Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Người Xin Lửa

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6449)
02. Người Xin Lửa
HÀNH HƯƠNG TÂM LINH
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


NGƯỜI XIN LỬA

Sau lần đụng chạm với cha, Hựu chớm có ý định thoát ly gia đình, chạy trốn gia đình càng xa càng hay. Tình cảm đeo níu yếu ớt của người mẹ không thể cưỡng lại, làm dịu lại nỗi thúc hối thâm sâu đã trở nên dai dẳng và cường liệt.

Trình bày ý ấy với Vọng Việt, chàng chỉ nhận được một lối lý luận của đầu óc, sách vở và từ chương:

- Đào tẩu định mệnh cũng là vong ngã ở hình thức khác. Nó cũng là mâyâ đấy, thiện hữu!

Đây có lẽ là lần thứ nhất Triết Hựu thấy mình ghét bạn thậm tệ. Hình ảnh thiếu cân đối của một người què quặt chợt hiện ra trong trí chàng. Hắn là một thanh niên bà-la-môn tinh thông phạm điển. Là một học giả uyên bác, được trưởng thành trong khí hậu tiện nghidễ dãi, có biết gì về đời sống? Hắn là một động vật chỉ có đầu óc mà không có tứ chi, thân thể. Hắn đi một đầu xuống đất mà vào cuộc đời. Hắn chỉ biết suy tưởng chứ biết gì về hành động?

Hựu không muốn hỏi han gì nơi Vọng Việt nữa.

Chàng biết rằng đây là định mệnh của mình, sự bế tắc này phải tự chàng giải quyết lấy, không bởi từ đâu và do ai. Hạnh phúc hay đau khổ cũng do ta, có phải? Nhưng khi mà đặt niềm tin tuyệt đối vào nơi ta, thì chính ta đã là Thượng đế. Sự tôn sùng cái-ta-cực-đoan, có phải là thẩm quyền tuyệt đối của trí năng, lại là một hình thức đại ngã khác?

Triết Hựu bất lực và bối rối ở điểm này, và chàng lại đi thơ thẩn đến các đại tự, thánh đường, bờ sông, công viên… Ở thánh miếu, thánh đường, chàng chiêm ngưỡng những hình tượng, những ngẫu tượng cùng những tư thế kỳ bí của chư thần. Ở đại tự, thiền viện chàng chiêm ngưỡng dung sắc cùng nụ cười huyền nhiệm của đức Phật. Ở bờ sông, chàng nhìn những chiếc thuyền xuôi ngược khứ lai của khách thương. Ở công viên, chàng ngồi thầm lặng nhìn bộ hành qua lại, từng nụ cười, từng dáng đi, từng khuôn mặt. Chàng chẳng biết có sự mầu nhiệm nào từ trong đời sống mà nó vẫn tỏa ra trên bề mặt của mọi sinh hoạt cái sinh khí tràn trề và đa lực. Cái sinh khí ấy, cái hơi thở ấy, cái linh hồn của sự sống ấy, nó có ở đấy nhưng không biết ở đâu?! Nó có ở đấy làm cho vũ trụ chuyển động, tuy đa diện, đa tạp, đa phức, nhưng mà vẫn ở trong một trật tự cùng quy củ thật là kinh khiếp. Hình như chẳng có một cái gì thừa thãi cả trong cái vườn chơi của Thượng đế. Ôi, cái lão tặc – thiên – xích - tử bất - khả - tư - nghị đáng ghét và đáng yêu, cái gì cũng toàn bích và tuyệt mỹ hết sao? Một ngọn lá vàng bên đường, một tiếng cười trên sông, một viên gạch vụn trong khu vườn hoang, một hạt bụi dính trên gót chân của ngôi tượng cổ, một đứa trẻ mồ côi nằm co ro trên sạp hàng của khu chợ chiều, một giọt mồ hôi của người mẹ già bên bếp lửa trưa, một cái nhìn ân tình vụng trộm của thiếu phụ, một tên hoạt đầu chính trị, một lão gian thương, một kẻ sát nhân, một người đói khổ. Trong tất cả những hiện hữu không thừa, không thiếu ấy, cũng có chàng. Có chàng đang ngồi đây để nhìn ngắm cuộc đời và nhìn ngắm sự vận hành. Chàng ở bên trong hay bên ngoài cuộc đời? Nếu là bên ngoài thì làm sao chàng lại có được đời sống tư duy, cơm ăn, áo mặc? Nếu là bên trong thì sao chàng chẳng có được sự nhiệt tình, sinh thái trẻ trung để bước vào, nhập cuộc? Vậy thì rõ ràng chàng đang ở đâu đó, xa lạ với mọi sinh hoạt. Rõ ràng chàng đang bị đẩy bật ra khỏi sức quay, bị tước đoạt mất linh hồn của sự sống. Chàng bị tách lìa khỏi đồng chủng. Chàng cô độc giữa mọi hiện hữu.

Một lần kia, ngồi một mình giữa công viên đến chín rục thân xác, chàng lững thững ra về. Sương đêm xuống lạnh, từng bước một rã rời trên con đường tối tăm. Hựu chợt thấy mình thích con đường tối tămước mong con đường tối tăm này kéo dài vô tận. Ánh sáng được chiếu hắt ra từ những căn nhà làm chàng nhức nhối và khó chịu vô cùng. Cái ánh sáng ấy, nó là cái biểu tượng cho thế giới thực, thế giới mà chàng đang bị bắt buộc phải đối diện, đã bóc trần truồng sự cô đơn của chàng ra. Nơi cái thế giới ánh sáng ấy chàng có quen biết, thân thiện với ai nữa không? Với bóng đêm, chàng trọn vẹn với mình và không bị ai dòm ngó, chiếm hữu. Với bóng đêm, chàng được nguyên vẹn trong ý thức tự quy mà không sợ bị tha thể hóa. Cái thế giới ánh sáng đầy kênh kiệu và khả ố, hình như chỉ biết soi rọi hoặc tước đoạt những cái thầm mật của mỗi tự hữu. Chúng muốn sử dụng chàng, làm mất chàng, đồng hóa chàng, để biến chàng thành những công cụ cho xã hội, cho các giá trị phạm trù, các công thứcquy củ ước lệ, những khuôn mẫu hình thức cho tập quán và luân lý cưỡng chế. Chúng muốn nô lệ hóa hết thảy. Bởi chỉ muốn tự do nên chàng đã bị chúng bao vây, nhốt kín. Bao ngày, bao đêm chàng đã tự lực vùng vẫy một cách vô vọng. Vòng đai càng lúc càng được siết chặt lại, vòng đai được kết dệt bằng máu, hơi thở, cay đắngtư duy không lối thoát.

Cuộc chiến đấu tuy đơn điệu, thầm lặng nhưng cường liệt này - đúng như Vọng Việt nói - là thái độ tự kháng bắt buộc trên lộ trình tự sinh, tự hóa. Đôi lúc quá tuyệt vọng, chàng nghĩ là chàng không còn ngồi dậy được nữa, đã vĩnh viễn nằm xuống, còn thực tại kia - cái ánh sáng kia - vẫn lạnh lùng kiên cố ngàn đời. Thế hệ, lịch sử, thời đại, kỷ nguyên, thành quách, vàng son dù qua đi, dù thành hoại, tử vong thì nó vẫn tồn tại vô tri, vô đạo ngoài dòng chuyển dịch của không thời. Chàng có thể là một con vật hy sinh trong cuộc tế lễ lớn không? Nếu không thì có sinh lộ nào, lối thoát nào để nhảy vọt ra ngoài định mệnh?

- Thỏa hiệp là đồng lõa, cam phận với cái thông tục là nô lệ, xuẩn ngốc. Mà chạy trốn ra ngoài là mâyâ. Bạn ơi, có một lối thoát nào không ngoài hai phạm trù ở và đi, ly và trụ, khi một ý nghĩ vượt thoát như vậy đã là một tiền đề bất khả tri nhận của lý trí? Vượt thoát là cái nghịch lý của mọi nghịch lý, mâu thuẫn của mọi mâu thuẫn.

Triết Hựu hỏi như vậy và đăm đăm nhìn Vọng Việt, bạn chàng. Có nhiệm mầu nào ở phía bên trong vầng trán cao rộng mênh mông kia? Có ánh sáng huyền bí nào sẽ được tuôn ra từ cái tâm linh vốn được dưỡng nuôi từ suối nguồn của Vệ-đà, của minh triết?

Hôm đó, Vọng Việt không trả lời, y đưa tay ngắt những đọt lá non. Triết Hựu ngồi trên tấm thạch bàn,

kiết già phu tọa nhìn mông mông vào dòng sông bát ngát chiều hôm. Từ chiếc lá này đến chiếc lá khác được Vọng Việt nhồi nát, vo tròn, rỉ nhựa rồi thả trôi theo lạch nước. Hựu thấy cái hành động của Vọng

Việt chừng như là vô tâm, nhưng thật ra là do cái “vô thức hủy diệt” ở phía bên trong ngấm ngầm thúc đẩy. Là một môn sinh mẫn tuệ, trí thức, một giáo chủ của tương lai, một con người tự hào là có giáo dụcvăn hóa; và nhất là một kẻ tự nhận là một hành giả đang lên đường - lại ngầm chứa bên trong cái năng lực tàn bạo, vô nhân tính, là cái vô-thức-hủy-diệt, là cái từ đó, bóp nát những sự sống! Kẻ không biết kính trọngyêu thương một sự sống thì không thể biết kính trọng hoặc yêu thương ai. Nếu có chỉ là nhãn hiệu trá ngụy. Hựu chợt nghĩ rằng mình chẳng nên tin cậy lắm ở một nhân cách như vậy.

Khi Triết Hựu lặng lẽ định quay đi thì Vọng Việt gọi giật lại:

- Đấng sáng hóa là đấng ở ngoài ngôn và lời. Tôi thâm hiểu và cảm thông bát ngát niềm đau định mệnh khôn nguôi của thiện hữu. Cái biết của bạn không khác cái biết của tôi, thì làm sao tôi có được một ngôn và lời ở ngoài đấng ngôn và lời? Chúng ta nên biết rằng - Vọng Việt nhấn mạnh, đôi mắt nhìn sâu, hai tay nắm chặt - là nó thuộc thẩm quyền của con mắt thứ ba, là một bước chuyển nghịch lý tự căn, nó bóp vụn không - thời trả cho tại thế hữu hạn. Và nó bay cao chóa ngợp vòm mây hư hóa, siêu việt mà hiện tồn, vô-hình-kỳ-trung mà thực tại. Bạn cũng đã hiểu như vậy mà, thiện hữu!

Hựu lơ đãng nghe bạn nói. Đằng sau những ngôn và lời ấy có bóng tối, Hựu nghĩ. Bóng tối của riêng mỗi người mà chúng đã thâm nhập thành máu huyết, tủy xương và hơi thở. Bóng tối ấy là gì nơi Vọng Việt? Riêng chàng thì chàng hiểu rõ lắm. Sự yêu thích bóng tối thường là dấu hiệu của tội ác, hoặc là từ nơi bóng tối ấy, tội ác được hình thành, nẩy mầm. Chàng rất minh bạch về thiện ác nhưng chẳng bao giờ muốn giải quyết thiện ác vì chúng đôi khi cũng hàm hồ và bất xác. Ở nơi này là tội ác và ở nơi kia là thiện lương. Thiện ác bao giờ cũng đóng đinh trên môi trường chủ quan của nó. Cả bóng tối cũng vậy nữa chứ sao. Bóng tối trong Vọng Việt phải chăng có quá nhiều ánh sáng bao bọc che phủ? Hoàn cảnh làm cho bóng tối kia bị chế ngự hay tưởng như nó được chế ngự? Nhưng dù sao chẳng có nơi nào có ánh sáng mà không có bóng tối, Hựu thấy rõ như vậy vừa bằng lý trí vừa bằng cả trực giác nữa. Vậy thì đây đâu là vấn đề mà chàng phải bận tâm? Cái vấn đề vốn đã hiển nhiên như hai với hai là một, cái phi lý đã là tất hữu thì mọi kiếm tìm thành ra vô vọng sao? Thái độ yêu thích bóng tối có phải là yêu thích tội ác? Hay nhờ tội ác mới hiển bật các giá trị thiện đức? Nghĩa là nhờ bóng tối mới có được ánh sáng và ngược lại?

Tuyệt đối không giải quyết gì được qua các phạm trù của lý trí, chàng nghĩ. Lý trí là kiếm tìm, là câu hỏi nhưng chưa bao giờ là đáp số chung cuộc. Những đáp số bị bỏ quên trên đường đi trong cuộc tiến hóa. Những đáp số phủ nhận những đáp số để cùng nhau ngẩn ngơ và tuyệt vọng trước hố thẳm vô lượng của cuộc đời, phải thế? Chỉ có một điều duy nhất là chàng hiểu được thôi: nhờ bóng tối mà chàng thấy mình được tự do. Tự do suy tưởngtự do cô độc, khổ đau. Trong bóng tối chàng được nguyên vẹn chứ không bị chia lìa.

- Cho già xin một chút lửa!

Một bóng đen lù lù trước mặt cất tiếng nói khi Hựu sắp bước vào con đường nhỏ.

- Tiện sinh không có lửa, lão trượng ạ!

- Thì ánh sáng vậy. Ánh sáng có được từ Đấng lửa. Hãy cho già xin một chút ánh sáng.

- Sao kỳ vậy, lão trượng có lầm chăng

- Lão xin ánh sáng đấy mà, lầm sao được.

- Xin ánh sáng? Triết Hựu lắp bắp - tôi lại đang tư duy về bóng tối. Tiện sinh chỉ là bóng tối và đang là với bóng tối. Làm gì có ánh sáng nơi tôi, nơi này?

- Hãy bi mẫn với kẻ thiếu ánh sáng, người tuổi trẻ! Hãy cho lão ánh sáng có từ trong trái tim người!

Như một luồng điện cực mạnh va chạm các đầu dây thần kinh, Hựu giật lùi trở lại nhìn cho rõ mặt người xin lửa. Đấng đại sĩ đã đến với chàng trong cái cô đơn tuyệt đối này sao? Ngài đã đến đúng lúc để xin ánh sáng - nghĩa là thắp lửa trong trái tim chàng!

- Hãy cho già xin cái ánh sáng ấy, người tuổi trẻ! Cái ánh sáng có thể nhìn suốt qua hai màu trong đôi mắt hữu hạn trần tục của người.

Hựu vươn tay thật nhanh và mạnh chụp vào vai người lạ mặt. Nhưng chỉ có khoảng không! Và giọng nói kia vẫn còn rõ mồn một trong tai chàng:

- Không có ánh sáng ấy thì sao người trẻ tuổi nhìn thấy được ta? Không có ánh sáng ấy thì làm sao người tuổi trẻ nhìn được ánh sáng và bóng tối? Thiên đường không có thừa chỗ cho người dối trá đâu. Nguyện cầu cho địa ngục đến với ngươi! Nguyện cầu cho ngươi thấy rõ địa ngục.

Ôi, giọng nói gì mà thu hút làm sao? Ôi, giọng nói gì mà chan hòa êm ái đến thế? Nó mang một tiết điệu nhịp nhàng, là kết cấu của từng cung bậc diệu hóa, từ bàn tay ngọc của thần Vichnou. Trong một lúc mà Triết Hựu nghe được ngôn ngữ viên dung, viên âm của đấng ấy - đấng cõi ngoài - nghiêm khắctừ ái, lạnh lùngbao dung.

Hựu đưa mắt kiếm tìm quanh quất rồi cất mình chạy theo âm hưởng của giọng nói vừa mất. Hựu ngây ngất và hăm hở chạy mãi về phía núi. Chàng không hề thấy bụi bờ, gai góc mà chỉ thấy ánh sáng - một vùng hào quang tròn ở phía trước - như hào quang của đức Phật và của chư thần mà chàng thường thấy trên các điện thờ.

Không biết Hựu chạy được bao lâu thì đến một vùng hoang dã. Bây giờ thì ngày đã lên trong ánh sáng nhờ nhợ. Có tiếng độnghơi thở trong không gian của mọi vật đang cựa mình sau một đêm dài thiếp ngủ.

Nhìn quanh chàng thấy mình đang đứng ở một nghĩa địa. Và rải rác đây đó là những đầu lâu, sọ người, xương khô. Chúng như nhìn trừng trừng vào nỗi hoang liêu cô độc của đời chàng. Cái thế giới tĩnh vật đúng là tĩnh vật này, chúng cũng có tiếng nói nội tâm? Hựu cũng không đã từng lắng nghe ngôn ngữ của một đám mây, lời thì thầm của gió, sự hoan ca của nắng, niềm ngây ngất của bình minh rồi đó sao? Có những dòng sông đã trườn mình qua bao thác, bao ghềnh và cũng đã từng tâm sự với chàng về nỗi phế hưng thăng trầm của cuộc đời. Có những đỉnh núi đã ngạo nghễ cất lời ca cao vút bạt ngàn hoặc vỗ tay chế nhạo những bẩn chật, những tranh giành đê hạ của con người. Và bây giờ là lũ “cốt khô” này, chúng nói gì? Chúng đang yên nghỉ ở đây, như một tay lực sĩ điền kinh đã về đến đích, nhìn chàng và đồng loại chen lấn, xôn xao, mòn hơi, kiệt sức. Ta là cái đích của chúng, ta đang ngồi ở cuối đỉnh vinh quang trong cuộc trở về của chúng, lũ cốt khô nói như vậy? Thảm thương thay các ngươi đang mệt lả, đang khổ đau và hoan lạc giữa đường trường!

Hựu phác một cử chỉ khinh miệt rồi ngửng đầu bước qua một bộ xương trắng hếu. Và từ đằng xa kia, trên tảng đá dưới một cội tùng già, vị sa-môn đang ngồi nhập định. Đấy có phải là người xin lửa? Sứ giả của Thượng đế là ngài đây chăng? Hiện thân của đấng cõi ngoài là bậc đại sa-môn đây chứ không ai khác. Ở thời đại này, con người man dã thú vật và thân xác này, nhất là xứ này, thành phố này, chẳng thể có những đạo sĩ, sa-môn trong dáng dấp khổ hạnh toát ra sự thanh cao, xuất trần, vô nhiễm như vậy.

Hựu lần bước tới và quỳ xuống. Trên tảng đá, vị sa-môn đang còn nhắm mắt tham thiền. Sương xuống trên đầu vây phủ xung quanh một làn khói mỏng. Hình như có vài giọt đọng lại trên hàng lông mày bạc có từng sợi dài - những hạt ngọc phù du đang còn đọng lại ở đó; hiện thân của một nhân cách đã chiến thắng phù du?

- Xin đại sa-môn cho con xin một chút ánh sáng! Con là kẻ đang đầy bóng tối, hỡi ngài!

Lần thứ hai Hựu cất tiếng nói nhưng vị sa-môn

Vẫn im lìm, bất động. Người như đã hóa thạch. Hựu nhìn chiếc thân gầy như hạc, chiếc y hoại sắc đã bạc màu vì gió mưa của vị sa-môn mà cảm nghe trong lòng dâng lên một niềm thành kính cao độ. Người này, đấng này, là hiện thân, tôn vinh của thế giới tinh thần sáng láng. Là bậc đã làm chủ. Diễm phúc thay cho ta được diện kiến cùng người.

Khi mặt trời bắt đầu chan hòa trên vạn vật thì vị sa-môn già cũng vừa mở mắt. Ngài bình thản nhìn Triết Hựu từ đầu đến chân, lặng lẽ không nói gì. Đôi mắt có mở ra mà như là vô tình, vô cảm. Đấy chỉ là sự mở ra của hai cánh cửa từ một căn nhà sau một mùa đông dài khép kín. Vị sa-môn thôi nhìn Triết Hựu, lại nhìn về phương đông, nơi mặt trời vừa nhô lên khỏi đỉnh núi, soi dài con đường mòn dẫn về thị trấn.

Đưa tay xoa bóp nhẹ nhàng, chậm rãi ở mấy ngón chân, bàn chân, ống chân, vị sa-môn vươn vai đứng dậy. Thở một hơi dài. Manh áo cà sa được làn gió ban mai thổi nhẹ và mặt trời đã pha lên đấy một màu hồng loãng. Cúi người về cành cây phía trước, vị sa-môn lấy bình bát mở ra. Khi đã có trong tay chiếc bầu nhỏ đựng nước cùng chiếc khăn mặt, vị sa-môn bắt đầu làm vệ sinh buổi sáng.

Hựu vẫn còn quỳ đấy, tất cả mọi động tác của vị sa-môn đều lọt vào mắt chàng. Ôi, cử động nào cũng chậm rãi và trầm tĩnh. Cử động nào cũng nói ra, nói lên, tuôn phát bởi sự nhàn tịnh sâu xa ở phía bên trong. Có phải là người đang dạy cho ta cử chỉ cùng phong thái của một người giác ngộ?

Khi đã làm xong những công việc cá nhân, vị sa-môn khoác bình bát lên vai, chiếc gậy trên tay và đưa chân từ giã vùng hoang mộ.

- Hỡi ngài! Hỡi đại sa-môn khả kính - Triết Hựu gọi giật lại - Hãy cho con ánh sáng!

Vị sa-môn dừng lại, có vẻ ngạc nhiên.

- Ngươi nói gì vậy? Ngươi đòi xin ánh sáng? Với từng ấy tuổi đầu mà ngươi chưa hề biết rằng ánh sáng đến từ mặt trời? Chúng ta đều chan chứa bởi ngài, phản chiếu bởi ngài và tin nhận từ ngài. Chúng ta đều là kẻ nhận chứ không phải kẻ cho!

- Xin đại sa-môn cho con xin ánh sáng từ tâm linh!

Ngước lên nhìn trời một lúc rồi vị sa-môn lẩm bẩm:

- Cả chúng nhân trần gian thiểu trí này đều như vậy. Mặt trời có đó mà chúng vẫn thấy tối. Nếu chúng là thực-tại-tối thì chúng nhìn đâu mà thành sáng được? Mặt trời nào mà đến với chúng được? Nếu chúng là thực-tại-sáng thì đâu không là sáng? Mười muôn triệu hố thẳm không đáy dày đặc lên nhau chúng cũng nhìn thấy được, sá gì chỉ một bóng đêm? Kỳ lạ, kỳ lạ! Nhưng nếu chúng tối thì lấy gì để nhìn cho rõ cái sáng? Kỳ lạ. Kỳ lạ. Tất cả đạo sĩ, sa - môn, người có năng lực suy tư, giáo phái chủ, giáo phái sư, kẻ có kiến thức, bậc trí giả - đều đi tìm cái đại khái như vậy, cái na ná như vậy - À! Coi nào, một người, hai người, ba người; những kẻ gặp ta giữa rừng, nơi miếu hoang, trong nghĩa địa, trên đường phố, nơi đám đông, giữa chợ búa… đều tra vấn ta những điều si ngốc như vậy: xin ánh sáng! Kẻ này, bậc tuổi trẻ thánh thiện này lại xác nhận là xin ánh sáng từ tâm linh!

Chợt nhiên vị sa-môn già nói lớn:

- Ta tìm hoài mà chẳng biết tâm linh ta ở đâu. Tâm linh ta với ngươi là một hay là hai? Ta không biết. Huống hồ là ánh sáng từ tâm linh. Ta chịu thôi!

- Ngài đang đầy ắp cái ấy hỡi bậc đại sa-môn! Ngài hãy cho con cái gì mà ngài đang có, con đang thiếu thốn và khổ đau.

Triết Hựu tha thiết, hai tay chắp lại và thành kính nói với theo.

Vị sa-môn lại một lần nữa lẩm bẩm:

- Ta có cái ấy à? Cái ấy là cái gì nhỉ? Quả thật là ta có một cái gì đây chăng? Cái ấy nó hiển lộ ra bên ngoài để đấng-tuổi-trẻ-thánh-thiện này nhìn thấy? Y thấy cái gì đó nơi ta mà sao ta không thấy? Kỳ lạ. Kỳ lạ. Thân xác ta, tư tưởng ta là cái mà y vẫn có? Ta có cái gì để cho y, khi thân xác và tư tưởng này ta cũng đã vay mượn từ Đấng hư không!

Đến đây, vị sa-môn quay lại, đôi mắt sáng rực, uy nghi, trừng trừng nhìn Triết Hựu:

- Bước đi! Chán lắm rồi cái trò xin xỏ thống thiết bi lụy của thế gian. Ta đã từng gặp hằng chục, hằng trăm, hằng ngàn tên khất sĩ vô loại như vậy. Kẻ vô loại nhất trần đời là kẻ mạo danh cao thượng, chiêu bài Thượng đế để đi khất-sĩ tâm linh! Xéo đi!

Đôi mắt vị sa-môn già toé lên tia lửa hắt tạt vào

niềm hi vọng của Triết Hựu. Niềm hy vọng chợt như bốc thành khói loãng tan nhòa vào hư không. Hựu còn lại với nỗi trần trụi cô liêu của mình.

Bóng vị sa-môn già nhạt nhòa ở phía trước, trên con dốc sỏi đỏ, chậm rãi từng bước một, buông thả và nhàn tịnh. Từng bước chân như là không chờ đợi gì, thành tựu gì! Mỗi bước đi như là không đạt cái phía trước, phóng vọt tới đằng trước - mà tự nó đã nói lên cái thành tựu, đã trọn vẹn với chính nó, vừa nhân và quả, tại thếxuất thế, sinh và tử, đi và về, vô sinh vô tử!

Khi bóng vị sa-môn chỉ còn là một chấm nhỏ chìm trong ánh mặt trời, thì Triết Hựu thở một hơi dài. Thế là hết. Y đã mang ánh sáng rồi chìm khuất trong mặt trời, về với mặt trời, hòa tan trong mặt trời. Y đã mang của Hựu niềm hy vọng rộn rã vừa lóe sáng trong đêm để đi về phía ấy. Cả thiên hạ bao la này chàng chưa hề thấy một nhân cách thứ hai có đủ một phần mười sáu cái ánh sáng sâu thẳm từ phía bên trong tỏa ra ngun ngút bằng vị đại sa-môn này. Chỉ có ngài, ở nơi ngài ta mới thật sự tìm ra chính mình, và chân phúc: một bước nhảy ra ngoài định mệnh.

Bước chân của Hựu rơi theo mục đích chàng: theo chân vị sa-môn khổ hạnh.

Đến thị trấn, vị sa-môn khoan thai từng bước một, đôi mắt nhìn xuống, lần lượt từ nhà này sang nhà kia để xin ăn. Đầu trần, chân đất, lặng lẽ không nôn nả, không mong ngóng, trầm thản, bình an, tròn đầy và vô dục. Ở nơi người toát ra một từ lực đức hạnh khiến xung quanh phải mở mối thiện tâm cùng lòng tôn kính. Hựu đi ở phía sau, giữ một khoảng cách vừa phải. Và quả là điều trái ngược, ở nơi y, tự tâm nội vẫn còn mong với một cái gì, nhìn thấy một cái gì, đạt một cái gì. Một động lực vô danh âm ỉ thúc hối chàng tìm kiếmlên đường. Chàng vẫn chưa tuyệt niềm hy vọng là sẽ được vị sa-môn ban cho ánh sáng.

Hai chân Hựu rã rời, nhức buốt. Kéo lê đôi chân trên đường tìm đạo cũng nặng nề như kéo lê thân xác đi qua cuộc đời, chàng nghĩ; một bên thì phải nhấc chúng lên, lửa, gai, vực thẳm, sự kiên trì, kiêu dũng; một bên thì phải nuôi dưỡng, bảo vệ, bệnh tật, uống ăn, mệt mỏi, chết và già. Ngay giây phút này đây, Hựu mới thâm hội ẩn nghĩa của cuộc lưu đày tại thế. Ôi! những thân phận không ngớt vươn lên kiếm tìm tuyệt đối, tuyệt đối của vật chất hoặc tinh thần. Chạy đuổi cái vô hạn đến một cấp độ nào đó cũng đồng nghĩa với tự sát trong vòng quay của hữu hạn!

Ôi! Chàng đã mệt mỏi quá rồi! Cái ấy chàng đã không thể tư duy được, lại không thể kiếm tìm được.

Chợt như thấy đó rồi lại mất đó. “Cái ấy xua đuổi chàng chạy điên đảo trên hai bờ vực thẳm sinh và tử - hay là chàng chạy điên đảo trên hai bờ vực thẳm sinh và tử để tìm đạt cái ấy?”

Ôi! Chàng đã mệt mỏi quá rồi!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26475)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 19888)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cựctích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực...
(Xem: 18115)
Ðức Phật khuyên chúng ta nên thường xuyên suy ngẫm về cái chết, hàng ngày hay vào bất cứ lúc nào. Nó sẽ khơi dậy trong chúng ta sự tỉnh thứcý thức cấp bách...
(Xem: 32652)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 18731)
Theo hiểu biết cơ bản của Phật giáo, tâm hồn về bản chất luôn mang tính sáng suốtthông tuệ. Thế nên, những rắc rối về tình cảm không hề tồn tại trong bản chất cơ bản của tâm hồn...
(Xem: 31459)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32399)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 20010)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 20192)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 23700)
Tôi tự cho rằng tôi có thực hay đó chỉ là một ý nghĩ về tôi do tôi tưởng nghĩ về tôi hoặc một ý nghĩ hay một hình ảnh về tôi do kẻ khác hay những kẻ khác tưởng nghĩ về tôi?
(Xem: 23776)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 15037)
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch)...
(Xem: 14962)
Nhìn thấy rõ tướng vô thường và khổ đau đang bủa xuống quanh cuộc sống, đêm rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa Kiền-trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cận...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant