên được một đôi hài quý,nhưng khi Cám phơi đôi hài thì một con quạ thần trông thấy,cắp lấy một chiếc bay đến kinh đô rồi thả xuống sân điện.Vua bấy giờ là Lý Thánh Tông chưa có con,cho đấy là điềm lành,bèn loan báo cho đàn bà con gái khắp nơi đi ướm hài.
Từ đấy,câu chuyện phát triển hoàn toàn khác với cổ tích nói trên.Vua đi cầu tự ở chùa,xa giá đến đâu,mọi người đua nhau đi xem đến đấy.Chỉ có Cám vẫn chăm chỉ hái dâu.Một ông hàng dầu thấy một đám mây che trên đầu Cám,bèn mách cho quan quân biết.Vua cho gọi Cám đến hỏi tại sao lại không đi xem Vua trẩy?Cám tâu là vì dì bắt đi hái dâu.Vua cho ướm chân vào hài thì vừa như in.Vua bèn lấy Cám làm vợ,gọi là Ỷ Lan.
Truyện còn nối vào một mẫu nữa,kể việc Nguyễn Bông đầu thai: Ỷ Lan làm vợ Vua lâu ngày vẫn chưa có con. Đại Diên gặp Nguyễn Bông (là người Vua sai đến chùa) hỏi:
-Có muốn làm Hoàng tử không?
Bông đáp:
-Muốn.
Đại Diên dặn Bông lẻn vào buồng tắm của Hoàng hậu trong lúc Hoàng hậu đang tắm (tình tiết này giống với tình tiết của Từ Đạo Hạnh),kết quả,việc làm của Bông bại lộ,Bông bị án chém.Tối hôm ấy,Thánh Tông mộng thấy một Tiên ông đưa đến cho một đứa con trai.Quả nhiên, Ỷ Lan có mang, đẻ ra một Hoàng tử.Nhưng Hoàng hậu họ Dương lại bắt trộm Hoàng tử,nói dối là con do mình đẻ ra và thay vào một con mèo,nói là con của Ỷ Lan (giống với tình tiết củ các truyện ở Khảo dị số 165).Lớn lên,Hoàng tử nhận ra mẹ đẻ của mình và giết chết Hoàng hậu họ Dương cùng bảy mươi mốt cung nữ.[10]
Ở Bắc Ninh còn có người kể xen vào những tình tiết khác.Ví dụ một trong bốn cái lọ đào được có một lọ nước thần.Nhờ lọ nước,Cám tắm vào,da dẻ trở nên trắng trẻo,người đẹp tuyệt trần (giống với tình tiết trong truyện “Ai mua hành tôi).[11]

58. AO PHẬT

Ngày ấy,vùng đất mà bây giờ là Trà Vinh còn là một vùng biển cả.Trên bờ biển người sống rất cơ cực.Phật thấy vậy thương tình,bèn hóa phép làm cho biển nổi lên thành những giải đất nối liền với bờ.Những giải đất này đặc biệt rất màu mỡ.Vì thế,người dắt díu nhau ra đây chăm chút làm ăn,lúa khoai lúc nào cũng đầy nồi.Cuộc sống trở nên vui tươi hơn trước.
Nhưng cũng ở vùng biển này,lúc bấy giờ có một con Chằn tinh,sống lâu năm dưới nước rất hung ác.Nó thường nổi lân khỏi mặt nước há cái miệng khổng lồ có thể lọt một lúc đôi ba người.Bộ hạ của Chằn tinh gồm có thuồng luồng,cá sấu,…rất dữ tợn, ăn thịt người và súc vật không biết chán.
Mỗi năm vào tháng mười,dân cư trong hạt tổ chức một ngày lễ mừng hội mùa,trong ngày lễ có cuộc dâng hoa để cám ơn đức Phật.Tại một ngôi chùa xây lên giữa đồng,dân chúng thường hội họp đông đúc làm lễ cúng Phật.Sau đó,các nơi bày ra trò múa hát, đánh đu để cho trai thanh gái lịch vui chơi.Ngày hội mùa năm ấy giữa khi mọi người nô nức về dự thì Chằn tinh cùng bộ hạ từ dưới biển mò lên tìm mồi.Thấy chúng,ai nấy sợ hãi bỏ chạy tan tác.Chúng được để mặc sức tung hoàng.Chỉ có những kẻ nấp trong chùa thì được yên ổn vì Chằn tinh rất sợ phép Phật.
Khi Chằn tinh và bộ hạ no bụng rút đi thì những người còn sống sót cũng từ các nơi trốn tránh thất thểu trở về.Cái cảnh cha mất con, vợ mất chồng,tiếng khóc vang động khắp nơi, không khí tang tóc bao trùm mọi ngã.
Cho đến mấy năm sau,cuộc sống bình thường mới dần dần trở lại.Người lại ra sức hàn gắn những vết đau thương.Nhưng Chằn tinh và bộ hạ vẫn không ngớt rình mò phá phách.
Phật thương người luôn năm đau khổ,bèn hiện ra trao cho họ một lưỡi gươm và dặn:
-Cứ bạo dạn lên! Nó không có gì đáng sợ cả.
Một lần, giữa lúc Chằn tinh điên cuồng gầm thét, giữa lúc mọi người đang khiếp đảm,thì một tiếng nói lanh lảnh từ trong chùa dội ra ngoài:
-Con quái vật! Mày có chạy đằng trời!
Dứt lời, một người đàn bà tay cầm gươm từ chùa xông ra,nhằm Chằn tinh mà chém.Chằn tinh sải chân bước lên định nuốt tươi đối thủ nhưng hắn đã bị người đàn bà chém xả một nhát đứt rời một chân.Bị thương,Chằn tinh kêu lên một tiếng rung rợn,rồi lết về biển, lũ bộ hạ cũng vội vàng lao theo.Mọi người mừng rỡ đổ ra xem người đánh đuổi được quái vật là ai.Thì ra đó là bà Am,một người đàn bà hiền lành trong xóm làng.
Nhưng Chằn tinh vốn có nhiều phép lạ.Dầu bị thương nặng đến đâu,hễ lê về đến sào huyệt,lội được vào vũng nước thần thì chỉ trong một đêm nó lại lành lặn,khỏe mạnh như cũ.Vì thế,sánh hôm sau ở chỗ chiếc chân đứt lìa của Chằn tinh đã có một chân khác mới mọc.Nó lại kéo bộ hạ lên báo thù.Lần này,chúng đến với một khí thế dữ dội hơn trước nhiều.Mọi người đành kéo nhau chạy trốn.Phật nghe lời người khẩn cầu lại hiện ra trao cho họ một quả cầu sắt và bảo:
-Hãy nung cho đỏ mà ném vào miệng Chằn tinh!
Thế rồi bà Am lại can đảm đứng ra đương đầu với con quái vật để cứu dân làng .Giữa lúc chằn tinh cùng bộ hạ đang thi nhau đi tìm mồi thì bà đã đến sát trước mặt nó,lên tiếng thách thức:
-Nếu mày la to được như tiếng sấm thì ta sẽ bảo mọi người tới đây nộp mình.
Chằn tinh đáp:
-Ta còn la to hơn cả tiếng sấm nữa kia!
Dứt lời,nó há miệng to bằng cái nong,hét lên một tiếng dữ dội.Bà Am nhanh như ctắ, ném quả cầu đã nung đỏ lọt vào miệng hắn.
Bị bỏng,Chằn tinh hết sức giãy giụa,cố khạc quả cầu ác hại,lăn lộn mấy vòng rồi lê về sào huyệt của mình.Dân chúng đang trốn nấp đây đó lại lũ lượt kéo ra,sung sướng reo mừng.
Nhưng khi về đến vũng nước thần,Chằn tinh lại được bình phục.Vì vậy,qua hôm sau nó lại mò lên.Lần này thì phật đã bày cho con người đào hố sâu,dưới cắm nhiều sắt nhọn,trên phủ cỏ rác để đợi kẻ thù.Chằn tinh và bộ hạ vừa nhô lên khỏi mặt nước, đã đe dọa:
-Hôm nay quyết không để cho chúng mày chạy trốn!
Nhưng lần này người cũng nhất định không chạy nữa.Họ đứng túm lụm sau lưng bà Am tay cầm sẵn lao dài,có vẻ thách thức.Chằn tinh và bộ hạ ào ào kéo tới như một trận bão.Thế nhưng muộn mất rồi,con quái vật và bộ hạ của nó đã sa xuống hố,chân và bụng dính chặt dưới hố như bị đóng đinh,không thể tiến lui được nữa.Thế là tất cả mọi người xông lại,kẻ đâm,người lao,giết chết chúng tại chỗ,còn nào sống sót cũng cuống cuồng chạy về biển sâu.
Từ đó người trừ xong nạn lớn.Chỗ cái hố chông do Chằn tinh quằn quại đã khoét sâu thành ao rộng hàng chục mẫu,người ta gọi là ao Phật.Cũng có người gọi là ao Bà Am.Xung quanh ao đất bốc lên thành những gò nhấp nhô,cũng có người gọi là gò Chằn tinh.[12]

59. VỤ KIỆN CHÂU CHẤU

Ngày ấy có một con châu chấu mải mê kiếm ăn lạc mất đường về.Tối đến, trời rét lại mưa rơi rả rích,làm cho chấu ta run rẩy.Nó muốn tìm một chỗ ngủ,nhưng bóng đèn dày đặc chẳng biết đường nào mà lần.
-Ta cứ bò liều, may gặp chỗ nào khỏi ướt thì nằm tạm một đêm.
Nghĩ vậy,chấu ta cứ lồm cồm bò mãi trên một cành cây mới bám được.Cuối cùng, không ngờ nó lại lọt được vào nhà chim ri, Đến đây,châu chấu thấy ấm áp dễ chịu.Nhưng một tiếng hỏi cất lên:
-Đêm hôm khuya khoắt,ai vào nhà tôi đó?Khéo kẻo đạp lên mấy đứa con tôi!
Thấy chim ri mẹ đứng lên hỏi thế,chấu rên rỉ đáp không ra hơi:
-Tôi là chấu đây!... Đêm lạnh quá …Làm ơn cho ngủ nhờ một đêm,sáng dậy đi ngay.
-Nhà rách nát lại chật chội,mấy mẹ con nằm không đủ.thôi chú đi tìm nơi khác đi!
Nhưng chấu vẫn kêu nài:
-Cho ghé lưng một tí phía ngoài này cũng được kẻo tôi lạnh cóng không thể bước đi đâu được nữa.
Nghe nói, chim ri mẹ thương hại,bèn đáp:
-Thôi được, cho chú mày nằm ghé bên kia,nhưng phải co cẳng kẻo đạp vào mấy đứa con ta.
Thế là chấu xếp hai càng vào bụng, đặt lưng ngay bên cạnh mấy con bé của chim ri.Chỉ một chốc sau,chấu cũng như chim ri ai nấy đều ngon giấc.
Đang ngủ say,bỗng nhiên một tiếng nai kêu “tác” bên cạnh nhà.Tiếng kêu quá to làm cho châu chấu giật mình tỉnh dậy.Chấu vươn vai rồi quên mất lời chim ri dặn,duỗi thẳng cẳng dài thượt của nó.Nhà chim ri vốn đặt lơ lửng trên một cành na,nhà quá rách nát vì gió đánh tả tơi lâu ngày chưa kịp chữa.Châu chấu đuỗi mạnh đôi càng làm cho cả một chỗ nằm kêu răng rắc:
-Ôi chao! Đổ mất, đổ mất!
Chim ri nẹ kêu tướng lên.Quả nhiên cái duỗi chân của chấu đã làm hại nó.Mấy con chim bị đạp về một phía,cái nhà nghiêng hẳn,chỉ một chốc rời khỏi cành na,một con chim non còn ngủ say cũng lăn theo và rơi tõm xuống sông.Mẹ con chim bay loạn xạ đi tìm thì nó đã bị nước cuốn đi mất.
Tức giận và châu chấu tự dưng vô cớ đến gây tai họa cho nhà mình,sánh hôm sau,mẹ con chim ri bèn đi kiện với Bụt.Nghe nguyên cáo trình bày đầu đuôi,Bụt liền theo đến tận nơi xem xét rồi gọi châu chấu đến hỏi:
-Tại sao nhà ngươi đêm hôm đến làm hại nhà người ta?
Châu chấu cúi đầu nhận rằng quả có gây tang tóc cho nhà chim ri,nhưng nó cũng cho Bụt biết rằng nó vốn không có ác ý:
-Tôi không phải là kẻ vô ơn bạc nghĩa đâu.Vì con nai tự dưng ở đâu đến kêu thét vào tai làm cho tôi giật nảy mình.Chính vì thế mà tôi duỗi chân theo thói quen nên mới ra nông nỗi.
Thấy châu chấu tình thực nên Bụt cũng thương hại,bèn cho gọi nai đến,kể cho nai biết đầu đuôi sự việc xảy ra,rồi bảo:
-Nhà đổ,con chết,rõ ràng là tại tiếng kêu thét của nhà ngươi.Tại sao nhà ngươi đêm hôm khuya khoắt đến đây kêu rống lên làm gì để gây nên tại vạ?
Nai vội vàng trả lời:
-Oan tôi quá!Lúc ấy tôi cũng đang lim dim đôi mắt,tự nhiên một quả na xanh rơi xuống trúng vào mặt làm cho tôi toáng đảm kêu lên.Vậy tại quả na chứ không phải tại tôi.
Nghe nai bày tỏ có lý,Bụt lại quay sang hỏi cây na:
-Vì sao nhà ngươi lại để cho quả xanh rơi trúng vào mặt con nai,làm cho nó hét tướng lên gây tai vạ cho nhà người ta?Người đã biết tội chưa?
Na đợi Bụt buộc tội xong,lập tức trả lời:
-Bẩm ngài.Tôi đâu có muốn quả xanh của tôi rơi.Vì con sâu nó làm hại tôi, nó cắn cuống quả xanh,cho nên quả mới rụng đấy a!
Đến lượt sâu được Bụt sai gọi đến kể cho nghe sự tình rồi kết tội:
-Nhà ngươi đã thấy rõ chưa?Nếu nhà ngươi không cắn quả na xanh thì làm gì có tai vạ xảy đến cho nhà chim ri.Vậy ngươi không tránh được tội lỗi.
Nhưng Bụt không ngờ sâu cũng không nhận tội.Sâu đáp:
-Bẩm ngài, tôi vốn sống yên ổn trong đám lá khô dưới kia. Ở đó tôi có nhiều thức ăn ngon lành.Nhưng mấy hôm nay có con gà ở đâu đến sục sạo tìm giết cả họ nhà tôi rất là kinh khủng.May mắn làm sao,tôi ba chân bốn cẳng bò được lên đây.Chẳng có gì nhét vào bụng nên tôi phải gặm chút vỏ quả na xanh cho đỡ đói.Nếu có rơi trúng vào nai hay là con gì khác thì điều đó không phải tại tôi mà tại con gà kia.
Lại đến lượt gà được gọi đến đối chất.Gà vốn không phải quê tại khu vực này.Nó có một đàn con.Mẹ con thường dẫn nhau đi kiếm ăn.Nhưng thức ăn ngày một hiếm.Ngày hôm kia,mẹ gà nhờ được vịt,chỗ quen biết chở qua sông hứa sẽ xin ấp trứng vịt đền ơn.Vì thế mấy hôm nay gà được no bụng.Nhưng khi nghe Bụt buộc tội mình vì đã gây tai vạ cho chim ri,gà đớ người không biết tìm câu gì để chống chế vì khu vực này không phải là quê quán của mình.Hỏi đến ba lần,gà không trả lời được,nên bị Bụt sai giam lại.
Bầy con của gà có bốn con mái,một con trống.Khi nghe vịt cho biết là mẹ mình bị giam ở bên kia sông thì chúng nó hết sức hốt hoảng.Chúng khẩn khoản nhờ vịt chở qua thăm mẹ.Bốn con gà mái nhớ thương mẹ quá,tranh đi trước.Chúng nó chỉ biết kiếm sâu tìm dế để nuôi mẹ mà không biết kêu van với Bụt để mẹ được tha,nên cuối cùng lại về không.Hôm sau đến lượt con trống con đi thăm mẹ nó.Khi nghe mẹ nó kể đầu đuôi sự tình vì sao bị Bụt bắt giam,gà trống con bèn đi tìm Bụt rồi phân trần:
-Bẩm ngài,ngài bắt giam mẹ con thật quả oan ức.
Bụt chau mày ,hỏi:
-Lại còn oan nỗi gì.Nếu mẹ mày cứ kiếm ăn ở bên kia sông đừng qua bên này thì làm gì có chuyện con sâu bò lên cắn quả na xanh,làm gì có chuyện quả na xanh ấy đứt cuống rơi vào mặt con nai để con nai kêu thét,rồi làm gì có chuyện con châu chấu giật mình duỗi chân đạp đổ nhà chim ri và làm cho con nó chết.Chính thủ phạm là mẹ mày,mày còn kêu oan nỗi gì.
Gà trống con lễ phép thưa:
-Bẩm ngài, chính vì thế mà con phải kêu oan cho mẹ con, vì rõ ràng trong lục súc sáu loài,loài nào loài ấy khi sinh con đẻ cái đều được trời cho có sữa nuôi con.Riêng loài gà chúng con thì tuyệt nhiên không có lấy một giọt sữa.Vì thế gà phải chạy vạy tần tảo nuôi con.Mẹ con phải vất vả đi các nơi kếm thức ăn là vậy.Bên kia người khôn của khó nên phải lần mò sang bên này.Tình cảnh khó khăn buộc phải thế, đâu có phải là tội tại mẹ con!
Bụt thấy gà trống con cãi cho mẹ có lý có lẽ, đành phải thả cho mẹ nó về.
Thấy gà trống bé người mà khôn ngoan,ai nấy đều khen ngợi.Từ đó mỗi lần có kiện tụng việc gì,người ta thường mang gà trống theo,hy vọng nhờ sự có mặt của nó mới thắng kiện,Còn gà thì phải ấp trứng vịt để trả ơn,dòng dõi của nó sau này vẫn thế.[13]

60. BÀ CHÚA ONG

Ngày xưa có một người học trò nhà nghèo rớt mùng tơi,tên là Sĩ.Anh ở với bà mẹ già lụ khụ.Anh muốn lấy vợ để vợ đỡ đần công việc nhà và phụng dưỡng mẹ già.Nhưng hỏi mấy đám,người ta thấy nhà anh luôn quanh năm thiếu ăn nên đều lắc đầu từ chối.Vì thế,anh vẫn phải sống một thân một mình với nghề đi củi.Hàng ngày,buổi sáng tinh sương,anh lên rừng chặt củi đem ra chợ bán.Chiều lại, ăn xong,anh mới cầm lấy quyển sách.
Cứ vậy cho đến ngày anh học thành tài.Kỳ ấy nhà vua cho mở khoa thi ở kinh đô để kén nhân tài.Các sĩ tử đua nhau chuẩn bị tiền gạo,lều chiếu để vào dự thi.Trong lòng Sĩ cũng hăm hở muốn đua chen chốn trường văn trận bút.Nhưng tài lực nhà anh quá kém cỏi,chẳng có gì để ăn tiêu dọc đường.Sắp đến kỳ thi,mấy người bạn anh lần lượt trẩy kinh mà không rủ anh.Sĩ cố chạy vạy mấy nơi,nhưng không kết quả.Mãi về sau mới có mấy nhà láng giềng tốt bụng nhận nuôi nấng mẹ già cho anh để anh yên tâm ra đi.Và rồi cuối cùng anh cũng đánh liều cất bước lên đường,tuy rằng trong lưng không có một đồng một chữ.
Thoạt đầu anh gánh hàng thuê cho bọn lái buôn.Làm hết hơi hết sức trong hai ngày,anh nhận được ở bọn họ cơm ăn và một quan tiền công.Có vốn,anh lại tiếp tục đi nữa.Sau hai ngày tiêu rất dè sẻn,số tiền mới kiếm được cũng lại hết nhẵn.Mặc dầu vậy,anh vẫn không dừng lại,hy vọng dọc đường sẽ tìm được việc làm.Nhưng rủi thay, ngày hôm ấy trời mưa, không một ai thuê mướn cả.Vì chỉ còn ba ngày nữa đã bắt đầu nhập trường,anh không thể nấn ná được. Đành phải cắm cúi bước liều trong lúc không có một hột gì vào bụng.Trời xế chiều, anh đi tới một khi rừng rậm.Trong khi đang bước thấp bước cao mong tìm ra một ngôi nhà nghỉ trọ,thì anh bị lạc đường.Anh đi quanh quẩn mãi giữa đêm tối trong lùm cây mà không nghe qua một tiếng gà gáy,chó sủa.Cuối cùng bụng đói,cật rét,sức mệt,anh trèo lên một cây cổ thụ, định tìm một chỗ tạm nghỉ chân.May làm sao,lúc trèo lên đến nhành chẻ ba,bỗng thấy thấp thoáng bên phía tay trái có ánh đèn.Lòng mừng khấp khởi,anh vội tụt xuống lần về hướng ấy.Chỉ một lát,anh đã đứng trước một ngôi nhà lá nhỏ.Anh hồi hộp gọi cửa,và rất ngạc nhiên thấy cánh cửa mở ngay như có người chờ sẵn.Một cô gái tay cầm một cây đèn sáp bước ra.Dưới ánh đèn Sĩ trông rõ cô gái mặt mũi xinh xắn,nhưng hai mắt lại mù.Cô đon đả:
-Chào thầy khóa.Thiếp chờ thầy đã lâu.Mời thầy vào trong này.
Nghe mấy lời của chủ nhân,Sĩ không còn hồn vía nào nữa.Làm sao cô gái mù này lại biết mình là học trò và đang chờ mình,chỉ có yêu tinh mà quỷ đang giương bẫy đón mối thì mới có thể như vậy.Sĩ rất ngần ngại,nhưng cái bụng và sức khỏe không cho phép anh bước đi đâu được nữa.Anh đánh liều bước vào nhà,không quên đề phòng mọi sự bất ngờ có thể xảy đến.Trong nhà, ngoài cô gái còn có một người bõ già.Sau khi mời Sĩ ngồi,cô gái bảo bõ già mang hỏa lò lại cho khách hơ áo quần.Sĩ vừa cảm thấy khô ráo ấm cúng thì bõ già đã bưng lên một mâm cơm,có cô gái mù đi theo mời mọc:
-Nhà thiếp thanh đạm chẳng có gì.Xin mời thầy khóa cứ thực tình cho.
lúc đầu ngờ vực không dám đụng đũa,nhưng sau,cơn đói đã át tất cả.Anh cầm lấy bát nếm thử một miếng,thấy không có vẻ gì khác,nên cắm đầu ăn.Bữa cơm quả là thanh đạm,nhưng cơm nóng canh sốt làm anh cảm thấy chưa bao giờ ngon miệng đến thế. Ăn xong bõ già đã dọn ổ rơm,trải chiếu cho khách nằm.Sĩ mệt quá,nằm xuống,nhưng không dám ngủ,cố ý rình xem ma quỷ giở những trò gì.Nhưng chỉ một lúc,anh đã chợp mắt và ngủ thiếp đi.
Đến nửa đêm,Sĩ bỗng giật mình tỉnh dậy.Gió bão thổi tới mỗi lúc một nặng nề.Thỉnh thoảng trời lại gầm lên dữ dội.Anh nghe tiếng cô gái nói:
-Bõ già ơi, gió lại đổi sang phía Bắc rồi.Nó rít mạnh quá bõ nhỉ?Đấy kìa cái tổ nhỏ ở cành thứ ba bị đổ mất rồi.Bõ thử ra xem nào.
Sĩ rất lấy làm lã sao cô gái mù lại ăn nói như một người hoàn toàn sáng mắt,anh đang suy nghĩ vẩn vơ thì lại ngủ thiếp đi.
Không bao lâu,gió càng thổi mạnh như muốn bốc cả nóc nhà.Sĩ lại tỉnh dậy lần nữa.Lần này anh nghe tiếng cô gái nói ở nhà ngoài:
-Bõ già ơi! Gió mạnh thế này thì chắc chúng nó sẽ lạc mất nhiều đấy.Nhưng chẳng sao,mai kia chúng nó lại về đủ. Ở cái tổ thứ bảy có nhiều con đang chờ mà chưa vào được!
Liền đó, Sĩ nghe tiếng tơi nón của bõ già lạch xạch lần ra vườn.Bão vẫn dữ dội.Anh ngồi dậy và tiện chân bước ra cửa.Qua những cành thấp dưới gốc cây, ong vàng đậu chi chít, đậu cả lên nón,lên áo cô gái.Ong vàng con đậu con bay nhiều vô kể;tiếng vù vù của ong cơ hồ át cả tiếng bão.
Trong khi cô gái và bõ già đang làm việc ở phía ngoài,Sĩ lại trở vào nhà,trong lòng vẫn chưa hết nghi hoặc.Trên án thư ở đầu ổ rơm,ngọn nến vẫn đang cháy dở.Thấy có một quyển sách,Sĩ vội giở ra xem.Hóa ra là quyển sách nói về đạo Phật.Anh cầm lấy đọc rất mê mải.
Cho đến gần sáng,bão đã bắt đầu tạnh,cô gái và bõ già bước vào nhà.Sĩ gập sách lại,lên tiếng hỏi:
-Tôi bị lạc đường,rất cảm ơn cô và bõ già cho ăn nghỉ.Nhưng có một điều tôi lấy làm khó hiểu là tại sao hai người lại sống trơ trọi trong khu rừng này?Sống như vậy lấy gì để nuôi thân? Tại sao cô lại biết tôi sắp đến đây và còn biết tôi đi thi,v.v…? tôi rất mong được giải tỏ những điều đó trước khi từ giã nơi này.
Cô gái đáp:
-Nhà này vốn là nhà của thầy mẹ thiếp.Thầy thiếp trước có làm quan,vì ghét bọn quan trên nên từ về,tìm đến khu rừng này sống bằng nghề nuôi ong.Cách đây ba năm,thầy mẹ thiếp lần lượt qua đời còn mình thiếp cùng với bõ già và đàn ong. Đàn ong cho mật và sáp,bõ già mang đi chợ đổi lấy gạo.Mắt thiếp tự dưng bị đau rồi hỏng.Tuy mù,linh tính của thiếp lại biết hết mọi chuyện.Tự nhiên thiếp cảm thấy đàn ong bị nạn thì quả nó bị nạn thật.Như hôm qua, thiếp cảm thấy có một chàng thư sinh đi thi lỡ độ đường và đang cần được giúp đỡ.Thiếp vừa thắp đèn lên thì nghe tiếng gõ cửa của thầy khóa.Quyển sách trên bàn đó là thầy thiếp để lại,thầy khóa cứ đọc đi.Nhưng thầy khóa đi làm gì vội,còn bảy ngày nữa mới bắt đầu thi kia.
Nghe nói,Sĩ lấy làm thương cô gái mù mà cảnh ngộ còn gian nan hơn cảnh ngộ của anh.Anh cầm sách đọc tiếp cho đến sáng.Nhớ tới ngày thi,anh từ giã cô gái và bõ già ra đi.Thấy mời mọc không đắc,cô gái đưa cho anh một nắm cơm và một quan tiền.Sĩ vội trả tiền,chỉ nhận nắm cơm và nói:
-Đa tạ cô và bõ già.Sau này nếu được vinh hiển,tôi sẽ không bao giờ quên tấm lòng vàng của cô và bõ.
Chiều hôm sau đến kinh đô,Sĩ giật mình khi được tin:vì Hoàng đế se mình,nên kỳ thi hoãn lại năm ngày nữa, đúng như lời cô gái.
Kỳ thi năm ấy,vua ra đầu đề bài văn có nhiều điển tích về đạo Phật.Các bạn của anh ở quê nhà cũng như các sĩ tử bốn phương vì không đọc qua sách Phật,nên bị loại quá nhiều.Có kẻ lọt vào trường ba rồi cũng hỏng.Chỉ có Sĩ nhờ cô tình đọc quyển sách giữa cái đêm gió bão ờ nhà cô gái mù nên trả lời trôi chảy.Anh đỗ Tiến sĩ, được vui ban cho tiền bạc, áo mão,cờ quạt và lính hầu về vinh quy.Trên đường về quê,anh dự định rẽ vào khu rừng có nhà cô gái mù nuôi ong để tạ ơn.
Nhưng khi đoàn vinh quy vừa bước lên đèo,Sĩ đã thoáng thấy một cô gái có cặp mắt đen láy đang đứng đợi ở đỉnh đèo.Hai tay cô mang một rổ hoa,trên áo cô,ong vàng bám lấy chi chít như thêu kim tuyết.Sĩ nhớ lại cái đêm gió bão đứng ở trong nhà nhìn ra,thấy cô gái mù cũng được ong bám vào như thế.Đúng là cô gái nuôi ong đây rồi.Nhưng tại sao hai mắt cô lại không mù? Sĩ vội bước xuống cáng,chạy lại đón cô gái.Anh nói ngay:
-Đây là cô gái nuôi ong phải không? Nhưng ai đã hóa phép cho mắt nàng sáng lại như cũ? Ôi! Nếu không có quyển sách của thầy nàng để lại thì tôi cũng hỏng như hầu hết các bạn của tôi.Không biết nói làm sao để cảm ơn nàng cho xiết được!
Cô gái đáp:
-Thiếp nhờ có ong chúa hút được nhị hoa thần và nhả nhị vào mắt làm cho mắt mờ lại tỏ.Sáng hôm nay thiếp cảm thấy quan tân khoa sắp về,nên vội vàng đi đón ở đây.
Cô gái nhìn Sĩ,má đỏ hồng hồng.Sau đó,Sĩ và đoàn tùy tùng kéo nhau đến ngôi nhà nhỏ của cô gái. Ở đây được mấy ngày,Sĩ đưa cô gái và bõ già về quê nhà.Chàng xin phép mẹ được kết duyên với cô gái nuôi ong. Đám rước dâu linh đình từ rừng xuất phát,có cờ quạt,chiêng trống quân gia rầm rộ. Đặc biệt là những con ong vàng ngậm mỗi con một bông hoa bay trên đầu bà chúa của chúng, đẹp như một đám mây ngũ sắc.

61.TRUYỆN VỀ BÀ LÃO CÚNG ĐÈN

Một ngày giỗ trong gia đình,con cháu về đông đủ,ai cũng có phần đóng góp,chú út nhà nghèo mang vài thẻ hương,gói chè đặt lên bàn thờ và nói với anh cả: “Em nghèo,của ít lòng nhiều đến lễ cha”. Ý chú út muốn nói:của lễ chẳng đáng là bao,song chú thành tâm đến lễ cha.Nhiều bà hoặc cô đi lễ chùa,thường nói khi dâng lễ vật lên nhà sư: “Chúng tôi của ít lòng nhiều,xin…” tức là lễ vật nhỏ mọn,nhưng lòng thành kính thì sâu nặng. “Của ít lòng nhiều”,chính là một lời nói trong nhà Phật,còn ghi trong Kinh Phật.
Ngày xưa, lâu lắm rồi,một ông vua ở Ấn Độ,nhân một ngày kễ,mời Phật vào Cung làm lễ.Hôm ấy,vua cho đốt biết bao nhiêu là đèn dầu trong Cung Phật ngự và suốt dọc hành lang dẫn từ Cung vua đến Cung Phật ở.Hôm ấy,một bà cụ nghèo khó cũng muốn dâng lên Phật ngọn đèn dầu,song bà chẳng còn đồng tiền nào,bà đi ăn xin một ngày ròng khắp Kinh đô,tối về, được hai đồng.Bà lấy cả hai đồng,tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên lễ Phật.Bà khấn: “Nếu đời sau con được thành đạo thì xin ngọn đèn này sáng suốt đêm không tắt”.Sáng hôm sau,khi một nhà sư lên Cung Phật tắt đèn,thì thấy mọi ngọn đèn của vua đếu đã tắt từ bao giờ riêng đĩa đèn của bà cụ ăn xin vẫn sáng ngời ngợi,không làm cách nào tắt được.Nhà sư thấy sự lạ,lên thưa với Đức Phật.Người bảo: “Bà cụ tâm thành tu nhân tích đức,kiếp sau sẽ thành Phật Như Lai”.Vua nghe chuyện, hỏi một quan trong triều tại sao vua cúng nhiều đèn như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão kia chỉ dâng có một dĩa đèn,quan đáp: “Bởi vì bà của ít lòng nhiều,bà dâng có một dĩa đèn,song tấm lòng bà thành kính bao la”.
( Mai Thục-Đỗ Đức Hiểu: Điển tích Văn học.NXB.GD,1966).

62.DUYÊN NỢ TÁI SINH

Ngày xưa,có một anh học trò trẻ tuổi nhà nghèo xơ nghèo xác.Vì có cha mẹ già,anh phải lang thang đây đó làm nghề gõ đầu trẻ để nuôi thân và nuôi cha mẹ.Mãi về sau,anh được một phú ông ở một làng nọ mời về “ngồi”tại nhà mình để dạy cho con học.Anh mừng thầm,từ nay có chỗ yên thân để ôn luyện văn bài.Phú ông có nhiều nhà,y cho thầy đồ ở riêng ngôi nhà ở góc vườn để được tĩnh mịch dạy học.Ngoài ba bữa cơm hàng ngày của phú ông,anh còn nhận được tiền gạo của những người khác có con đến học với anh,nên anh cảm thấy đầy đủ.
Phú ông có một cô con gái đã đến tuổi lấy chồng.Từ ngày có anh đồ tới,cô con gái cảm thấy lòng mình đỡ trống trải.Mặc dầu ở ăn cách biệt,cô gái và anh đồ vẫn nhiều phen gặp gỡ.Cô đâm ra yêu chàng ngày một tha thiết,và cô cũng được chàng yêu lại.Mối tình vụng trộm cứ thế mỗi ngày trở nên keo sơn,không thể gỡ ra được nữa.Vì thẹn thò và sợ hãi,cô gái cũng không dám nói thật cho cha mẹ biết.
Hai người yêu nhau như vậy đã được vài năm.Nhưng một ngày nọ,có một nhà phú hộ khác ở vùng miền,mang trầu cau đến dạm cô gái cho con.Cha mẹ cô gái thấy hiếm có đám nào môn đăng hộ đối hơn thế,nên hối hả nhận lời.Nhưng khi hỏi ý kiến con gái thì phú ông đâu có ngờ rằng con mình xưa nay ngoan ngoãn là thế,trước việc nhân duyên tốt đẹp của mình lại tỏ ra khó tính lạ lùng.Cả vợ lẫn chồng hết lời dỗ dành con,nhưng không kết quả.Mãi về sau,cô gái mới cho cha mẹ biết là mình đã chỉ non thề biển với anh đồ và quyết cùng chàng kết nghĩa trăm năm.Nghe nói thế,phú ông từ lòng thương con chuyển sang giận dữ. Đời nào ông lại chịu hạ mình gả con cho một con người kiệt xác như vậy. Ông nhất định không để cho con gái làm sai chuyện hứa hôn.Cô gái trước còn khăng khăng từ chối,nhưng sau bị gia đìnhhọ hàng ép buộc,nên tùy uất ức mà đành ngậm miệng.Còn về phía anh học trò biết phận mình không đất cắm dùi,nên cũng không dám tỏ bày nỗi lòng với vợ chồng phú ông.Vì vậy,sự định đoạt của phú ông coi như mười phần đã xong đến tám chín.
Thắm thoát mà một năm nữa trôi qua.Con trai nhà phú hộ sau mấy lần sêu tết đã chuẩn bị xong lễ cưới.Vì không có ai bênh vực,không một người đồng tình nên cô gái nhẫn nhục kia cảm thấy quẫn trí.Không còn biết cầu cứu với ai,cô quyết tự liều tấm thân còn hơn là phải lấy người mà mình không ưa.Một đêm nọ,trước ngày đón dâu,cô trốn lên nhà học tự tình với anh đồ.Hai bên chuyện trò than vãn với nhau đến gần sáng.Cuối cùng cô gái lấy gói thuốc độc mang sẵn trong mình ra uống lén,và chỉ một lát quằn quại chết ngay trong lòng anh học trò.
Thấy người yêu tự vẫn mà trước sau vẫn không một lời bộc bạch cho mình biết,anh học trò lòng đau như cắt.Nhưng dầu không ngăn được nước mắt giàn giụa,anh cũng cảm thấy hết sức bối rốisợ hãi,nghĩ đến cái chết bất ngờ của người yêu nhất định sẽ làm cho mình mang tai vạ vào thân.
-Nếu mình đeo gông ngồi tù cũng đành cam chịu,nhưng cha mẹ già rồi đây biết cậy nhờ vào ai?
Càng nghĩ,anh càng bủn rủn tay chân.Cho đến lúc gà gáy canh mà anh vẫn chưa biết xử trí như thế nào.
Cuối cùng,anh nghĩ ra một kế.Anh đứng dậy đi kiếm cuốc thuổng rồi đào dưới gậm giường mình nằm một cái huyệt. Đào xong,anh ôm lấy thi thể cô gái mà thề với vong linh nàng:
Kiếp này duyên đã lỡ duyên,
Quyết xin giữ trọn lời nguyền kiếp sau.
Sẵn có bút son trên bàn,anh viết vào bàn tay tái cô gái hai câu:
Thử sinh duyên vị liễu
Nguyện kết hậu sinh duyên.[14]
Viết đoạn,anh đặt xác cô xuống huyệt,lấp đất lại,lại sửa sang nền nhà cẩn thận,nhặt từng hòn đất, sắp từng viên gạch,rồi chùi rửa cuốc thuổng,không để một vết tích gì khả nghi.Xong đâu đó, anh lại lên giường nằm đợi sáng.
Lại nói chuyện nhà phú ông sáng hôm sau thấy mất hút con gái,bèn tung người đi khắp mọi ngã để tìm.Bên nhà trai nghe tin cũng cho người dò là khắp miền.Nhưng ngày một ngày hai vẫn không một mối manh, không một tin tức gì mới mẻ.Phú ông đoán con gái mình vì không chịu ép duyên nên đã liều thân hoại thể ở một chỗ nào xa xôi.Mặt khác sợ bọn quan nha lính tráng dựa dẫm vào việc này để đục khoét,nên ông cố ỉm đi không dám trình báo.Cuối cùng,sau những ngày hối tiếc thở than của bà con thân thích,sau những cuộc bàn tán xôn xao của xóm giềng,câu chuyện cô gái mất tích cùng với thời gian xoá mờ dần trongức mọi người.
Về phần người học trò,sau khi bí mật chôn xác người yêu,phần vì thương cảm quá độ,phần vì muốn tránh mặt vợ chồng phú ông,nên được ít lâu,anh xin thôi dạy.Phú ông cho là thầy đồ thất tình,cũng không nghi ngờ gì cả.Rời khỏi nhà phú ông,anh đi thật xa,kiếm được một chỗ ngồi dạy khác,rồi cố nén đau khổ,tự rèn luyện thành tái để đợi khoa thi,Sai mười lăm năm xôi kinh nấu sử sức học của anh uyên bác không ai bì kịp.Anh đi thi và đậu luôn Tiến sĩ.Những ngày vinh quy rộn ràng tấp nập đã qua,nhà vua bổ anh làm quan ở một trấn gần kinh kỳ,bố mẹ cũng như họ hàng làng xóm,mỗi lần gặp anh,ai cũng khuyên anh lấy vợ kẻo muộn người nối dõi.Nhưng anh một mực mỉm cười,không gật đầu cũng không từ chối.
Hồi bấy giờ, ở một làng nọ thuộc trấn do quan tân khoa trị nhậm,có một nhà phú hộ hiếm hoi sinh được một cô gái nhan sắc xinh đẹp nhưng lại có tật.Từ lúc sinh ra,mấy ngón tay của cô bị váng dính liền nhau,và vì thế bàn tay trái luôn luôn nắm lại không thể mở ra được.Thấy con tật nguyền,nhà phú hộ lấy làm buồn phiền.Họ bắn tin ra là hễ ai chữa khỏi cho con gái mình thì sẽ vui lòng hậu tạ tất cả gia sản.Bao nhiêu danh nội y khoa cũng như ngoại khoa tìm đến chữa chạy bằng đủ các môn thuốc,nhưng cô gái chứng nào vẫn giữ tật ấy.
Quan tân khoa lúc mới tới vùng đó đã loáng thoáng nghe được tin này.Mặc dầu đó là cái tin hơn lạ,quan vẫn không bận tâm.Mãi về sau,nhân một chuyến đi hành hạt,quan ghé vào nhà phú hộ định bụng xem thử cho biết.Thấy có quan đến,nhà phú hộ tiếp đón rất trọng thể.Nghe quan hỏi về chuyện bàn tay con gái,chủ nhân cho quan biết con gái mình đẻ vào ngày,tháng,năm nọ,nhưng vừa lọt lòng không may đã mang lấy tật nguyền.Nghe lời trình bày của phú hộ,quan đã lấy làm chột dạ,vì ngày tháng năm sinh,của cô gái này lại trùng khớp một cách lạ lùng với ngày tháng năm mất của người yêu mình trước đây.Quan liền nói:
-Chúng tôi cũng có biết một ít về nghề y.Cụ hãy cho cô em ra đây thử xem sao.
Nhà chủ họ vào buồng dắt cô gái ra,khi thấy mặt nàng,quan bỗng nhiên bồi hồi xúc động,vì giống hệt mặt người yêu xưa,hầu không sai một nét.Quan liền sai người hầu múc đến cho mình một thau nước lã. Đoạn quan cầm bàn tay.Tay quan vuốt đến đâu,váng bỗng trôi đi tới đó.Cuối cùng năm ngón búp măng của cô lại xòe ra được như thường.Khi mấy ngón tay vừa duỗi,một mối kinh ngạc đến với mọi người,vì họ thấy lộ ra những dòng chữ:
Thử sinh duyên vị liễu,
Nguyện kết hậu sinh duyên.
Mười chữ son vẫn còn đỏ thắm trong lòng bàn tay cô gái.Nhưng tất cả mọi người đều lấy làm ngạc nhiên hơn nữa khi nghe quan luôn tiện kể lại câu chuyện cũ của mình chôn kín trong lòng tự bao nhiêu năm nay:nào là hai người yêu nhau ra làm sao, cô gái nhà phú ông nọ bị ép uổng như thế nào,cuối cùng cô đã tự tử vào lúc nào và được mình chôn cất,thề bồi,v.v…Quan ứa nước mắt kể mãi,kể mãi;sau đó quan chỉ vào cô gái và nói:
-Thật là có trời! Đúng là một cuộc tái sinh không thể nào ngờ được!
Nhà phú hộ sau đó gả cô con gái cho quan và biếu chàng rể tất cả gia sản làm của hồi môn. Đám cưới tổ chức rất linh đình,có vị đại thần,người của nhà vua về dự.Rồi quan đưa vợ về quê chào cha mẹ họ hàng.Quan còn không quên đưa vợ tìm đến nhà phú ông cũ,người đã đón mình “ngồi’ dạy học tại nhà ngày trước.Thấy người đàn bà giống với con gái mình thuở xưa như đúc,phú ông rất đỗi kinh ngạc.Phú ông càng ngẩn người khi nghe quan kể lại câu chuyện về đứa con mất tích thuở nào.Mới đầu phú ông tỏ ý không tin.Nhưng khi quan chỉ chỗ chôn cô gái ở gậm giường và sai đào lên,quả đúng như vậy.
Từ đấy quan nhận cả hai người phú hộ làm ông nhạc và ăn ở với cô gái đến trọn đời.[15]

63. QUAN ÂM THỊ KÍNH

Ngày xửa ngày xưa,có một người trải đã nhiều kiếp,kiếp nào từ bé đến lớn cũng giữ mình đức hạnh và thành bậc chân tu.Cứ luân hồi chuyển kiếp như vậy liên tiếp đến chín lần,nhưng chưa kiếp nào được thành Phật.
Đến kiếp thứ mười,người này được thác sinh ở nước Cao Ly,làm con gái ở một nhà họ Măng,có tên là Thị Kính.Nàng có vẻ người đầy đặn,mặt mũi dễ coi,tính tình điềm đạm.Lớn lên,nàng thờ cha mẹ hết lòng,việc nhà việc cửa chăm lo khá đảm.Khi đến tuổi lấy chống,nàng được bố mẹ gả cho một anh chàng học trò họ Sùng tên là Thiện Sĩ.Cũng giống như nhà vợ,bên nhà chồng cũng chẳng khá giả gì.Thấy chồng chăm học,không chơi bời,Thị Kính không ao ước gì hơn,nàng càng ra công tần tảo cho chồng dốc lòng nấu sử xôi kinh.
Một đêm,bên cạnh án thư,Thiện Sĩ ngồi đọc sách,Thị Kính cũng ngồi may một bên,hai người chung nhau một ngọn đèn dầu.Chồng học mãi thấy mệt mỏi,bèn ngả lưng xuống giường,kề đầu lên đầu gối vợ chuyện trò một chốc rồi thiu thiu ngủ.Thị Kính cố giữ yên lặng cho chồng yên giấc.Nàng có thì giờ ngắm nghía kỹ khuôn mặt tuấn tú của chồng.Bỗng nàng nhận ra ở cằm chồng có một cây râu mọc ngược.
-Ồ,sao lại có râu xấu xí thế này? Người ta bảo râu mọc ngược là tướng bạc ác.Ta phải lén nhổ đi cho chàng mới được !
Nghĩ vậy,sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may,Thị Kính liền cầm lấy mở ra định nhổ sợi râu,không ngờ lưỡi dao sáng loáng vừa đưa đến gần thì Thiện Sĩ cũng vừa chợt tỉnh.Trông thấy vợ tay cầm con dao chĩa vào mặt trong lúc mình chợt ngủ quên,Thiện Sĩ nghĩ ngay đến chuyện đen tối,liền vùng dậy nắm lấy cổ tay và la lên:
-Chết thật!Nàng định cầm dao giết ta lúc đang ngủ ư?
Thị Kính đáp:
-Không phải đâu!Thấy chàng có sợi râu mọc ngược thiếp định tâm nhổ nó đi,kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt,chồng nhất định không chịu tin như vây.
-Thôi thôi! Đừng khéo chống chế.Làm sao lại có chuyện nhổ râu khi ta đang ngủ.Muốn nhổ thì đợi ta tỉnh dậy,hoặc ban ngày ban mặt có hơn không?
Giữa lúc ấy,người mẹ của Thiện Sĩ nằm ở buồng bên cạnh nghe tiếng cãi nhau cũng đẩy cửa bước vào.Vừa nghe con trai kể lại câu chuyện,bà mẹ đã mồm loa mép giải:
-Trời ôi! Con này to gan thực! Dám đang tay làm những việc tày trời.May mà con ta tỉnh dậy kịp,không thì còn gì là tính mạng.
Thị Kính nước mắt giàn giụa cố gắng phân trần:
-Mẹ nghĩ xem,con có thù với oán gì mà phải làm như vậy.Chẳng qua con muốn làm cho chồng đẹp mặt…
-Rõ ràng mày định tâm giết chồng,bị bắt hai năm rõ mười mà còn chối leo lẻo.
Người mẹ Thiện Sĩ vốn chẳng ưa gì nàng dâu nên một mực đổ riệt.Thị Kính thấy giải bày mãi không ăn thua,nên ngồi sụp xuống cúi đầu nức nở.Câu chuyện từ bé xé ra to.Cuối cùng gia đình họ Sùng không muốn con cháu có nòi ác nghiệt,nên Thị Kính bị đuổi về nhà bố mẹ đẻ.
Buồn chán cho số phận éo le, một hôm nàng cải trang thành một chàng trai,nhân đêm tối bỏ nhà khăn gói ra đi.Nàng đi mãi, đi mãi,cố tìm chỗ trú ngụ một nơi cho thật xa quê hương để xóa bỏ nhữngức đau xót.Sau cùng đến một tỉnh khác, ở đây có chùa Vân,nàng tìm đến xin gọt đầu quy y.Sư cụ không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt hiệu là Kính Tâm.Sự đời đã tắt lửa lòng,từ đấy nàng yên tâm bạn cùng kinh kệ.
Nhưng tu hành ở chùa Vân chưa được bao lâu thì một việc mới lại xảy đến với nàng.Tuy ăn mặc nâu sùng nhưng vẻ mặt của chú tiểu mới đã làm cho nhiều trái tim của các cô gái làng thổn thức.Trong làng có Thị Mầu,con gái của một phú ông,những ngày đi lễ chùa thấy tiểu Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm dấu thầm.Hai ba phen bị khước từ;Thị Mầu càng say mê,càng cố tìm cách quyến rũ.Sau đó, tuy cá chẳng cắn câu,nàng vẫn không sao quên được chú tiểu.Quen thói trăng hoa,Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trai trong nhà.Qua nhiều phen đi lại, không ngờ bụng ngày một lớn, bị làng phạt vạ,cô gái nghĩ rằng nếu thú thật thì chẳng hay ho gì,bèn đổ riệt cho tiểu Kính Tâm.Vì thế tiếu Kính Tâm cũng bị làng đòi đến khảo tra.Nhưng dù có bị đánh tơi tả,nàng vẫn không dám nhận liều,cũng như không để lộ ra mình là gái.Sư cụ chùa Vân thấy tiểu bị đòn đau thì thương tình,kêu xin với làng nộp vạ,bảo lãnh cho tiểu được tha về.Nhưng sợ miệng thế gian mai mỉa ô danh chốn thiền môn,nên sư cũng bắt tiểu phải chụm một cái lều cư ngụ ở phía ngoài cổng chùa.Nàng cam tâm nhận sự hành hạ,cắn rắng không hề một lời van xin hay than thở.
Thị Mầu sau đó sinh được một trai.Đã trót đổ vấy cho tiểu Kính Tâm,nên nàng lại đem đứa con bỏ liều ở cổng tam quan.Kính Tâm lại thêm một phen bối rối.Nhận lấy đứa bé thì không khác gì một hành động thú tội,mà không nhận thì làm ngơ sao đành trước một đứa bé vô tội thế kia.Nhưng những tràng khóc oa oa của đứa trẻ sơ sinh đã khiến nàng mất hết ngần ngại.Lập tức nàng bế đứa bé vào lều chăm sóc và từ đó ngày ngày một công việc mới choán hết thì giờtâm trí của nàng: nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm.Mặc cho dân làng kẻ cười người chê đến rát cả mặt,nàng vẫn âm thầm chịu đựng,tuyệt nhiên không có lấy một lời oán than.
Cứ như thế sau sáu năm,nàng trông nom con người như con đẻ.Trong khi đứa bé ngày một sởn sơ khôn lớn,thì sức của nàng trái lại ngày một mỏi mòn kiệt quệ.Một hôm,biết mình không thể sống được nữa,tiểu Kính Tâm bèn viết một phong thư để lại cho bố mẹ đẻ,trong đó nàng thuật lại đầu đuôi nỗi mình nhẫn nhục bấy chầy.Lại dặn dò đứa bé sau khi mình chết thì trao thư lại cho sư cụ trên chùa.
Khi khâm liệm,mọi người mới hay tiếu Kinh Tâm là đàn bà và ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Để tỏ lòng hối hận, sư cụ chùa Vân bèn cho lập một đàn chay,thì trên trời,giữa một đám mây năm sắc, đức Phật Thiên Tôn hiện ra phán truyền cho Kính Tâm thành Phật Quan Âm.
Ngày nay, để chỉ mối oan to lớn,người ta thường bảo “oan Thị Kính”, là từ truyện này mà ra.[16].
Khảo dị:
Trong truyện Quan Âm Thị Kính theo điệu kể hạnh của nhà chùa thì sau khi Thị Kính thành Phật, ông bà họ Măng và đứa bé cũng được lên tòa sen,còn Thiện Sĩ thì hóa thành chim vẹt hầu ở bên cạnh.
“Truyền cho nào tiểu Kính Tâm,
Phi thăng làm Phật Quan Âm tức thì.
Lại thương đến đứa tiểu nhi,
Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ.
Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ,
Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên.
Độ chi hai khóm thung huyên,
Ra tay cầm quyết bước lên trên tòa,
Siêu thăng thoát cả một nhà,
Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng”.
Khảo dị 2:
“Oan Thị Kính” được nhân dân nói đến như một nỗi oan khủng khiếp đè lê số phận người phụ nữa trong một xã hội không có tự do.
Chuyện kể bà Thị Kính,người nước Cao Ly (Triều Tiên) nguyên kiếp trước là đàn ông,tu hành sắp thành Phật, nhưng Thích Ca muốn thử lòng,bắt đầu thai xuống làm con gái trong một gia đình nghèo.Thị Kính sống trong cảnh lam lũ, lớn lên,nàng là một thiếu nữ xinh đẹp nết na; gia đình gả nàng cho chàng thư sinh Thiện Sĩ.Thị Kính rất yêu chồng,nàng chăm sóc chồng bữa ăn,giấc ngủ.Một đêm Thiện Sĩ mệt mỏi tựa bên tràng kỷ thiu thiu ngủ.Thị Kính nhìn chồng,nàng bỗng thấy ở cằm Thiện Sĩ có cái râu mọc ngược.Sẵn con dao Thị Kính giơ tay định cắt,Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy,tưởng vợ giết mình,kêu la ầm ĩ.Cha mẹ chồng Thị Kính thấy thế đổ riệt cho nàng tội định giết chống,rồi đuổi nàng về nhà mẹ đẻ.
Bị tiếng oan,Thị Kính buồn khổ,không giãi bày được cùng ai, đành cắt tóc đi tu ở chùa Văn Tự.Thị Kính cam chịu,trốn cõi bụi trần,giả trai nương nhờ cửa Phật với cái tên Kính Tâm,nhưng chướng nghiệp cứ bám theo nàng.Một nỗi oan khoác lại đến.Trong làng có Thị Mầu,cô gái quê xinh đẹp,khao khát tình yêu.Thị Mầu thường ngày rằm,mồng một mang hương hoa cúng Phật.Thấy Kính Tâm tuấn tú xinh đẹp,Thị Mầu yêu say đắm.Nàng tìm cách quyến rũ Kính Tâm về với cõi đời:
Thầy như táo rụng sân đình,
Em như gái rở đi rình của chua.
Tán tỉnh Thị Kính mãi không được,Thị Mầu dan díu với một anh lực điền.Làng bắt vạ.Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm.Thị Kính mắc oan lần thứ hai.
Thị Mầu sinh con trai,nàng đem con lên chùa trả Kính Tâm.Thương đứa bé vô tội,Kính tâm đàng nhận đứa bé về nuôi.Ba năm nhịn nhục ngày ngày đi xin sữa nuôi đứa bé.Một hôm Kính Tâm bỗng lâm bệnh nặng rồi chết.Nàng để lại bức thư tuyệt mệnh.
Bấy giờ sư sãi và dân làng mới biết Kính Tâm đã âm thầm nhẫn nhục chịu hai lần oan trái.Đức Phật xét Kính Tâm đã tu hành đắc đạo,siêu thăng Kính tâm làm PhậtQuan Âm ( Quan Âm Thị Kính).
Chuyền này Thị Kính mắc oan, một mặc oán trách người đời đã chà đạp lên sự thật,gây oan khổ cho con người, một mặt cũng chê trách sự nhẫn nhục chịu đựng của nàng.
(Điển tích Văn học-Mai Thục, Đỗ Đức Hiếu-NXB.GD,1996).

64. RÙA ĐỘI BIA

Xưa có bà Bụt nuôi được một con rùa khôn ngoan lấy làm quí lắm.Mỗi khi Bụt tụng kinh thì Rùa ra đội bàn kinh ở trước mặt rất là chắc chắncẩn thận.
Phải một lần,lúc đang đội bàn kinh,Rùa thấy có con chuột bò qua tay,khiến nó ngoái đầu nhìn lại nên để cho bàn kinh rơi đổ xuống đất,Bụt thấy vậy mắng rằng:
-Mày không muốn đội kinh nữa thì thôi.Từ giờ tao cho mày ra vườn đội bia vậy.
Thành thử từ đó, Rùa phải đội đá, đội đồng,khốn khổ cái thân và người ta mới có câu ca dao rằng:
Thương thay thân phận con rùa,
Lên đền đội hạc,xuống chùa đội bia.[17]

65. RÙA CHƠI VỚI HẠC

Xưa có một hôm,con rùa gặp ông Bụt, mới hỏi Bụt rằng:
-Tôi đứng một hàng tứ linh với con Long,con Lân,con Phượng.Tôi muốn làm bạn với chúng nó,nhưng mà con Rồng thì ở trên trời cao,không mấy khi xuống đây;con Lân thì ở trong rừng xanh,không mấy khi ra đây;con Phượng thì ở nơi đang huyệt, không mấy khi lại đây.Vậy ông bảo tôi biết làm bạn với con nào cho được?
Bụt đáp rằng:
-Mày là trời cho sống lâu,chẳng con nào bì kịp,nên chẳng con nào làm bạn với mày.Bây giờ mày muốn có bạn thì để tao cho làm bạn với con Hạc,vì Hạc cũng sống lâu lắm.Tục ngữ thường nói: Tóc hạc tuổi Rùa.Vậy mày kết bạn với Hạc là phải.
Bụt nói dứt lời,có một đàn Hạc vừa bay qua đó.Bụt giơ tay vẫy,một con Hạc sà xuống.Bụt bảo rằng:
-Mày phải làm bạn với con Rùa,kẻo để nó co ro một thân một mình tội nghiệp.
Hạc nói:
-Tôi thì bay cao,anh Rùa thi không biết bay, tôi làm bạn với anh ấy sao được?
Bụt bảo:
-Khi nào mày đi kiếm ăn thì thôi.Còn khi nào thư thả thì mày xuống làm bạn với nó cho nó đỡ buồn.
Hạc ép phải vâng lời,nhưng trong lòng vẫn không ưng làm bạn với Rùa.Cho nên bao giờ xuống chơi với Rùa,nó cũng leo lên lưng Rùa nó đứng.[18]
Vì truyện này và nhiều truyện khác mà người ta thường lầm tưởng con Hạc đứng trên con Rùa.[19]

66. TRUYỀN THUYẾT VỀ TỔ PHÁP LOA

Trước khi viên tịch ông còn gắng ngồi dậy viết kệ:
Vạn duyên tuyệt đoạn,nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên,mộng ảo gian
Trân trọng chủ nhân, hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt,cánh mai khoan.
Nghĩa là:
Muôn duyên cắt đứt,một thân nhàn
Hơn bốn chục năm,giấc mộng tràng
Nhắn nhủ mọi người, đừng viếng hỏi
Bên kia,trăng gió,cũng thênh thang.
Bài kệ cho thấy Pháp Loa vẫn tiếp dòng Thiền Trúc Lâm,coi việc sinh tử “sắc không” là việc bình thường của kiếp người…Ông cũng rất nhẹ nhàng,thanh thảnthế giới bên kia.
A.Huyền thoại:Sự tích sông Hương
Đồng Kiên Cương có chí hướng tu hành từ thời trẻ.Tương truyền: ông từ Đồng Hòa sang Tiền hải (thuộc xã Ái Quốc ngày nay),dựng một ngôi chùa nhỏ trên mảnh đất hoang,xa làng xóm,ven một con sông.Chùa dựng xong,tượng chưa khô thì tên trang chủ cùng bọn thuộc hạ phi ngựa tới hoạnh họa: “Ai cho phép nhà ngươi dựng chùa trên đất của ta?”.Nói rồi trang chủ cho tay chân phá chùa.Pháp Loa chắp tay niệm Phật,rồi đến xin hắn đừng phá chùa.Nếu chùa bị phá nhà sư xin được chết theo.Tên trang chủ bỗng nảy ra một độc kế,thách thức nhà sư,hắn nói: “Ta cho hai điều kiện,tùy nhà ngươi lựa chọn.Hoặc phá chùa trả đất cho ta,hoặc phải ăn thịt con chim kia.Bằng không chùa sẽ cháy ra tro,người sẽ là hòn than khô trong đó.”
Pháp Loa nén giận,nhận lời.Tên trang chủ giương cung bắn rơi một con chim nhỏ,rồi hắn cho bọn tay chân nhặt lên, bắt nhà sư phải ăn sống con chim đó.Nhà tu hành chỉ ăn chay niệm Phật, không sát sinh,sát sinhphạm giới Phật.Tên trang chủ làm như vậy tức là ô uế,sỉ nhục! Thế nhưng để giữ ngôi chùa,Pháp Loa đã nhận con chim còn chưa nguội máu, bỏ vào miệng nuốt chửng.
Tên trang chủ kinh sợ, lên ngựa ra về.Pháp Loa vào chùa đốt hương và nến, tụng kinh niệm Phật thâu đêm.Sáng hôm sau khi mặt trời vừa mọc,nhà sư bước ra cửa chùa vươn vai,há miệng,con chim đã nuốt trong bụng ông cựa mình bay ra,vừa vỗ cánh,vừa rối rít gọi đàn,hàng ngàn con chim đủ giống đủ loài từ khắp mọi miền bay về, đông rợp trời.Rồi nhà sư ra bến sông,hai tay thoăn thoắt rút ruột ra khỏi miệng. Ông lộn trái ruột ra,dùng chổi bằng rễ cây thanh hao kỳ cọ,rửa ruột cho hết đồ dơ…con sông nhỏ dâng nước,nổi sóng cuộn đi.Khi tan sạch mùi hôi, bỗng từ gan ruột nhà sư tỏa hương thơm nức.Mùi hương hòa vào nước sông làm cả dòng sông ngạt ngào hương thơm.
Từ đó, ngôi chùa có tên là Hương Hải (Biển Thơm).Con sông nhỏ cũng mang tên Sông Hương.Khi chải ruột xong,chỗ Pháp Loa ném cái chổi,cây thanh hoa mọc thành một bãi rộng.Bến sông nhà sư rửa ruột được gọi Bến Chải.Nơi chim tụ hội,gọi là Vườn Chim.Những dấu tích ấy vẫn còn lưu truyền đến ngày nay.
B.Truyền thuyết về Tổ Pháp Loa
Pháp Loa Tôn giả,sinh năm Giáp Thân (1284), ông tên là Đồng Kiên Cương,người thôn Cửu La, huyện Nam Sách,tỉnh Hải Dương.Con ông Đồng Thuần Mậu và bà Vũ Từ Cứu.
Truyền thuyết kể rằng:mẹ Pháp Loa đêm nằm chiêm bao, thấy một người quái dị,trao cho một thanh kiếm,bà vui vẻ nhận và ôm vào lòng.Từ đó bà có thai.Vì đã sinh nhiều con gái, nên khi có thai lần này, bà đã dùng thuốc phá thai,nhưng không được.Lúc Pháp Loa ra đời,hương thơm đầy nhà,hàng tháng vẫn còn ngan ngát mùi thơm.Bà vui mừng đặt tên con là Kiên Cương.
Lớn lên ông thông minh khác thường, không chịu ăn thịt và các thứ hôi tanh.
Năm Giáp Thìn (1304),nhân khi Điều Ngự Giác Hoàng,cùng các thị giả đi vân du tới vùng Nam Sách.Tình cờ gặp ông, Điều Ngự nói: “Người này có con mắt đạo,sau này tất thành pháp khí”.Pháp Loa bèn đến lạy tạ Vua,Vua mừng đặt tên là Thiện Lai.Nhân đó,ông theo Điều Ngự xuất gia và được Người cho pháp hiệuPháp Loa,năm Bính Ngọ (1306), được Được Điều Ngự truyền y bát (Loa có nghĩa là con ốc lớn,người ta dùng nó làm tù và để thổi.Nên Pháp Loa là cái Loa thổi ra chánh pháp-nên pháp hiệu đó rất hay).Từ đó, ông trở thành tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm.Năm Quý Sửu (1313), ông định chức cho Tăng Ni toàn quốc tại chùa Vĩnh Nghiêm (Lạng Giang) và lập sổ bộ.Năm Giáp Dần (1314) vua Anh Tông truyền ngôi cho con là Minh Tông,rồi cùng ông đúc tượng,in kinh,năm Tân Dậu (1321), ông Trụ trì tại chùa Quỳnh Lâm (huyện Đông Triều).Năm Canh Ngọ (1330),thời Trần Hiến Tông, ông trao y bát cho Huyền Quang rồi tạ thế.
Thái thượng Hoàng Trần Minh Tông,viết pháp hiệu cho ông là Tịnh Tri Tôn giả. Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục,Tham Thiền Chỉ Yếu,Kim Cương Đạo Trường,Tán Phát Hoa Kinh Khoa Số,Bát Nhã tâm Kinh, Phát Nguyện Văn, Đoạn Sách Lục và Thạch Thất Ngô Ngữ(những lời nói trong hang đá của Điều Ngự).
Trong mười chín năm tu hànhYên Tử,Pháp Loa đã cho dựng mới và tu bổ tám trăm ngôi chùa (trong đó có những chùa nổi tiếng như các chùa Quỳnh Lâm,Chân Lạc,Côn Sơn,Thanh Mai)và cho tạc một ngàn ba trăm pho tượng.
Ông đã để lại bài thơ hay về danh sơn Yên Tử:
Nhập tục Luyến Thanh Sơn
(Vào đời tục,nhớ non xanh)
Dòng thu in bóng núi.
Chót vót dưới chiều tà,
Đường vào chập chùng xa…
Đêm mồng ba tháng ba năm Canh Ngọ,ông viên tịch tại chùa Quỳnh lâm, thọ bốn mươi bảy tuổi.
Theo lời di chúc, thi hài ông được hỏa thiêu,xá lỵ của ông được đặt trong tháp sau chùa Thanh Mai.Vua Trần Hiến Tông cho xuất ngân khố,xây tháp đá, đặt tên là Viên Thông Bảo Tháp.Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đề một bài thi văn: (bản dịch)
Đã hết duyên trần,thông tay đi
Giác Hoàng kim tuyết được truyền y
Thanh Sơn cỏ mọc,che phần mộ
Cây biếc trong sương, để xác ve.
Đêm phủ giảng đường,trăng kim cổ
Ngày ngày trượng thất,khói mờ che.
Thân mến biết bao, ôi !Luyến tiếc
Nhớ côn giáo hóa,lệ đầy mi…

67. CON RẮN VÀ NGƯỜI NUÔI RẮN

Xưa có một người muôi một con rắn từ lúc nó còn nhỏ cho đến lúc lớn.
Ngày ngày, người ấy thường đi kiếm các giống như nhái,ngóe,gà con về cho rắn ăn.
Phải một hôm,người ấy không kiếm được cái gì,Rắn lấy làm giận,bảo rằng:
-Không có gì cho tôi ăn,thì tôi phải cắn chết.
Người kia tức bảo:
-Ừ muốn cắn chết thì cắn.Nhưng phải đi hỏi một vài nơi xem có nên cắn, thì tao cũng cho cắn không muộn.
Con rắn bằng lòng đi với người.
Trước tiên,hai bên đi đến hỏi con hạc thì hạc bảo rắn rằng:
-Nhờ ai nuôi cho mày lớn mà nay mày lại muốn cắn người ta?Còn đạo nghĩagì nữa không?
Sau hai bên đi đến hỏi rùa,thì con rùa bảo người kia rằng:
-Nuôi nó mà chẳng cho nó ăn thì nó cắn chết cũng không oan.
Sau cùng, đi hỏi con quạ thì con quạ tức giận con rắn,chẳng thèm nói gì,liền đến mổ luôn mấy cái, con rắn chết tươi.
Rắn chết, đem đầu đuôi câu chuyện mình lên kiện với Phật.
Phật xử rằng:
-Hạc nói có nghĩa,thì cho đứng trên cao,rùa nói vô lý thì cho bò dưới thấp.Còn con rắn đã nhờ người lại bội ơn người, thì cho quạ được phép tha xác nó lên đầu ngọn tre cao để nêu gương cho thiên hạ biết.
Bởi vậy bây giờ hạc được ngất ngưỡng đứng trên hương án cao,rùa phải ép mình chẹt dưới bia đá,còn quạ thì chót vót đậu trên cây phướn,dưới buông tấm vải trắng tượng trưng con rắn trước bị quạ nó tha.[20]

68. GÀ MÁI GÁY

Thuở xưa,trời giao cho loài gà phải theo giờ giấc cất tiếng gáy cho mặt trời mọc kẻo mặt trời ngủ say quên mất.Lúc bấy giờ,cả gà mái,gà trống cũng gáy đều như nhau.
Phải một hôm, ông Bụt đang nằm ngủ,giữa lúc nửa đêm,có con gà mái gáy thốc luôn ba hồi,làm cho ông Bụt phải bật dậy.
Bụt giận gà mái gáy xằng,gọi đến gõ mấy cái thật mạnh vào đầu.Thành từ đấy gà mái sợ không dám gáy nữa.[21]

69. MAN NƯƠNG

Thời Hiến Đế nhà Hán,quan Thái Thú tên là Sĩ Nhiếp, đắp thành ở phía Nam sông Bình Giang (này là thành phía Nam Sơn Thiên Đức). Ớ phía Nam có một ngôi chùa gọi là chùa Phúc Nham,có một nhà sư từ phương Tây đến,hiệu là Già La Đồ Lê,trụ trì ở chùa ấy,hay làm phép đứng một chân,trai gái,già trẻ tín mộ,kính phục,tôn hiệu làm Tôn sư,ai nấy đều cầu học đạo Phật.
Lúc bấy giờ có một người con gái,tên là Man Nương,cha mẹ đều mất,nhà nghèo khổ nhưng cũng dốc lòng học đạo,chỉ vì nói ngọng,khó tụng kinh chung với mọi người,nên thường ở sau bếp giã gạo,nhặt rau,lo việc nấu thổi để cung dưỡng các sư trong chùa và học giả bốn phương đến học đạo.
Khoảng trời tháng năm, đêm lại ngắn ngủi,Man Nương vội vàng lo nấu thổi cho mau.Nàng nấu đã xong xuôi,nhưng các sư còn tụng kinh chưa nghỉ để ăn cháo,Man Nương ngồi chờ, ngủ gật ở ngạch cửa,không ngờ quên lửng,nằm ngủ say, Đến khi Tăng đồ tụng niệm xong,ai về phòng nấy thì Man Nương còn nằm ở cửa.Nhà sư Đồ Lê bước ngang trên mình nàng,Man Nương bỗng nhiên tâm động,từ đó thụ thai,Trong khoảng được ba bốn tháng.Man Nương lấy làm xấu hổ bỏ đi,Nhà sư Đồ Lê cũng tránh đi, đến chùa ngã ba sông mà ở.
Mãn nguyệt,Man Nương sinh được một đứa con gái và tìm sư để giao lại. Đêm khuya, nhà sư Đồ Lê đến dưới cây đa ở ngã ba đầu sông mà đặt đứa con gái và nói:
-Ta gửi Phật tử này cho mày, mày giữ lấy ,sau được thành Phật đạo.
Sư Đồ Lê từ biệt nhau mà đi. Đồ Lê cho nàng một chiếc gậy bảo rằng:
-Ta cho em cái gậy này để đem về,hễ gặp năm nào trời đại hạn thì lấy cái gậy vẫy vẫy dưới đất,tự nhiên có nước ra để cứu người ta.
Man Nương cầm gậy trở về,lại ở chùa như trước,gặp năm trời hạn,nàng lấy gậy vẫy trên đất,tự nhiên có nước suối chảy ra ào ào,dân chúng được nhờ vả rất nhiều.
Khi Man Nương đã hơn 80 tuổi thì bật đổ cây,cây đa bị lật đổ,trôi đến trước chùa,quanh quẩn ở đó không trôi đi.Người ở khu đó đua nhau bửa củi thì búa rìu đều gãy mẻ hết.Làng xóm rủ nhau ba trăm người đến kéo cũng không chuyển động.Gặp khi Man Nương xuống bến rửa tay,nàng thử lấy tay kéo thử,cây lập tức chuyển động trôi vào.Ai nấy kinh dị,vội nhờ Man Nương kéo thẳng lên bờ khiến thợ mộc làm bốn pho tượng.Kịp lúc đến giữa cây,chỗ đầu người con gái thì chỗ ấy đã hóa thành một phiến đá rất cứng.Người thợ mộc đẽo đúng vào chỗ đó thì rìu búa mẻ hết,mới lấy phiến đá ném xuống giữa sông , phiến đá phóng xuất hào quang,giờ lâu mới chìm xuống nước,các người thợ đều chết hết.Mọi người đều xin nhờ Man Nương van vái,mướn kẻ chài xuống nước vớt lên,rước vào điện Phật lấy vàng tô lên mà phụng thờ.
Sư Đồ Lê mới đặt tên cho bốn pho tượng Phật là: Pháp Vân,Pháp Vũ,Pháp LôiPháp Điện,già trẻ,trai gái bốn phương thường nhóm họp ở chùa này chơi đàn ,ca múa,gọi là hội Tắm Phật, đến nay đang còn vậy.[22]

70. DƯƠNG KHÔNG LỘ,NGUYỄN GIÁC HẢI

Làng Hải Thanh,có chùa Nham Quang,Không Lộ Thiền sư họ Dương, là người làng Hải Thanh,nhà vốn sống bằng nghề câu cá, sau bỏ nghề câu đi tu, ở chùa thường niệm kinh da trì Đà la ni môn.Khoảng năm Chương thánh Gia khánh,Sư kết làm đạo hữu với Giác Hải,lần đến chùa Hà Trạch nương thân, ăn cỏ mặc cây như quên cả thân thể.Ngoài thì tuyên sự tha cầu, trong thì tu theo phép thiền định,tinh thần,tai mắt ngày càng sáng suốt,có thể bay lên không vào dưới nước, phục được hổ, đánh được rồng,muôn trạng nghìn kỳ không ai lượng trước được,sau thì tìm về làng cũ mà ở.Ngày kia có một nhà sư hỏi rằng:
-Từ khi ta đến đây,chưa nhờ chỉ dẫn tâm yếu cho,dám xin trình một bài kệ:
Rèn luyện tâm thân mới được thanh
Sum xuê nhánh thẳng đối hư linh
Có người đến hỏi không không pháp
Thân ở bên hình bóng lộn hình
Sư hiểu,bảo rằng:
-Người đem gốc tích đến,người đem kinh đến,ta vì ngươi tiếp nhận,ta vì người lo lắng, chỗ nào lại không hợp tam nguyện của ngươi.Rồi cười lên ha hả.
Sư thường thuyết kệ rằng:
Chọn đất long xà ở thảnh thơi
Trọn ngày tu luyện thú nào vui?
Có khi lên thẳng lên đầu núi
Ba tiếng kêu to lạnh cả trời.
Sư tịch vào năm Đại Trường,Hội Khánh thừ 10 (1119),niên hiệu vua Lý Nhân Tông,ngày mồng ba tháng sáu năm Kỷ Hợi.Môn nhân thu lượm hình hài chôn trước cửa chùa,có lời chiếu mở rộng thêm chùa và quyên thuế ba nghìn nóc nhà để phụng thờ hương hỏa.
Giác Hải Thiền sư cũng người Hải Thanh, ở chùa Diên Phúc bản quan,họ Nguyễn,xưa vốn thích nghề câu cá,thường lấy thuyền làm nhà,trôi nổi trên biển.Hai mươi lăm tuổi, ông bỏ nghề câu cá,cắt tóc đi tu.Ban đầu cùng với sư Không Lộ ở chùa Hà Trạch,sau tìm về làng Hải Thanh.Thời Kỳ Nhân Tông, ông cùng với Thông Huyền Chân Nhân được triệu vào cung Liên Hoa,chầu ngồi trên đá mát.Bỗng có hai con cáp giải kêu nhau,rộn tai đáng ghét,Vua bảo Sư Huyền dùng phép cho nó im đi.Sư Huyền mật niệm chú, đầu tiên chỉ có một con thôi không kêu nữa.Vua cười bảo Giác Hải rằng:
-Còn lưu lại một con cho Sa-môn sư đó.
Giác Hải lập tức niệm chú,con kia cũng thôi kêu ngay.Vua lấy làm lạ,bèn làm bài tán rằng:
Giác hải lòng như hải
Huyền Thông đạo cũng huyền
Thần thông hay biến hóa
Một Phật một thần tiên.
Nhà sư từ đó nổi tiếng,Tăng đồ trong thiên hạ theo học.Vua cũng lấy lễ mà đãi nhà sư.
Mỗi khi giá ngự đến hoàng cung làng Hải Thanh,Vua cũng ngự đến chùa trước.Một hôm Vua hỏi nhà sư rằng:
-Người có nghe nói đến phép ứng chân định thần chưa?
Sư bèn làm bài tụng bất biến,bay mình lên không,cách mặt đất vài trượng,chốc lát lại trở xuống.Vua cùng quan thần đều vỗ tay khen ngợi.Từ đấy,Vua ban cho cái xe Kiến Dư,ra vào các đình.
Đến đời Vua Thần Tông,Vua nhiều lần cho sứ mời Sư đến kinh.Nhưng Sư lấy cớ bị bệnh già mà không đến.
Có người hỏi sư:
-Phật với chúng sanh, ai khách ai chủ?
Sư cho nghe bài kệ này:
Biết đâu râu người bạc
Bảo người làm lão khách
Nếu rằng cảnh giới Phật
Cửa rộng gặp hiểm ngạch.
Cấp đến khi gần tịch có bài kệ rằng:
Xuân về hoa bướm khéo quen thì
Hoa bướm đua nhau vạn ứng kỳ
Hoa bướm xưa nay đều cảnh ảo
Chớ đem hoa bướm hỏi tam trì
Đêm ấy có sao hỏa tinh rơi vào góc Đông nam nhà Thái thất.Gần sáng Sư ngồi nghiêm chỉnh mà mất.Vua hạ chiếu quyên thuết ba nghìn nóc nhà làm của hương hỏa và cho hai người chức quan phụng tự để bảo dưỡng.[23]

71. TỤC TRUYỀN MỐI TÌNH NƠI CHỐN GIÀ LAM

Thiền sư Liễu Đạt (1823) là đệ tử của Hòa thượng Minh Vật Nhứt Tri,có lẽ Thiền sư Liễu Đạt quy y với Hòa thượng Nhứt Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai).Trong thời gian Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc (cũng thuộc phái thiền Lâm Tế, đời 35)hoằng hóa ở chùa Từ Ân (Gia Định),từ năm 1744 đến năm 1821,Thiền dư Liễu Đạt Thiệt Thành được cử là Thủ tọa, ở chùa này.
Năm Đinh Sửu,niên hiệu Gia Long thứ 16 (năm 1817) vua xuống sắc,triệu Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành ra kinh đô Huế,cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (1817-1823).Trong thời gian này,Tăng cang Liễu Đạt còn được cử làm Pháp sư để thuyết giảng Phật pháp trong nội cung 8 ngày cho hoàng gia.Sau đó,vua phong cho Tăng cang Liễu Đạt Thiệt Thành danh hiệu Hòa thượng Liên Hoa.
Hòa thượng Liên Hoatướng mạo oai nghiêm.Ông thông minh,có tài thuyết giảngbiện luận về Phật pháp nên được nhiều Phật tử trong cung và triều đình nhà Nguyễn kính phục và mến mộ tài đức.Khi ấy, có Hoàng cô (cô của vua Minh mạng)là đệ tử của Hòa thượng,thọ giới Bồ Tát, được ban pháp danh là Tế Minh Thiên Nhựt,có tình cảm luyến ái sâu đậm với Hòa thượng,muốn ràng buộc duyên tình với Hòa thượng, nên Hoà thượng phải tìm cách xin về Gia Định.
Ngày 20 tháng 11 năm Tân Tỵ.(1821), Đại lão Hòa thượng Phật Ý Nhạc viên tịch ở chùa Từ Ân,Thiền sư Liễu Đạt không hay biết việc này.Mãi đến đầu năm 1823 có các quan đại thần từ Gia định ra kinh đô Huế dự lễ,Hòa thượng Liên Hoa mới biết được tin và nhân đó mới có cớ để xin vua cho từ nhiệm ở chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế về Gia Định.Sau cả tháng,Thiền sư Liễu Đạt mới được vua cho phép về Trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định.
Nhưng vào một buổi sáng tháng 10 năm Quí Mùi (1825),Hòa thượng Liên Hoa đang uống trà, đàm đạo với đồ chúng ở chùa Sắc Tứ Từ Ân,bỗng có tin từ quan Trấn thủ Gia Định cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường.Hoàng cô đang dự tại dinh trong thành Gia Định,một vài hôm nữa sẽ đến lễ ở hai chùa này và sẽ tạm ngụ ở chùa Sắc Tứ Từ Ân cho đến ngày Hoàng cô trở về kinh.
Tin bất ngờ này làm cho Hoà thượng Liên Hoa phải lo âu,dù rằng Hòa thượng đã đạt được trình độ uyên thâm trong đạo pháp,song nợ trần lại hoài công đeo đuổi chưa thôi.Hòa thượng chưa biết phải làm thế nào để tránh sợi dây luyến ái mà Hoàng cô đang cố tình theo đuổi trói buộc.Không nghĩ được cách để đối phó,Hòa thượng phải vào chùa Giác LâmPhú Thọ để vấn lế của Thiền sư Tổ Tông Viên Quang,Hoà thượng Liên Hoa định bỏ chùa Sắc Tứ Từ Ân đến ẩn tránh ở chùa khác để lành mặt Hoàng cô,nhưng Thiền sư Viên Quang khuyên can,bảo rằng:Nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ sẽ mang tội với triều đình và làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao và không tránh khỏi việc Tăng chúng nghi ngờ thắc mắc,gây nhiều dư luận không tốt và rắc rối hơn.Thiền sư Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm,cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày,cầu nguyện chư Phật hộ trì,giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý.Hòa thượng Liên Hoa nghe theo,về chùa Từ Ân chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô đến lễ bái.
Hôm sau, Hoàng cô và phái đoàn của các quan thuộc Gia Định thành đến chùa Sắc Tứ Từ Ân dâng đại lễ.Sau khi buổi lễ hoàn tất,Hoàng cô cám ơn các quan đã tiếp đón và đưa rước,Hoàng cô bảo là trong thời gian bà ở chùa Từ Ân cho đến ngày hồi kinh, chỉ cần để lại chùa các người tùy tùng của bà và một vài binh lính theo túc trực mà thôi,các quan cứ về,khỏi phải hầu hạ.Trong thời gian ở lại chùa Hoàng cô đề nghị mỗi sáng Hòa thượng đều phải tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng cô.Không biết có sự việc khác thường gì không,mà đến sáng sớm ngày thứ ba kể từ khi Hoàng cô đến chùa,Hoà thượng Liên Hoa đi đâu mất, không có mặt ở chùa để tiếp kiến Hoàng cô như mọi hôm.Hoàng cô hỏi Tăng chúng họ cũng không biết Hoà thượng đi đâu.Hoàn cô hỏi thị giả của Hòa thượng là Sa-di Mật Dĩnh-vị này có quen biết với Hoàng cô vì đã theo hầu Hòa thượng trong thời gian Hòa thượng hoằng hóa ở kinh đô Huế-nhưng Sa-di Mật Dĩnh cũng bảo là không biết.Hoàng cô bắt Thị giả Mật Dĩnh phải đưa bà đi đến chùa Giác Lâm để tìm Hòa thượng,nhưng vẫn không biết tông tích Hòa thượng ở đâu.
Hoàng cô trở về chùa Từ Ân cứ nằm trầm ngâm buồn bã,không màng ăn uống.Ba ngày trôi qua,sức khỏe Hoàng cô sa sút trầm trọng,lại sợ Hoàng cô quá buồn thảm,có thể đi đến tuyệt vọngliều lĩnh gây chuyện nguy hiểm có hại cho chùa nên Thị giả đành phải cho Hoàng cô biết là Hòa thượng Liên Hoa đã lên chùa Đại GiácCù lao Phố,tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm.Sau khi biết tin đó,Hoàng cô báo cho quan Trấn Gia Định là Hoàng cô sẽ lên tỉnh Biên Hòa để cùng dường cho chùa Đại Giác.Hôm sau quan Trấn cử phái đoàn hộ tống, đưa Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Đến chùa Đại Giác,sau khi được Hòa thượng trụ trì tiếp đón và dâng lễ cúng dường mấy trăm quan,Hoàng cô nhờ Thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của Hòa thượng Liên Hoa.Cửa thất đóng kín,Hoàng cô quỳ trước cửa,lễ ba lễ và thưa rằng: “Đệ tử sắp hồi kinh nên đến đây xin Hòa thượng cho diện kiến lần chót trước khi lên đường”.Hòa thượng vẫn không trả lời.Hoàng cô đi vòng quanh chùa và sau đó lại trước cửa thất quì xuống thưa rằng: “Bạch Hòa thượng,nếu Hòa thượng không tiện ra tiếp,xin Hòa thượng cho con nhìn thấy bàn tay Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan ra về”.
Im lặng trong vài phút…Hòa thượng trong thất đưa bàn tay ra cửa nhỏ,nơi dùng để đưa thức ăn vào thất.Hoàng cô vội ôm lấy bàn tay hôn một cách trìu mến,rồi sụp lạy ba lạy và khóc sướt mướt.Nhưng sau đó Hoàng cô cho biết là bà sẽ ở lại chùa Đại Giác nghỉ vài ngày.
Đến giữa đêm đó,vào khoảng canh ba,trong khi mọi người đang an giấc,bỗng thấy lửa cháy rực ở tịnh thất của Hòa thượng Liên Hoa.Mọi người trong chùa hoảng hốt,cùng nhau chạy đến dập tắt ngọn lửa,nhưng tịnh thất cháy rụi,xác thân Hòa thượng Liên Hoa cũng cháy thiêu.Mọi người đang bàn tán xôn xao,có người phát hiện được bài kệ Niết bàn do Hoà thượng Liên Hoa viết bằng mực đen trên vách chánh điện:
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần,
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần,
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn,
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.
Phía dưới có đề:Sa môn Thiệt Thành hiệu Liễu Đạt.
Hay tin Hòa thượng Liên Hoa-Hòa thượng của hoàng gia,Bổn sư của Hoàng cô và một số người trong cung nhà Nguyễn đã viên tịch,các quan tỉnh Biên Hòa và các quan thuộc dinh Tổng Trấn ở Gia Định phái báo tin về triều và họp nhau tổ chức lễ tang.Sau khi làm lễ nhập tháp Hòa thượng Liên Hoa xong,Hoàng cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại Giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh.Nhưng ngay ngày hôm sau Hoàng cô uống độc dược tự tử tại hậu tiêu chùa Đại Giác nhằm ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823),thọ 65 tuổi.
Hòa thượng Viên Quang trụ trì Giác Lâm họp cùng Thiền sư Tế Tánh Chánh Trực,Trụ trì chùa Từ ÂnChư Tăng ở các chùa trong môn pháo lo lễ nhâp tháp Hòa thượng Liên Hoa và lo lễ an táng Hoàng cô,rồi thỉnh long vị Hòa thượng Liên Hoa và linh vị của Hoàng cô về thờ ở chùa Sắc Tứ Từ Ân.Long vị của Hòa thượng thờ ở bàn thờ tổ,linh vị của Hoàng cô thờ ở bàn thờ bá tánh.Nhưng sau đó,chùa Từ Ân bỗng nhiên xảt ra nhiều sự việc cãi vã,xào xáo trong chùa.Chùa Từ Ân là chùa quan,tức chùa do vua sắc tứhộ trì.Mọi việc trong chùa vốn có nghi lễ nghiêm minh,Chư Tăng đều giữ đạo hạnh,cư xử lễ độ,hòa thuận.Nay có chuyện như vậy là điều bất thường.
Thiền sư Trụ trì lại là Sư Tế Tánh Chánh Trực, đệ tử của Hòa thượng Liên Hoa,dàn xếp mãi vẫn không yên.Thiền sư Tế Tánh phải tham khảo ý kiến Hòa thượng Viên Quang.Sau một thời gian thiền quán để tìm nguyên nhântìm cách giải quyết những bất ổn ở chùa Từ Ân,Hòa thượng Viên Quang mới nghiệm được là:Có thể Hoàng cô có thần thức luyến ái quá mạnh và muốn được gần Hòa thượng Viên Quang,nên gây ra xáo trộn để yêu sách.Vì vậy Hòa thượng Viên Quang đề nghị với Thiền sư Bổn Giác cho đưa linh vị của Hoàng cô thờ chung với long vị của Hòa thượngbàn thờ Tổ.Quả nhiên,sau khi làm như thế,trong chùa Từ Ân trở lại bình thường,không còn xáo trộn như trước.Vì vậy cho đến ngày nay, ở chùa Từ Ân,trên bàn thờ tổ,bên cạnh long vị của Hòa thượng Liên Hoa có linh vị của Hoàng cô: “Pháp danh Thích môn hộ giáo.Từ Ân tự Lâm tế chánh tông Hoàng cô sùng tu Bồ-tát giới, đệ tử pháp danh Tế Minh,tự Thiên Nhựt giác linh chi vị”.
Tục truyền đến cuối tháng chạp hàng năm,chùa có lệ làm lễ tắm Phật,quét dọn lau chùi các bài vị để sửa sọan đón Tết,rủi có vị tiểu tăng nào vô ý để sai chỗ bài vị Hòa thượng Liên Hoa và Hoàng cô lệch qua một bên thì y rằng trong chùa sẽ có chuyện bất hòa.Do vậy mà từ ấy cho đến nay hai bài vị ấy hầu như luôn luôn để cạnh nhau.
(Theo Gia Định xưa và nay của Huỳnh Minh và Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ)
(Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường,NXB.TPHCM,1993).

72. XUNG THIÊN CHIÊU ỨNG THẦN VƯƠNG

Xét Cổ Phápvà Bia Kỷ Đức thì Vương là vị Thổ thần,chùa Kiến sơ.Ngày xưa làng Phù Đổng lập đền Thổ Địa thần ở bên hữu chùa để làm nơi tụng niệm. Đến sau,Tăng đồ vắng vẻ,năm tháng chay lau,người làng lấy chỗ thần từ theo tập tục mà cầu đảo.Kịp đến khi Đa Bảo Thiền sư trùng tu chùa quán,thấy trụ trì truyền đăng cho là dâm từ ý muốn dời đi.
Một hôm Thần để lại bài thơ ở một gốc cây trong đền rằng:
Phật pháp hay gìn giữ
Là nhờ trú kỳ viên
Nếu không bọn ta đó
Đã dời chỗ khác liền
Chẳng chép Kim Cương bộ
Dấu kín Ná La diên.
Và vài sau lại thấy tám câu kệ rằng:
Phép Phật từ bi lớn
Sáng trùm cõi tam thiên
Vạn thần đều biến hóa
Tâm giới thảy quanh bênh
Thầy ta làm chính lệnh
Tà quỷ dám tranh tiên
Nghe theo lời thầy dạy
Lớn nhỏ học kỳ viên.
Pháp sư hiểu biết mới thiết đàn cho Thần thụ giới cúng đền đồ chay cả.
Xưa kia vị Vua Lý Thái Tổ, đang buổi tiềm long,biết nhà sư Đa Bảo là người cao hạnh,thường cùng theo ông đi chơi.Sau khi ông thụ thiền thì Vua thân hành đến chùa.Khi ấy nhà Vua rước ngự giá đi ngang bên đền,có tiếng hỏi Thần rằng:
-Phật tử đã có thể bỏ trần tục lại có thể khánh hạ tân thiên tử không?
Thần lập tức tự đề bốn câu thơ:
Đế đức càng khôn lớn
Uy linh động tám miền
Uy minh nhờ ân trạch
Nhuần thắm khắp Xung thiên.
Vua nghe đọc bài thơ,biết tình ý của Thần mới cho hiệu là Xung Thiên Thần Vương,hốt nhiên bài thơ biến mất.
Vua lấy làm lạ,sai thợ chạm trổ Thần,dung mạo trác vàng và các thị tùng làm lễ khai quang khánh tán xong,hốt nhiên Thần lại hiện ở cột chùa bốn câu kệ rằng:
Một bát nước công đức
Theo duyên hóa thế gian
Quang minh lại soi sáng
Bóng lặng nhạt lên non.
Sư đem bài lệ trình Lý Thái Tổ không hiểu ý làm sao,sau đến đời Lý Huệ Tông mất ngôi,là đời thứ tám,tức là bát công đức,húy chữ Sản (trên chữ Nhất,dưới chữ Sơn),tức là bóng mặt trời lên núi mất nước.Kệ của thần cũng đáng tin thay.
Trải mấy đời gia phong Mỹ Tự,phụng sự hương hỏa để biểu dương sự phù hựu của Thần.[24]

73.THẦN ỨNG THIÊN HÓA DỤC HẬU THỔ

Xét chuyện Báo Cực thấy chép rằng Thần là Tinh đại Địa chủ nước Nam.Xưa Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành, đi đến cửa biển,bỗng thấy gió to mưa lớn,sóng cuốn ầm ầm.Trông xa thấy núi đá,ngự thuyền cùng các thuyền tùy tùng đều không qua được,phải đậu một bến bờ. Đêm ấy Vua mộng thấy một người con gái á tráng quan hồng, đạm tang dịu dàng,bước lên ngự thuyền mà thưa rằng:
-Ta là Thần Đại địa nước Nam,nương thân ở trên cây lâu lắm,nay gặp minh quân xuất chinh,nguyện theo Vương để lập vũ cọng.
Nói đoạn,hốt nhiên đi mất,Vua kinh hoàng thức dậy,mới hay là chiêm bao,cho triệu bá quan và các vị kỳ cựu đến nói chuyện.Nhà sư Tống Huệ Sinh thưa rằng:
-Nếu như Vua đã mộng thấy thần nhân báo nương thì thử đến đây xem sao.
Vua sai cận thần tìm khắp các núi trên bờ,thấy một khúc gỗ hình tượng giống như người,hệt như đã thấy trong mộng.Vua khiến đặt khúc gỗ lên trên ngự thuyền, đốt hương cầu đảo,gọi là Hạn Thổ Thị Phu nhân.Trong khoảng chốc lát thì gió êm sóng lặng,thuyền đi êm ái không có một tiếng động. Đến khi phá được giặc Chiêm ban sư khải hoàn,kinh qua chỗ cũ,Vua sắc lập đền thờ thì lại thấy phong ba nổi dậy như trước.
Huệ Sinh tâu rằng:
-Ý thần không muốn ở xa bờ biển,xin rước về kinh.
Khi ấy sóng gió lại êm,về đến kinh thành,Vua bèn lập từ miếu ở làng An Lãng,uy chương linh ứng,hoặc có người nào khi mạn thì bị hung bạo.
Kịp khi đến Vua Trần Anh Tông gặp năm trời đại hạn,Vua sai đắp đàn cầu đảo.Thần cho Vua mộng thấy rằng:
-Duy có Thần câu mang gở bản từ là có thể làm mưa gió.
Vua tỉnh dậy,sai quan Hữu ty đến tế,quả được mưa lớn dồi dào.Bà được phong làm Hậu Thổ phu nhân,trải qua các đời đều có gia phong vì là có công với dân.[25]

74. SÓC THIÊN VƯƠNG

Xét sách Thiền Uyển Tập Anh thì thấy chép rằng:
Xưa ở triều vua Lê Đại Hành,có Khuông Việt Đại sư,người họ Ngô,thường đến chơi làng Bình Lộ,núi Vệ Long, ưa cái cảnh trí u thắng ở đó,mới lập am mà thờ.Một đêm về canh ba,Sư mộng thấy một vị thần,Mình mặc áo giáp vàng,tay bên hữu mang bảo tháp,theo sau có hơn mười người,dáng mặt dễ sợ, đến bảo Khuông Việt rằng:
-Ta là Tỳ Sa môn Đại vương,Thượng đế sắc sai qua nước Nam Đế phù hộ hạ dân,có nhân duyên với người nên ta đến đây khắp báo.
Sư kinh khiếp tỉnh dậy,bỗng nghe trong núi có tiếng hát,lòng rất sợ hãi.Sáng ngày trong núi thấy có một cây đại thụ,cành đã rậm rạp xanh tốt,có thụy khí bao trùm lên trên.Sư bảo thợ đốn xuống,khắc gỗ làm tượng thần đúng như đã thấy trong mộng rồi lập đền miếu mà phụng thờ.
Năm Thiên phúc Nguyên niên,binh Tống vào cướp phá,Vua đã có nghe việc như thế mới sai quan đến thờ khấn đảo.Lúc bấy giờ binh Tống đóng lại làng Tây.
Quan đôi hai bên chưa đánh nhau, quân Tống bỗng thấy một người trỗi dậy giữa sóng nước,cao hơn mười trượng,tóc râu như đứng,trừng mắt mà nhìn,thần quang rực rỡ.Binh Tống thấy vậy cả kinh,lùi giữ ngã ba sông lại gặp phải sóng gầm sét đổ,giao xà long miết nổi lên làm dữ.Binh Tống thấy như thế lại càng kinh khủng,nổi chạy tán loạn.Tướng nhà Tống là Quách Tiến đem bình trở về Tống.Vua khen là anh linh,lập thêm đền thờ để sùng phụng.Có kẻ cho là Thiên Vương,sau khi dẹp xong giặc Ân rồi cỡi ngựa đến cây dung núi Vệ Linh,cởi áo mũ bay lên trời, đến nay đời còn bảo là dị phục xuân thu,hễ có cầu cúng thì dùng trà bánh, đồ chay mà thôi.
Triều nhà Lý sai sứ đến đền cầu đảo,lập miếu ở làng phía Đông Hồ Tây,tôn làm Phúc Thần Đại Vương có chép lại kỷ tịch.[26]

75. MINH KHÔNG THIỀN SƯ

Xưa kia ở làng Tràng An có người làng Đại Hoàng Đàm Xá tên là Nguyễn Chí Thánh ở chùa Quốc Tự, hiệu là Minh Không.Thiền sư lúc trẻ đi tu học đạo gặp Đạo Hạnh,theo học Đạo giáo trải 40 thu. Đạo Hạnh khen là người có chí nên truyền tâm ấn cho,lại đặt tên cho nữa,kịp đến lúc Đạo Hạnh tạ thế,bảo Minh Không rằng:
-Ngày xưa, đức thế Tôn ta đạo quả viên thành còn có báo ân cho Kim sáng,huống chi pháp thuật của ta chưa tinh,khởi đầu ta hẳn tự bảo vệ.Nay ta thác sinh nhân thế, địa vị nhân chủ,bệnh trái ở lai sinh đã định,nên khó tránh,có dịp con nên cứu giúp ta.
Khi Đạo Hạnh thác hóa rồi,Minh Không trở về chùa cũ,10 năm không cần có tiếng tăm gì.Lúc bấy giờ, Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ,tiếng rên la như cọp rống rất sợ.Lương y trong thiên hạ ứng chiếu mà đến kể có hàng nghìn người đều chịu bó tay không làm gì được.
Hồi ấy có bọn tiểu đồng hát rằng:
Muốn lành bệnh thiên tử:
Phải được Nguyễn Minh Không.
Triều đình sai sứ đi tìm,quả tìm được Minh Không,Minh Không đã đến ,các thầy thuốc danh tiếng đều ở trên điện làm phép,thấy Minh Không phát ngu,miệt thị không gia lẽ.Minh Không thân cầm một chiếc đinh lớn dài năm tấc đóng vào cột điện,nói lớn lên rằng:
-Ai nhổ được chiếc đinh này ra mới chữa được bệnh.
Nói thế ba lần không một ai trả lời,Minh Không lấy hai ngón tay trái mà nhổ đinh theo ngón tay ra ngay,mọi người đều kính phục.
Đến lúc Minh Không vào thăm bệnh cho Vua,thấy Vua,lập tức la lên một tiếng dữ tợn.Vua sợ quá run lên.
Minh Không nói:
-Đại trượng phu quí làm thiên tử,giàu có bốn phương mà lại sinh ra lồng lộn như thế?
Minh Không bảo lấy một cái chảo lớn, đổ nước đun sôi lên.Nước đã sôi một trăm lần,Minh Không lấy tay khuấy nước vài cái rồi rảy vào mình Vua.Lập tức bệnh vua khỏi ngay.Vua phong cho Minh Không làm chức Quốc sư,cho ăn lộc Vua trăm nóc nhà để thưởng công cho ông.
Niên hiệu Đại định năm thứ hai là năm Tân Sửu,Minh Không tạ thế,thọ bảy mươi sáu tuổi.
Khảo dị;
Sau đây là một truyện khác về Minh Không:
Làng Giao Thủy,có chùa Không Lộ,xưa có một nhà sư tên là Trị Bình Gian xuất gia trụ trì ở chùa ấy, được khen là người có đức hạnh.Một hôm Minh Không từ ngoài đi vào,có một nhà sư cùng phòng (tức Từ Đạo Hạnh) ẩn ở trong cửa,nhảy ra làm như tiếng hổ để dọa Minh Không.Minh Không cười bảo:
-Người đã tu hành còn muốn làm hổ à?Ta sẽ cứu người.
Sau vài năm nhà sư mất,hóa làm Quốc Vương,chưa bao lâu bỗng hóa ra có lông rồi nhảy nhót,gầm hét,mặt như hình mặt hổ.Triều đình đi tìm khắp các y vu tăng đạo,chẳng một ai chữa được.Nghe Minh Khôngpháp thuật mới sai người đem thuyền đến rước Minh Không.Minh Không lấy một chiếc nồi nhỏ nấu cơm cho bọn thủy thủ ăn.Sứ giả cười rằng:
-Thủy thủ đông như thế e không đủ.
Minh Không nói:
-Không, để họ ăn mỗi người một ít,xem chút hậu tình của ta.
Tất cả thủy thủ,bốn năm mươi người ăn không hết,mọi người đều lấy làm lạ. Đến lúc trời chiều xuống thuyền,Minh Không lại bảo thủy thủ cùng Sứ giả rằng:
-Các người hãy ngủ đi.Sáng ngày mặt trời mọc,Bần Tăng thức dậy hãy chèo thuyền,nếu không thế thì không đi đâu.
Sứ giả khẩn cầu không được,phải nằm xuống giả đò ngủ,thì nghe dưới thuyền có tiếng gió thổi vèo vèo.Qua một thời gian thì mặt trời mọc.Minh Không kêu dậy thì thấy thuyền đã đậu ở bến kinh đô rồi.Minh Không bay lên trời vào cung,nấu nước sôi tắm cho Vua,tắm vào mình thì lông rụng hết,thân thể bình phục như xưa.Vương hỏi cớ làm sao,Minh Không thưa:
-Người tu hành nếu có niệm mê thì chỉ sám hối mà thôi không khó gì cả.
Vương lại hỏi:
-Làm sao mà Sư lại được thần thông như thế?
Minh Không thưa:
-Đó không phải là thuật,thần sẵn có phong tật,phát ra không thấy, quả tượng không hay,cái gì là không thấy thì cứ để mặc mà đi chứ không phải thần thông vậy.
Minh Không lại trở về tay không,Vua ban thưởng gì cũng không lấy.Vua mới ban cho danh hiệu Thần Tăng để thưởng công.[27]


------------------

CHÚ THÍCH

[1] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.692,NXBGD,2000. Đoạn này theo lời kể của người Nam Định.
[2] Theo Phan Kế Bính, Nam hải dị nhân liệt truyện và Thực nghiệp dân báo (1924),tạp chí Nam Phong (1919).
[3] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.876,NXBGD,2000.Theo lời kể của người miền Bắc.
[4] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1147,NXBGD,2000.Theo Đuốc Tuệ (1936).
[5] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1152,phần khảo dị,NXB.GD,2000.Dẫn trong BEFEC (1904).
[6] Câu này theo Bản khai của xã Điền Lễ.
[7] Dựa theo Đỗ Thận,một truyện kể An nam về cổ tích Tro bếp,BEFFEO,TẬP VII,q.1-2 91907) và lời kể của người miền Bắc.
[8] Theo bản khai của xã Hoàng Tràng.
[9] Theo loại cổ tích hay, đã dẫn.
[10] Theo Phong Châu,Tấm,Cám có thật ở Việt Nam không?-Tập san Nghiên cứu Văn sử địa,số 39 (1958).
[11] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1167,NXB.GD,2000.
[12] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1028,NXB.GD,2000.
[13] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1167,NXB.GD,2000.Theo lời kể của người Cao Bằng.
[14] Hai câu này cũng đồng
[15] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1167,NXBGD,2000.Theo lời kể của người Hà Tĩnh.
[16] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1377,NXBGD,2000.Theo Quan Âm Thị Kính,nhà in Mai Du Lân,Hà NỘi,1933;và Quan Âm chính văn tân truyện (nôm) bản in Phúc An (1919).
[17] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.116 tập 1,do Thăng Long xuất bản,in lần thứ 4 tại Sàigòn năm 1958.
[18] Được có vật khác cỡi lên lưng,mới được bò lên hương án bàn đọc.Rùa nghĩ chắc thỏa lắm.Nhưng cái liếp đội chạn cả đời,phỏng có gì là quí hóa.
[19] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như NGuyễn Văn Ngọc,tr.76,tập 2,do Thăng Long xuất bản tại Sài gòn năm 1958.
[20] Truyện Cổ Tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.117,tập 2,do Thăng Long xuất bản tại Sàigon năm 1958.
[21] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.200,tập 2,do Thăng Long xuất bản tại Sàigòn năm 1958.
[22] Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 2,tr.75 do Khai Trí xb tại Sài Gòn năm 1961.Bản dịch của Lê Hữu Mục.
[23] Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 2,tr.90 do Khai Trí xb tại Sàigòn năm 1961.Bản dịch của Lê Hữu Mục.
[24] Lình Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 3,tr.122 do Khai Trí xb tại Sài Gòn năm 1961.Bản dọch của Lê Hữu Mục.
[25] Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 2,tr.109 do Khai trí xb tại Sài gòn năm 1961.Bản dịch của Lê Hữu Mục.
[26] Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 3,tr.103 do Khai trí xb tại Sàigòn năm 1961.Bản dịch của Lê Hữu Mục.
[27] Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp,quyển 2,tr.86 do Khai Trí xb tại Sài gòn năm 1961.Bản dịch của Lê Hữu Mục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19756)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20845)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19152)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40355)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21164)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40949)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24012)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22969)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17754)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26790)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20629)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33496)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28715)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12628)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19058)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17408)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28875)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33170)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31098)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24391)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19386)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17817)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22868)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17955)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31985)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17299)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17328)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16007)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18511)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20695)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17939)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20021)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14771)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15015)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29241)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12691)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14434)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant