Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Thứ Nhất

09 Tháng Tư 201300:00(Xem: 6155)
Phần Thứ Nhất

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN HÓA ĐẠO

---oOo---

 

50 NĂM CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 Sa môn THÍCH THIỆN HOA soạn

flowerba

Tập II:

PHẬT GIÁO VIỆT NAM NGÀY NAY

hay là

50 NĂM CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 ------------


PHẦN THỨ NHẤT

Nói đến Phật Giáo Việt Nam hay Phật Giáo Trung Hoa Nhật Bản, Tây Tạng, Đại Hàng, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Ai Lao v..v… đều một gốc, nghĩa là bắt nguồn từ Ấn Độ, đồng thờ đức Phật Thích Ca làm Giáo Chủ, đồng học một giáo lý, đồng giữ một giới luật. Nhưng tùy phong tục tập quán của mỗi nước khác nhau và cũng tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương để hóa độ nên Phật Giáo nhập thế hay nhập phong tục của mỗi nước, sắc thái có phần sai khác.

PHẬT GIÁO VIỆT NAM CÓ HAI TÔNG PHÁI CHÁNH

Riêng về Phật Giáo Việt Namdu nhập bởi hai con đường truyền giáo:

- Một con đường bộ, từ phía Bắc xuống, do Ngài Mâu Bác, người Trung Hoa đầu tiên sang truyền giáo tại Việt Nam (189) gọi là Phật Giáo Bắc Tông.

- Một con đường Thủy, từ phía Nam lên, do Ngài Khương Tăng Hội người Ấn Độ, sang truyền giáo tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ III (xem Phật Học Phổ Thông khoá 5 trang 36).

Về sau vào đời nhà Tấn, giữa thế kỷ thứ III (265 - 306) có thêm hai nhà truyền giáo từ Ấn Độ sang Việt Nam là Ngài Ma-Ha-Kỳ-Vực và Ngài Chi-Cương-Luơng đều đi đường thủy từ phía Nam lên, nên gọi là Phật Giáo Nam Tông.

Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một nghìn năm, và sau đó cũng còn bị lệ thuộc về văn hoá, chính trị, nên về sau, con đường truyền giáo từ Trung hoa sang Việt Namcon đường chính.

Lại nữa nước Việt Nam ta có dân thiểu số “người Việt gốc Miên”, họ đã theo Phật Giáo đã lâu đời, bắt nguồn từ Miên quốc. Về sự ăn mặc, sắc thái nếp sống của họ như người Miên. Phái nầy gọi là Théravada cũng gọi Phật Giáo Nam tông hay Phật Giáo Nguyên thủy (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo V.N trang 62 và 64).

PHẬT GIÁO VIỆT NAM CÓ NHIỀU CHI PHÁI

Phật giáo vẫn là một gốc, nhưng khi truyền qua Việt Nam lại mọc lên hai “chồi cái” là Bắc tông Phật GiáoNam tông Phật Giáo, rồi từ hai chồi cái này, vì nhiều lý do: hoàn cảnh, địa dư và thời gian lâu đời v.v.. nên nảy sinh ra không biết bao nhiêu là nhánh ngọn. Tuy mỗi chi phái (giáo phái) sắc phái khác nhau, nhưng đều là “Phật Giáo Việt Nam”.

Bởi thế nên “Phật Giáo Việt Nam Ngày nay” có nhiều giáo phái:

1. Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

2. Phật Giáo Nguyên Thỉ Việt Nam (người Việt Nam)

3. Phật Giáo Théravada (người Việt gốc Miên)

4. Phật Giáo Lục Hoà Tăng

5. Phật Giáo Cổ Sơn Môn (cũng gọi là Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam)

6. Phật Giáo Khất Sĩ V.N (Du Tăng Khất Sĩ, Khất sĩ Đạo Lâm ở Ba Xuyên)

7. Phật Giáo Hoà Hảo

8. Phật Giáo Tứ Ân

9. Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương

10. Phật Giáo HoaTông (người Việt Nam gốc Hoa)

11. Minh Nguyện Cư sĩ Lâm (người Hoa kiều)

12. Tịnh Độ Cư sĩ

13. Tịnh Độ Tông

14. Hội Linh Sơn Phật Học

15. Hội Lưỡng Sơn Phật học

16. Hội Phật học Nam Việt

17. Thiền Tịnh Đạo Tràng

18. Đạo Hiếu Nghĩa Tứ Ân (ở Phong Dinh)

19. Phật Giáo Long Hoa Huỳnh Đạo (ở Cà Mau)

20. Hòa đồng Tôn Giáo v.v.

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Chúng tôi từng tự trình bày các chi phái Phật Giáo. Trước nhất, xin nói đến “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” vì Giáo hội PGVNTN có bề sâu và bề rộng: Về phương diện địa dư thì rộng lớn, quần chúng lại đông nhiều, kết hợp được hai tông phái chánh là Bắc Tông Phật GiáoNam Tông Phật Giáo và sự tổ chức lại chặc chẽ có hệ thống và qui cũ.

NGUYÊN NHÂN GIÁO HỘI P.G.V.N THỐNG NHẤT RA ĐỜI

Như trên, chúng ta đã thấy, bên trong nội bộ vì bị phân hoá, quá nhiều nên Phật Giáo Việt Nam trở thành suy yếu, một phần bị ảnh hưởng bên ngoài chiến tranh Pháp - Việt (1945 - 1954) nên các cơ sở Phật Giáo gần như tan rã.

đau lòng trước cảnh suy đồi của Phật Giáo và nhơn tình hình chiến tranh có phần lắng dịu, nên các nhà lành đạo trong 6 tập đoàn lớn của Phật Giáo cả Nam, Trung, Bắc (3 tập đoàn trong 6 tập đoàn Tăng GiàCư sĩ) cử 51 đại biểu, đại diện cả Tăng Giàcư sĩ trong toàn quốc về hộ Đại hội tại chùa Từ Đàm Huế, vào ngày 06 đến O9 tháng 5 năm 1951, để bàn về việc thống nhất Phật Giáo (xem quyển 50 chấn hưng Phật Giáo Việt Nam trang 82, 83, 84). Nhưng đây chỉ thống nhất 6 tập đoàn của Phật Giáo Bắc tông, còn Phật Giáo Nam tông thì vẫn còn biệt lập. Và chỉ thống nhất trên hình thức một “Tổng Hội” (Tổng hội Phật Giáo Việt Nam) lỏng lẻo, không chặc chẽ lắm, vì 6 tập đoàn vẫn còn giữ y nguyên hình thái cũ.

Đến khi Chánh phủ Ngô Đình Diệm lên nắm chánh quyền 9 năm (1954-1963) đàn áp dân chúng và chủ trương tiêu diệt Tôn giáo lớn của dân tộc V.N như Cao Đài, Hoà Hảo và rốt sau là Phật Giáo; Ông Diệm ra lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo vào ngày đại hội Phật Đản 2507 (ngày mồng 8-5-1963, xem quyển tranh đấu Phật Giáo Việt Nam năm 1963).

Đứng trước sự tồn vong của một Tôn giáo cổ truyền của dân tộc, đã từng đóng góp và trung thành với Tổ Quốc Việt Nam gần 2000 năm lịch sử sắp bị tiêu diệt, nên toàn thể Tăng Tín Đồ Phật Giáo, gồm cả Bắc tôngNam tông đều thống nhất ý chí, đoàn kết chặt chẽ, thành lập “Uỷ Ban Liên Phái Bảo vệ Phật Giáo” để cứu nguy cho Dân tộc và Đạo pháp.

Sau khi chấm dứt chế độ tàn bạo độc tài gia-đình-trị của Nhà Ngô bởi cuộc cách mạng ngày 1.11.63, Phật Giáo thoát khỏi đại nạn, cởi được cái ách kỳ thị Tôn giáo, bởi Đạo dụ số 10([1]) của thực dân Pháp để lại (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam trang 26 và 28), toàn thể Tăng tín đồ các giáo phái Phật Giáo của Nam tông và Bắctông đều họp Đại hội tại chùa Xá Lợi Sài gòn vào ngày 30.12.63 đến 01.01.1964, xoá bỏ các tập đoàn riêng biệt, chung lại thành lập một Giáo hội, gọi là “Giáo hội Phật Giáo Việt Nam ThốngNhất”.

Kỳ nầy mới xoá bỏ hẳn hình thái riêng biệt của các tập đoàn và thật sự thống nhất cả Phật Giáo Bắc tôngNam tông (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam trang 126).

THÔNG BẠCH

của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

gởi Toàn thể Phật Giáo đồ trong cả nước

Sau cuộc vận động 5 nguyện vọng của Phật Giáo, tất cả mọi người con Phật ai ai cũng thấy một cách cần thiết là nền Phật Giáo Việt Nam phải được thống nhất, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam phải có Giáo quyền, Phật Giáo đồ khắp cả nước phải thống ý chí lẫn hành động để xây dựng một nền đạo giáo dân tộc thực sự xứng đáng với trách vụ của nó ở hai phương diện: Đạo và Đời.

Để đáp ứng sự thống nhất đó, một Hội nghị Phật Giáo Việt Nam được tổ chức từ ngày 30.12.1963 đến ngày 1.1 1964 tại chùa Xá Lợi qui tụ các đại biểu 11 giáo phái thuộc Nam tông, Bắc tông và gồm các quan sát viên của các Giáo phái khác. Đại hội đã thu được những kết quả mong muốn là Giáo hội PGVNTN ra đời, đặt dưới sự trông coi của hai viện: Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo. Một chương trình hành động nhằm củng cố hệ thống Phật tử Việt Nam với mục tiêu lấy Đạo xây dựng Đời, đem đời vào Đạo đã được hoạch định, Giáo hội PGVNTN bảo trọng lý tưởng hoà bình, phục vụ dân tộc và nhân loại, đúng theo nghĩa từ bi của đức Phật. Giáo hội đặt sự tồn tại của mình trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại. Ý thức hệ của Phật giáo nhằm hoạt động hướng đến hạnh phúc của con người trong lý tưởng cộng đồng.

Giáo hội PGVNTN mong mỏi và sẵn sàng tiếp nhận mọi tầng lớp Phật tử thuộc các giáo phái đã cử quan sát viên tham dự đại hội kịp thời gia nhập để xây dựng nền Phật Giáo dân tộc thật xứng đáng với danh nghĩa của nó. Giáo hội PGVNTN, ý thức vai trò của mình qua truyền thốnglịch sử của dân tộc đã chứng minh một cách rõ ràng. Khi nào xứ sở suy thì Phật Giáo vong, lúc nào Đạo pháp hưng thì xứ sở thịnh. Vì lẽ đó, PGVNTN nhận thức được trách nhiệm của mình đến sự thịnh suy của đất nước, Phật Giáo xác nhận sự tồn tại của mình trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại.

Phật Giáo đồ xây dựng mọi hoạt động của mình trên tinh thần từ bi - trí tuệ và với tinh thần đó, Phật tử sẵn sàng đón nhận mọi người trong tình huynh đệ và trong sự tương thân rộng rãi.

Tất cả chúng ta phải sống cho Chính pháp, hy sinhChính pháp, để xây dựng một nền Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thực sự. Đó là trách vụ thiết yếu nhất của chúng ta trong giai đoạn hiện tại và đó cũng là một lối cúng dường duy nhất đối với Tam Bảo.

HIẾN CHƯƠNG PHẬT GIÁO

Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất có một “Hiến Chương” để làm qui cũ thăng mặc cho Giáo hội. Hiến Chương này có 10 chương và 36 điều, do một Uỷ Ban Đại diện, cho 11 tập đoàn Phật Giáo soạn thảo và một Đại hội Phật Giáo gồm cả Giáo phái của Phật Giáo Bắc TôngPhật Giáo Nam tông hợp vào ngày 30.12.1963 đến ngày 1.1.1964 tại chùa Xá Lợi Sài gòn đã biểu quyết.

Lời nói đầu của Bản Hiến Chương đã nói rõ lập trường thuần nhất của Giáo hội như sau:

“Công bố lý tưởng Hoà bình của giáo lý đức Phật, hai tông phái Phật Giáo (Bắc tôngNam tông) tại Việt Nam thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bảo từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo hội PGVNTN.

Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất, không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên dị cá biệt, mà đặt sự tồn tại trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.

Quan Niệm Thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp; nghĩa là giáo lý, giới luậtnếp sống của hai tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng, mà còn phải nổ lực phát triển trong sự kết hợpchỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật Giáo Thống Nhất tại Việt Nam (xem bản Hiến chương và Nội qui ở trang… sau). 

GIÁO KỲ PHẬT GIÁO

Phật Giáo Việt Nam vừa là một sáng lập viên của Phật Giáo Thế giới (lần đầu tiên hợp tại Colombo, Thủ đô Tích Lan vào ngày 16.5 đến 07.6.1950) vừa là một chi bộ của Phật Giáo Thế giới tại Việt Nam (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam trang 92 và 94) nên Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất lá cờ năm màu của Phật Giáo Thế giới làm giáo kỳ của mình. Lá cờ Phật Giáo Thế giới lần đầu tiên treo tại Việt Nam vào ngày đại lễ Phật đản, mùng 8 tháng 4 năm Tân Mão (13.5.1951).

Về ý nghĩa, hình thức khuôn khổ và màu sắc lá cờ Phật Giáo như sau và xem trang….

 

 

GIÁO THIỀU PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Mặc dù Phật Giáo Việt Nam chưa có quyết định dùng một bài nhạc nào làm Giáo Thiều. Nhưng từ khi Đại hội Phật Giáo toàn quốc hợp tại chùa Từ Đàm Huế vào năm 1951 đến nay, các cơ sở Phật Giáo trong toàn quốc, trong các cuộc đại lễ đều dùng bài nhạc sau đây để trổi lên khi chào Phật kỳ. Về âm điệu cũng như lời nhạc đều được đa số quần chúng Phật Giáo hoan nghinh (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam trang 84 và 55).

LỜI NHẠC

“Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Bắc, Trung, Nam từ nay

Một lòng chúng ta tiến lên vì đạo thiêng

Nào cùng vui trong ánh đạo vàng rạng ngời bốn phương

Vang ca đón chào Phật Giáo Việt Nam

Noi tấm gương Ngài Thích Ca giải thoát chúng sanh

Chúng ta dốc lòng nguyện cùng gieo rắc quanh mình

Bao nỗi vui lành tràn lan hầu tan đau đớn

Chấp tay ta cùng dưới đài sen thắm kết đoàn

Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Bắc,Trung, Nam từ nay

Nào cùng nắm tay kết nên một đài sen

Cùng làm sao cho đoá sen ngời, ngàn đời ngát hương

Muôn phương thắm nhuần Phật Giáo Việt Nam”

HUY HIỆU GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Trong Hiến chương của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất về chương thứ nhất, điều thứ hai có chép như sau:

Huy Hiệu của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhấtPHÁP LUÂN (có 12 căm) theo hình vẽ “Pháp luân là bánh xe pháp. Trong kinh thường chép: “Phật chuyển pháp luân” nghĩa là Phật chuyển bánh xe pháp, tức là Phật thuyết pháp hoá độ chúng sanh. Phật ba lần chuyển xe pháp Tứ đế thành ra 12 luân (3x4=12) hoặc có tiêu biểu cho pháp Thập nhị nhân duyên. Pháp luân 12 căm là tiêu biểu cho pháp Thập nhị nhân duyên hay pháp Tứ đế, 3 lần chuyển (3x4=12).

TRÁI TIM BẤT DIỆT

(một bảo vật của G.H.P.G.V.N.T.N)

Trái tim bất diệt của Bồ tát Quảng Đức là một bảo vật vô giá của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Trong khi vô minh hắc ám bao phủ cả trời Nam, dân chúng đồ thán, đạo pháp lâm nguy, Bồ tát Quảng Đức phát đại nguyện, đem thân làm đuốc, soi sáng cả trời Nam, phá tan mây vô minh hắc ám của bạo quyền, để cứu nguy dân tộc và đạo pháp.

Sau buổi cầu siêu tại chùa Phật Bửu ở đường Cao Thắng vào lúc 08 giờ sáng ngày 11.6.1963 (20.4. Quí Mão) Bồ tát Quảng Đức dẫn đầu Tăng Ni diễn hành đến ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt (Sài-gòn). Ngài ung dung ngồi kiết già giữa ngã tư rồi tự châm lửa vào mình. Ngọn lửa đại hùng của Ngài bừng lên sáng rực cả một góc trời. Mặc dù ngồi trong lửa đỏ hừng, nhưng Bồ tát vẫn kiết già bắt ấn tam muội ngồi vững như tượng đồng đen.

Sự hy sinh Bồ tát Quảng Đức đã làm cho Thế giới rúng động và kính nể chí anh dũng quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam nói chung, Phật Giáo Việt Nam nói riêng.

Trái tim kiên cố Ngài được đưa vào lửa điện đốt lại trên 6 giờ mà không cháy, hiện nay tôn thờ tại chùa Ấn Quang, trụ sở Giáo-hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.

HỆ THỐNG TỔ CHỨC của G.H.P.G.V.N.T.N

Hệ thống tổ chức của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất có chia ra TrungUơng đến Hải Ngoại:

Ở Trung Ương có Viện Thăng Thống và Viện Hoá Đạo

Ở đại phương có các miền, tỉnh, thị xã, quận, xã và phường v..v…

Ở hải ngoại có các chi bộ Phật Giáo

A - TRUNG ƯƠNG

I - VIỆN TĂNG THỐNG

Viện tăng thống lãnh đạo về phương diện tinh thần đạo pháp của Giáo hội, chuyên trách về sinh hoạt Giới luật cho Tăng Ni... (xem hiến chương từ điều 08 đến điều 14).

Viện Tăng Thống gồm có:

Đức Tăng Thống

Đức Phó Tăng Thống

Hội Đồng Trưởng Lão

Vị Chánh Thư Ký và một văn phòng

Hội đồng Trưởng lão là những vị có đủ 60 tuổi đời và 20 tuổi Đạo (kiết hạ), giới luật thanh tịnhthành tích phục vụ đạo pháp.

Đức Tăng Thống là ngôi vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất trực tiếp lãnh đạo Viện Tăng Thốngchủ tọa Hội đồng Giáo hội Trung Ương.

Đức Tăng Thống và Phó Tăng Thống đều do Hội đồng Giáo hội Trung Ương suy tôn trong hàng Trưởng lão của Hội đồng.

II - VIỆN HOÁ ĐẠO

Viện Hoá Đạo điều hành các ngành hoạt động về phương diện hành chánh và tổ chức của Giáo hội PGVNTN (xem Nội quy ở sau) Viện Hoá Đạo gồm có:

Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo

Hội đồng Viện Hoá Đạo

Các cơ quan trực thuộc và các cấp Giáo hội trong ngoài nước

Thành phần Ban Chỉ Đạo gồm có:

1 Viện Trưởng (Tăng sĩ)

2 Phó Viện Trưởng

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tăng sự

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Văn hoá Giáo dục

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Xã hội

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Cư sĩ

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Thanh Niên

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Tài chánh

1 Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Viện Hoá Đạo

1 Tổng Thủ bổn Văn phòng Viện Hoá Đạo

Năm vị trong Ban Thường vụ hợp với 7 Tổng vụ thành Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo. Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo do Hội đồng Giáo hội Trung Ương đề cử và Hội đồng khoán đại GHPGVNTN bầu cử. (Xem Hiến chương từ điều 15 đến điều thứ 18).

Viện Trưởng Viện Hoá Đạo thay mặt Giáo hội trước pháp lý và đôn đốc các Tổng vụ.

III - BẢY TỔNG VỤ

1 - TỔNG VỤ TĂNG SỰ

Tổng vụ Tăng sự coi về Tự viện Tăng Ni, lập Tăng tịch, bổ nhiệm Trụ trì, cho phép trùng tu hoặc tân tạo Tự Viện, cho phép mở giới đàn, trông coi về giới luật, nghi lễ và các nghi thức tụng Niệm tu hành của Tăng Ni Tín đồ.

Tổng vụ Tăng sự gồm có 4 vụ:

- Tăng Bộ Bắc Tổng Vụ

- Tăng Bộ Nam Tổng Vụ

- Ni Bộ Bắc Tổng Vụ (y chỉ Tăng Bộ Bắc Tông)

- Ni Bộ Nam Tổng Vụ (y chỉ Tăng Bộ Nam Tông)

(xem trang 39 ở sau)

2 - TỔNG VỤ HOẰNG PHÁP

Tổng vụ Hoằng pháp trông coi về việc truyền bá giáo lý của Đức Phật, như phiên dịch trước tác kinh sách, diễn giảng giáo lý kiểm duyệt kinh sách và lập thư kinh sách v.v..

Tổng vụ Hoằng pháp gồm có 3 vụ: (xem trang 41 và 42)

- Trước tác phiên dịch Vụ

- Truyền bá Vụ (diễn giảng)

- Kiểm duyệt Vụ

(xem Thư mục ở sau)

3 - TỔNG VỤ VĂN HOÁ GIÁO DỤC

Tổng vụ văn hoá Giáo dục trông coi về việc văn hoá của Phật GiáoGiáo dục các Tăng NiTín đồ: điều hành các Phật học viện từ Tiểu học đến Cao Đẳng và Đại học, lo đào tạo Tăng Ni, điều khiển các trường Bồ đề, lập các Thư viện và tổ chức phát triển Văn Mỹ nghệ.

Tổng vụ Văn hoá Giáo dục gồm có 3 Vụ:

- Phật Học Vụ (Giáo dục Tăng Ni)

- Giáo dục Vụ (tức Thế học Vụ, các trường Bồ đề)

- Văn –Hoá Vụ (Văn mỹ nghệ và Thư viện v.v..)

(xem trang 23 ở sau)

4 - TỔNG VỤ XÃ HỘI

Tổng vụ Xã hội coi về việc Từ thiện Xã hội của Giáo hội; như thành lập hoặc điều khiển các Cô Nhi Viện, Ký Nhi Viện v.v.. nhà dưỡng lão, lập dưỡng đường, mở trạm y tế, cứu trợ các thiên tai, hoả hoạn v..v…

Tổng vụ Xã hội gồm có 2 Vụ:

- Từ thiện xã hội Vụ

- Y tế Vụ

(xem trang 35 sau)

5 - TỔNG VỤ CƯ SĨ

Tổng vụ Cư sĩ coi về việc cư sĩ cả Bắc tôngNam tông, tổ chức và giáo dục các hàng ngũ Cư sĩ, lập các Hội đoàn Phật tử chuyên nghiệp.

Tổng vụ Cư sĩ gồm có 3 Vụ:

- Thiện Tín Bắc Tông Vụ

- Thiện tín Nam Tông Vụ

- Hội đoàn Phật tử chuyên nghiệp Vụ

(xem trang 43 ở sau)

6 - TỔNG VỤ THANH NIÊN

Tổng vụ Thanh Niên coi về thanh Niên Phật tử, tổ chức và giáo dục hàng ngũ thanh Niên Phật tử.

Tổng vụ Thanh Niên gồm có 6 Vụ:

- Gia đình Phật tử Vụ

- Sinh viên Phật tử Vụ

- Học sinh Phật tử Vụ

- Thanh Niên Phật tử Vụ

- Thanh Niên Phật tử Thiện Chí Vụ

- Hướng đạo Phật tử Vụ

 ( xem trang 44 ở sau)

7 - TỔNG VỤ TÀI CHÁNH

Tổng vụ Tài chánh coi về động sản và bất động sản của Giáo hội. Giữ gìn quản trị chùa chiền tài sản, đất đai v..v… và làm kinh tài cho Giáo hội.

Tổng vụ tài chánh gồm có 2 Vụ:

- Bất động sản quản trị Vụ

- Động sản quản trị Vụ

 (xem trang 45 ở sau)

B - ĐỊA PHƯƠNG

I - TÁM MIỀN

Ở Trung Ương có Viện Tăng thống, Viện Hoá Đạo và 7 Tổng vụ ở địa phương có 8 Miền. 11 Quận Đô Thành, 19 Tỉnh và Thị xã ở Trung phần. 28 Thị Xã ở Nam phần.

Mỗi Miền có một vị chánh Đại diện, đại diện Giáo hội Trung Ương để đôn đốc Phật sự trong các Tỉnh. Không có lập Văn phòng và Ban Đại diện Miền. Mỗi miền đều lấy tên của một vị Tổ có dày công xây đắp cho Đạo pháp để đặt tên Miền. Như ở Trung có 3 Miền: Vạn hạnh, Khuông việtLiễu quán; ở Nam có 3 miền: Khánh Hoà, Huệ Quang, và Khánh Anh; Ở Thủ đô có một miền Quảng Đức; ở Bắc có miền Vĩnh Nghiêm.

1 - MIỀN VẠN HẠNH

Miền Vạn Hạnh, lấy tên Ngài Vạn Hạnh Thiền sư đặt tên miền. Ngài Vạn Hạnh Thiền sư là một vị Quốc sư ở Triều nhà Lý (1010-1028). Người có công lớn với dân tộc Việt Nam cũng như Phật Giáo Việt Nam ở đời nhà Lý (Lý Công Uẩn xem Phật học Phổ thông khoá 5, trang 43).

Miền Vạn Hạnh ở vùng I, thuộc miền Bắc Trung nguyên Trung phần, gồm có 6 tỉnh và Thị Xã như sau:

- Tỉnh Quảng Trị 

- Tỉnh Thừa Thiên (Thị xã Huế)

- Thị xã Đà Nẵng 

- Tỉnh Quảng Nam

- Tỉnh Quảng Tín 

- Tỉnh Quảng Ngãi

 

2 - MIỀN LIỄU QUÁN

Miền Liễu Quán, lấy tên Hoà thượng Liễu Quán đặt tên miền. Ngài Liễu Quán ở Tỉnh Phú Yên. Đạo đức Ngài sáng chói trong một thuở ở Miền Trung. Ngài phát minh và đề xướng một phái Thiên TônViệt Nam, gọi là phái “Thiền Liễu Quán” (xem Phật học Phổ Thông khoá 5, trang 157).

Miền Liễu quán ở Vùng II, thuộc miền Nam Trung nguyên Trung phần gồm có 6 tỉnh và Thị xã sau đây:

- Tỉnh Bình định (TX Q.N)

- Tỉnh Phú Yên

- Tỉnh Khánh Hoà (TX N.T)

- Thị xã Cam Ranh

- Tỉnh Ninh Thuận 

- Tỉnh Bình Thuận

3 - MIỀN KHUÔNG VIỆT

Miền Khuông Việt, lấy tên Ngài Khuông Việt đặt tên miền. Ngài Khuông Việt là một vị Quốc sư ở đời nhà Đinh và Lê (968 - 1009), tên là Ngô Châu Lưu. Ngài có công lớn “giúp nước cứư dân”, nên vua Đinh Tiên Hoàng sắc phong hiệu Ngài là “Khuông Việt Thái Sư” nghĩa là một vị Quốc sư phò giúp nước Việt (xem Phật học phổ thông khoá 5, trang 40 đến 42).

Miền Khuông Việt cũng ở vùng II, thuộc miền Cao Nguyên Trung phần, gồm có 7 Tỉnh và Thị xã như sau:

- Tỉnh Lâm đồng 

- Tỉnh Tuyên Đức (Thị xã Đà lạt)

- Tỉnh Quảng Đức 

- Tỉnh Darlac (Thị xã Ban Mê Thuột)

- Tỉnh Pleiku 

- Tỉnh Kontum

- Tỉnh Phú Bổn

4 - MIỀN KHÁNH HOÀ

Miền Khánh Hoà lấy tên Ngài Khánh Hoà đặt tên miền. Ngài Khánh Hoà ở tỉnh Bến Tre, người đầu tiên đứng lên vận động phong trào chấn hưng Phật GiáoViệt Nam nói chung và miền Nam nói riêng (xem quyển 50 chấn hưng Phật Giáo Việt Nam 34).

Miền Khánh Hoà ở vùng III, thuộc miền Đông Nam Phần, gồm có 11 tỉnh và thị xã như sau:

- Tỉnh Tây Ninh 

- Tỉnh Hậu Nghĩa

- Tỉnh Bình Dương 

- Tỉnh Bình Long

- Tỉnh Phước Long 

- Tỉnh Biên Hoà

- Tỉnh Long Khánh 

- Tỉnh Bình Tuy

- Tỉnh Phước Tuy 

- Tỉnh Gia Định

- Tỉnh xã Vũng Tàu

5 - MIỀN HUỆ QUANG

Miền Huệ Quang, lấy tên Ngài Huệ Quang đặt tên miền. Ngài Huệ Quang là người đóng góp rất nhiều trong phong trào chấn hưng Phật Giáo ở miền Nam. Ngài là vị Pháp chủ Giáo hội Tăng Già Nam Việt Niên khoá thứ II vào năm 1953, và Phó Hội Chủ Tổng hội Phật Giáo Việt Nam vào năm 1956 (xem quyển 50 chấn hưng Phật Giáo, từ trang 40 đến 43).

Miền Huệ Quang ở Vùng IV, thuộc miền Tây Nam phần về sông Tiền Giang (sông Mê Kông), gồm có 10 Tỉnh và Thị Xã như sau:

- Tỉnh Long An 

- Tỉnh Định Tường (Thị Xã Mỹ Tho)

- Tỉnh Gò Công 

- Tỉnh Kiến Hoà (Thị xã Bến Tre)

- Tỉnh Vĩnh Bình 

- Tỉnh Vĩnh Long

- Tỉnh Sa Đéc 

- Tỉnh Kiến Phong

- Tỉnh Kiến Tường 

- Tỉnh Côn Sơn 

6 - MIỀN KHÁNH ANH

Miền Khánh Anh lấy tên Ngài Khánh Anh đặt tên miền. Ngài Khánh Anh là người đóng góp rất nhiều trong phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Miền Nam, Ngài là vị Thượng thủ Giáo hội Tăng Già toàn quốc Niên khoá thứ II năm 1959, và Pháp chủ Giáo Hội Tăng già Nam Việt, năm 1957 (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, từ trang 40 đến 43).

Miền Khánh Anh cũng ở vùng IV, thuộc miền Tây Nam phần về sông Hậu Giang (sông Bá Sắc), gồm có 8 Tỉnh và Thị Xã như sau:

- Tỉnh Châu đốc 

- Tỉnh An Giang

- Tỉnh Phong Dinh (TX. Cần Thơ) 

- Tỉnh Ba Xuyên

- Tỉnh Bạc Liêu 

- Tỉnh Kiên Giang

- Tỉnh Chương Thiện 

- Tỉnh An Xuyên 

7 - MIỀN QUẢNG ĐỨC

Miền Quảng Đức lấy tên Hoà Thượng Quảng Đức đặt tên miền. Hòa thượng Quảng Đức là người đầu tiên tự thiêu vào ngày 11.6.1963 tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt (Sài gòn), để cứu nguy dân tộc và đạo pháp.

Miền Quảng Đức gồm có 11 quận Đô Thành. 

8 - MIỀN VĨNH NGHIÊM

Miền Vĩnh Nghiêm, lấy tên Ngài Vĩnh Nghiêm đặt tên miền, Ngài Vĩnh Nghiêm là một vị Cao tăng ở miền Bắc tài đức kiêm toàn, có uy tín nhứt ở miền Bắc. Ngài là pháp chủ đầu tiên của Hội Phật Giáo Bắc Việt.

Phật Giáo Việt Nam đã thống nhất toàn quốc từ năm 1951, dưới danh hiệu là “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” (xem quyển 50 năm chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, trang 82). Nhưng vì chiến tranh chia đôi đất nước, nên địa dư Việt Nam, Phật Giáo cũng bị chia cách Bắc Nam không liên lạc được.

Sau pháp nạn năm 1963, toàn thể Tăng tín đồ gồm cả hai tông phái lớn (Bắc tôngnam tông) ở miền Nam nước Việt, hợp Đại hội tại chùa Xá Lợi (trụ sở của Uỷ Ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo) vào hai ngày 30.12.1963 và 01.1.1964 để thật sự thống nhất.

Đại hội đồng ý: Để tưởng Niệm những Bậc hữu công với Phật Giáo miền Bắc, nên lập thêm miền thứ 8 gọi là “Miền Vĩnh Nghiêm” vì thế nên miền Vĩnh Nghiêm không có địa dư ở miền Nam. Đây là quyết định của Ban dự thảo Hiến chương và cũng là quyết định chung của Đại hội đầu tiên của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất vào năm 1963, tại chùa Xá Lợi.

Hiện nay chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Cầu công Lý - Sài gòn, được đặt là “Miền Vĩnh Nghiêm” và có một Ban Đại diện.

Theo Hiến Chương và điều thứ 27, khi đại hội toàn quốc, mỗi Miền chỉ có một Đại diện, duy có miền Vĩnh Nghiêm được cử 10 vị đại diện.

II - TỈNH, THỊ XÃ VÀ QUẬN

Tại địa phương mỗi thị xã (biệt lập hành chánh) và 11quận tại Đô Thành đều có một Ban Đại diện giáo hội trực thuộc sự điều khiển của Viện Hoá Đạo (xem Hiến Chương điều thứ 20).

Các Quận thuộc các Tỉnh chỉ một vị đại diện để đôn đốckiểm tra Phật sự tại quận, do Viện Hóa Đạo bổ nhiệm. Nếu Tỉnh Giáo hội nào xét cần lập Ban đại diện quận thì trình Viện Hóa Đạo ra quyết định thành lập; nhưng Ban đại diện này trực thuộc với Ban đại diện Tỉnh đó (xem Hiến chương điều thứ 21).

Ban đại diện Tỉnh, Thị xã và Quận, gồm có:

1 Chánh Đại diện

1 Phó Đại diện

1 Đặc uỷ Tăng sự và nghi lễ

1 Đặc uỷ Hoằng pháp

1 Đặc uỷ Văn hoá giáo dục

1 Đặc uỷ xã hội

1 Đặc uỷ Tài chánh

1 Đặc uỷ Cư sĩ

1 Đặc uỷ Thanh Niên

1 Chánh thư ký

1 Phó thư ký

1 Chánh Thủ quỹ

1 Phó Thủ Quỹ

1 Ban Cố vấn

1 Ban Kiểm soát

III - XÃ VÀ PHƯỜNG

Giáo hội lấy xã (ở các tỉnh) và Phường (ở Thủ Đô) làm đơn vị. Tất cả các chùa Tăng Nicư sĩ thuộc Bắc tông Phật GiáoNam tông Phật Giáo Ban đại diện giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất tại các xã hay Phường. Trụ sở đặt tại một ngôi chùa hay một nơi nào thuận tiện (xem hiến chương điều thứ 22)

BAN ĐẠI DIỆN XÃ HAY PHƯỜNG GỒM CÓ

1 Chánh Đại diện

1 Phó Đại diện

1Thư ký

1 Phó thư ký

1 Thủ quỷ

1 Phó Thủ Quỹ

4 Cố vấn kiểm soát

C - HẢI NGOẠI 

CHI BỘ PHẬT GIÁO HẢI NGOẠI

Ở Hải ngoại, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đã đặt được 11 Chi bộ Phật Giáo, đều trực thuộc với Viện Hoá Đạo.

1. Phân Bộ Giáo hội PGVNTN ở Pháp

2. Chi Bộ Giáo PGVNTN ở Đức

3. nt ở Nhật

4. nt ở Ấn Độ

5. nt ở Anh

6. nt ở Mỹ

7. nt ở Thái Lan

8. nt ở Ai lào

9. nt ở Cao Miên

10. nt ở Thụy sĩ

11. nt ở Gia Nã Đại

Mỗi Phân Bộ và Chi bộ Phật Giáo đều có một Ban Chấp hành và điều lệ. Thành phần Ban chấp hành Trung Ương Phân Bộ Hải ngoại Giáo hội PGVNTN như sau (xem điều lệquyết định ở sau):

Trưởng Ban Danh dự

- 1 Trưởng Ban Chấp hành Phân bộ

- 1 Phó Trưởng Ban phụ trách Á Châu

- 1 Phó Trưởng ban phụ trách Nghi Lễ

- 1 Phó Trưởng phụ tổ chức

- 1 Tổng Thư Ký

- 1 Thủ quỹ

- 1 Uỷ viên Liên kết trí thức

- 1 Uỷ viên Thanh Niên và Báo chí

- 1Uỷ viên liên lạc sinh viên tốt nghiệp

- 1 Uỷ viên tổ chức học tập giáo lýnghi lễ

- 1 Uỷ viên phụ trách Hoa kỳ

- 1 Uỷ viên phụ trách Gia Nã Đại

 (Hết phần thứ nhất)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34341)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16871)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22969)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13051)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21964)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22186)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14865)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23576)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24103)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23639)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17143)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19357)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27063)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14423)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13842)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22689)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14741)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17357)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12669)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13865)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10410)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14698)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17199)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12547)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12699)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10357)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10699)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11134)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16879)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15766)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13341)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12553)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11359)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13028)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19309)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12249)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28605)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10047)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21521)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12790)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17825)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26230)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11706)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10851)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22747)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12037)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10604)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11410)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11526)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant