Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12024)
Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

SƠ BỘ NGHIÊN CỨU TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC

CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19


Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch


1. Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu, những sách này do người Hán soạn (như Nhất thiên tự, Tam tự kinh…) hay do chính người Việt biên trứ. Trong số những sách vỡ lòng được sử dụng phổ biến nhất trong trường học của các học giả Việt Nam, có “những cuốn từ điển mang tính văn hóa” [Nguyễn Đình Hòa 1987] như Nhất thiên tự [NĐH 1963 & 1989], Tam thiên tự [Nguyễn 1973 & 1989], Ngũ thiên tự… Đây thường là những tác phẩm của các tác giả khuyết danh, là bảng kê chữ Hán và các từ tương đương trong tiếng Việt, được trình bày bằng thơ, có thể là sử dụng lục bát hay tứ ngôn, các thể thơ này tồn tại với tư cách là phương thức học thuộc lòng và giúp nhớ chữ.

 Vua Tự Đức (1829 - 1883) triều Nguyễn (1802 - 1945), người đã trị vì từ năm 1847 đến năm 1883, nổi tiếng với tư cách của một nhà Nho uyên bác, ông viết cuốn từ điển Hán Việt bằng thể thơ lục bát: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Bài viết cố gắng phân tích chi tiết cuốn từ điển song ngữ này thông qua việc giới thiệu những nét đại quan về cấu trúc của chữ Nôm và thảo luận xem chữ Nôm ghi âm tiếng Việt thời đó như thế nào và các phương thức vay mượn đã ảnh hưởng đến việc dạy tiếng ra sao ở một đất nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán trong suốt giai đoạn dài như vậy.

 2.Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca được khắc in năm 1898, nhưng cũng giống như các tư liệu khác, văn bản này đã được chuyển khỏi Hà Nội vào năm 1954 và lưu trữ tại chi nhánh Đà Lạt, Thư viện Quốc gia Nam Việt. Hai thập kỷ sau, hai bản in mới của cuốn tự điển này đã được xuất bản, hai bản này đều được biên tu và phiên âm toàn bộ sang quốc ngữ, một bản của giáo sư Trần Kinh Hòa (Hồng Kông 1971) và một bản của Phương Thủ Nguyễn Hữu Quỳ (Sài Gòn 1971).

 Trần Kinh Hòa, giáo sư thỉnh giảng môn lịch sử tại đại học Huế từ năm 1958 đến năm 1962, chủ nhiệm Quỹ dịch thuật các tư liệu lịch sử triều Nguyễn, đã phiên âm toàn bộ văn bản này trong cuốn Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú (Đại học Hồng Kông 1971). Bản sau do Nguyễn Hữu Quỳ thực hiện, xuất bản dưới sự tài trợ của Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa; bản này chỉ cung cấp bản phiên Nôm phần đầu của quyển 2 Kham dư cùng với nguyên bản của năm quyển đầu, tức là chỉ có Kham dư và ba phần của Nhân sự. Mặc dù những chú thích giá trị của Nguyễn Hữu Quỳ đã đưa ra một số từ ghép dưới mỗi một tự mục Hán, nhưng những phân tích trong bài viết này chỉ dựa trên văn bản phiên âm của Trần Kinh Hòa [177-392] và phần phụ chú [393-404].

 3. Vua Tự Đức (tên là Hồng Nhậm, miếu hiệu là Dực Tông) là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị (miếu hiệu là Hiến Tông, trị vì từ năm 1840-1847). Trong khi hoàng tử Hồng Bửu (anh trai ông) là một người ham vui thì Hồng Nhậm lại tỏ ra thông minh ham học, phụ hoàng đã trao ngôi báu cho ông khi ông mới mười tám tuổi. Trong suốt 36 năm dưới triều Tự Đức, quân Pháp đã chiếm đánh Đà Nẵng (1858), sau đó là ba tỉnh miền Đông (1862) và ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867) trước khi bắc tiến chiếm Hà Nội và thiết lập chính quyền bảo hộ trên toàn cõi An Nam (1884). Cũng giống như các tiền vương Minh Mạng (1820- 1840) và Thiệu Trị (1840-1847), những người đã để lại các thi văn tập cho đời sau, Tự Đức cũng được biết đến bởi kiến văn uyên áo cũng như sự phản đối quyết liệt đối với đạo Thiên Chúa. Đắm mình trong Khổng học, ông là tác giả của Việt sử tổng vịnh (1877) gồm mười cuốn thơ về lịch sử Việt Nam và tám thi tập khác. Nhưng không ở đâu, những quan tâm sâu sắc của ông đến giáo dục lại thể hiện rõ ràng như trong Luận ngữ thích nghĩa ca Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Tập sách sau được bộ Lễ trình lên vua Thành Thái (1889- 1907) vào năm 1896 và được khắc in sau đó (từ 1898) theo đúng như di nguyện của Tự Đức-người khởi xướng, tức là mười lăm năm sau khi ông băng hà.

 4. Như cuốn Nhất thiên tựNgũ thiên tự, cuốn tự điển này (mà văn bản do chính Tự Đức chọn) dùng thể lục bát (gồm chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và lời chua nghĩa bằng chữ Nôm được xếp liền kề nhau):

Thiên

=

trời

địa

=

đất

vị

=

ngôi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phú

=

che

tái

=

chở

lưu

=

trôi

mãn

=

đầy

 

 

 

滿

 

Cao

=

cao

bác

=

rộng

hậu

=

dày

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thần

=

mai

mộ

=

tối

chuyển

=

xây

di

=

dời

 

 

 

 

 tam_thien_tu 5. Theo từng liên, từ cuối cùng của câu sáu (ngôi) bắt vần với từ thứ sáu của câu tám dòng sau (trôi), rồi từ thứ tám - từ cuối của câu tám (đầy) lại bắt vần với từ cuối cùng – từ thứ sáu của liên tiếp theo (dầy), và đến lượt từ này bắt vần với từ thứ sáu của câu tám (xây). Thi luật thể thơ này quy định chỉ dùng thanh bằng, không dùng thanh trắc. Hơn nữa, với dòng thứ hai trong liên, nếu từ thứ sáu (trôi) là thanh ngang thì từ thứ tám (đầy) là thanh huyền [Huỳnh Sanh Thông 1979:xxxii-xxxiii; Nguyễn 1989]. Tuy nhiên, một số dòng trong cuốn từ điển này không tuân theo luật bằng trắc trên.

 Cấu trúc nội tại của các liên sáu tám đã tiềm ẩn sẵn trong dân ca, có lẽ thể thơ lục bát là sự thành công từ những phép lặp bất tận của các liên sáu tám này, như thơ Nôm (Truyện Kiều) chẳng hạn hay như các cuốn từ điển như Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự… và cả cuốn từ điển ngự chế này.

 6. Phần đầu của cuốn sách ghi lời tưởng nhớ của bộ Lễ và Quốc sử quán. Tác phẩm được soạn theo bảy mục; 1.Kham dư 堪輿 cuốn 1-2; 2.堪輿 cuốn 1-2; 2.Nhân sự 人事 cuốn 3-5; 3.人事 cuốn 3-5; 3.Chính hóa 政化 cuốn 6-7; 4.政化 cuốn 6-7; 4.Khí dụng 器用 cuốn 8-9; 5.器用cuốn 8-9; 5.Thảo mộc 草木 cu?n 10-11; 6.草木cuốn 10-11; 6.Cầm thú 禽獸cuốn 12; 7.Trùng ngư 蟲 魚cuốn 13. Mỗi trang chia năm cột, đọc từ phải sang trái. Mỗi cột có từ ba đến bảy chữ Hán (tính theo ngôn ngữ nguồn). Mỗi chữ Hán khắc to đều có chữ Nôm (khắc nhỏ hơn) liền ngay dưới mé phải. Có thể có một số chú thích (khắc nhỏ nhất) liền ngay sau để chua nghĩa cho những chữ Hán khó, âm đọc của những chữ này thường được chú bằng một từ đồng/gần âm hoặc bằng hai từ theo phép phiên thiết.

 7. Trong cả Tam thiên tự Ngũ thiên tự, câu lục có ba chữ Hán, câu bát có bốn chữ Hán; ví dụ trên cũng như vậy, dòng đầu giới thiệu ba chữ thiên, địa, vị, dòng dưới là bốn chữ phú, tái, lưu, mãn và trọng âm rơi vào các âm tiết chẵn hai, bốn, sáu, tám. Tuy nhiên, các dòng thơ không phải lúc nào cũng được cấu trúc theo lối như vậy: có năm trường hợp câu sáu trong cuốn sách chỉ có hai chữ Hán, vì cả trước và sau chỗ ngắt giọng có cụm ba âm tiết, trong đó từ Nguyệt (hữu trọng) được chua bằng từ song tiết Mặt trăngnhật- mặt trời. Tương tự như vậy, dòng bảy gồm hai vế đối nhau được chia đều bằng nhịp ngắt giọng ở giữa: sócmồng một, vọng ngày rằm 朔蒙没,望勜斚. Dòng mười cũng theo luật ấy, chỗ ngắt giọng chia câu thành hai vế tiểu đối bốn âm tiết bằng nhau: ngũ giờ chính ngọ, giờ quá trưa 日午, Nhiều dòng chỉ có giải một chữ, như: muội khi ban sáng lờ lờ ; hay như: dâm là mưa quá mười ngày chửa thôi 氵蕌; hay như: lâmlà mưa tự ba ngày trở lên 羅氵蕌自. Một điểm mạnh của cuốn từ điển này là “tác giả của nó đã gia công sử dụng một lượng lớn tính từ và trạng từ để định nghĩa danh từ và động từ, điều này hết sức hữu ích đối với những người học chữ Hán”. [ Nguyễn Hữu Quỳ 1971:6]. Thực tế, một số tự mục đòi hỏi không chỉ có từ tương đương trong ngữ đích mà còn yêu cầu những định nghĩa dài dòng giới hạn trong thể sáu tám. Người đọc tưởng như đang nghe thầy giáo giảng bài với những định nghĩa súc tích về các từ Hán Việt (đơn tiết, song tiết). Điều này rất thích hợp với phương pháp học thuộc lòng được sử dụng trong các lớp học xưa ở Việt Nam, nơi mà một trường tư thục do một số cá nhân (thầy đồ) trong làng thành lập để khai tâm cho con trẻ.

 8. Cho đến tự biểu Hán Việt được chú ý, cuốn từ điển chuyên đề này đã giới thiệu trên dưới chín ngàn tự mục, hầu hết là các từ đơn tiết, một số là “các từ kép”, ví như từ đa tiết kết hợp giữa danh từ và động từ. Đáng chú ý là các tự mục sau: long đồng 曨曈 được định nghĩa là mặt nhật độ gần sáng ra [Ch’en 183], cv đồng lông trong Thiều Chửu [1942:276,277]. Long đồng 朧月童- trăng mới lờ mờ rạng đông [Ch’en 185]. Hàng giới 沆瀣-khí mù nửa đêm [Ch’en 184]; cv hãng dới trong Thiều Chửu [1942:335]. Tích lịch  - tiếng gió [Ch’en 184]. Long tòng - khí mây [Ch’en 184]. Biệt biệt - mặt nhật chen chen lần vào [Ch’en 184]. Phái phái - mưa lớn [Ch’en 184] cv bái bái trong Thiều Chửu [1942:750]. Châu trương 目壽目長- mắt máy [Ch’en 217]. Liêu yếu - tai bùng [Ch’en 217]. Sảo sảo 身少身少 - dáng dài mình [Ch’en 217]; phản noản - dáng mặt nhăn [Ch’en 217]; ảo xảo - mặt méo [Ch’en 217]; huyền vân - mắt lòa [Ch’en 217]; bát thích  – cái áo tơi[Ch’en 310]; thu thiên  – đu rút [Ch’en 310]; lan lao liên lũ 口連- nói bàn líu lo[Ch’en 232].

 Với tư cách là một cuốn tự điển chuyên đề hoặc tự biểu, cuốn sách này đã cung cấp một lượng lớn vốn từ vựng về bộ phận cơ thể (tóc, răng, tai…), thực phẩm, đồ gia dụng [Ch’en 250], nhân luân, bệnh tật, trên ba mươi loại thuyền [Ch’en 295], xe cộ [298], vật phẩm, khí dụng [313-315], … Chỉ có một số hư từ (công cụ từ) được tìm thấy trong đó: ví dụ hai dòng dưới đây giới thiệu bảy từ Hán cổ: giảấy vậy vay, hồ ôi chỉ vậyta nàyý kia (,).

 9. Các từ tương ứng ở ngữ đích có khi không được kê ra trong cuốn sách, mà thay vào đó một câu giải thích đặt sau hệ từ “là” trong một câu định nghĩa theo phương trình X = Y, như: chí lễ vật cầm tay[Ch’en 283]; giao  là đắp đàn tế trời[283]; lữ   là lễ tế sơn xuyên [283], vu  là lễ tế cầu mưa[283]. Liên từ “rằng ” cũng được dùng để định nghĩa: sao rằng ngọn tóckiến 月建 rằng đầu gân[217]. Cả “là” và “rằng” được dùng trong một câu: độn là đi trốn, nô rằng ở thuê[275]. Quan hệ từ “mà ” cũng được dùng trong những câu định nghĩa diễn giải khi nó nối hai động từ với nhau: như trong: thụy ngồi mà ngủ, lưu nằm mà trông[223]. Đôi khi dùng so sánh như dòng mô tả sau: thục 木兄 hình như thể cái thùng[297]. Một số ít trường hợp, câu bát lại có chín từ, do các âm vô quy tắc, ví dụ: mạt 食末 là đuôi ngựa, bộc người hầu ngựa xe[287].

 10. Cuốn từ điển song ngữ này còn hơn cả một bảng từ, nó còn cung cấp các tự vị của tiếng Việt thế kỷ 19 và tự dạng Nôm của chúng. Một ví dụ là chữ buông lung 木奔籠 được dùng để dịch từ Hán dịch đảng (là kẻ buông lung khác người). Hay như từ nốc (thuyền nhỏ) [295] và xấp xỏa [297] mà âm hiện nay là chập chõa/chập cheng. Hai bản in thường đưa ra âm phiên (âm Hán Việt và âm Nôm) và tự dạng Nôm khác nhau, ví dụ như: 朒羅嶎朔斏筃, 月羅嶎晦斏群渉西, có hai bản quốc ngữ khác nhau: nục là bữa sóc trăng non, thiếu là bữa hối trăng còn mái tây [Ch’en 182] và Nọc đêm sóc trăng non; chiếu đêm hối, trăng còn mái tây [Nguyễn Hữu Quỳ 87].

 11. Chữ Nôm dùng để ghi từ “ruộng” và “well” cung cấp một cứ liệu thú vị về sự phát triển loại văn tự bình dân này: từ dùng để ghi từ ruộng, còn được tìm thấy trong Bảng tra chữ Nôm [1976] nhưng không thấy trong Tự điển chữ Nôm [1971], dường như phản ánh ngữ âm Trung Bộ xưa gần với âm lộng , trong khi tự dạng khác phản ánh âm / uô / của miền Bắc, âm này gần với âm / wa / của từ quảng (phần thanh phù của chữ Nôm này) hơn.

 12. Ch’en [1971:17] cho rằng: tự biểu này hay hơn Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự- những tác phẩm mà vua Tự Đức dựa vào đó để ngự chế tác phẩm này. Chúng ta cũng nhất trí với ông rằng: giống như hai tự biểu của tác giả khuyết danh trên - và cũng như Tam thiên tự mà Ngô Thì Nhậm (1786-1803) được coi là tác giả của nó, cuốn từ điển Hán Việt của vị vua của triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam này xứng đáng có thể được đặt cạnh nhau với tư cách là các tài liệu tra cứu tham khảo hữu dụng. Nó có thể được coi là “cuốn từ điển quan phương của triều Nguyễn xưa”, và chỉ ra hệ thống âm chuẩn của giáo dục thời bấy giờ [17]. Thực tế, đây còn là “cứ liệu chứng tỏ ước muốn của nhà vua và Nho sĩ nhằm dựng lại âm đọc truyền thống” , một mặt là để quy phạm hóa ngữ âm lưu hành trong giới quý tộc của đất thần kinh vào thế kỷ 19 [17]. Hơn nữa, những phân tích trên có thể phát lộ ra những yếu tố từ vựng và ngữ âm thú vị của tiếng Việt vào thời điểm đầu của giai đoạn thực dân.

NĐH.1995

TTD dịch

(Dịch từ nguyên bản tiếng Anh A Preliminary Study of TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC- a 19th-Century Chinese-Vietnamese Dictionary của Gs.Nguyễn Đình Hòa đăng tải trên Mon-Khmer Study 26:207-216.www.sealang.net/mks/copyright.htm)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ch’en Ching Ho, ed. Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú, Original Text and Transcription in chữ Quốc ngữ with Introduction and Annotation. Hongkong, The Chinese university of Hongkong, 1971.

Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt Từ Điển, Minh Tân, Paris, 1950 (Tái bản).

Huỳnh Sanh Thông, The Heritage of Vietnamese Poetry, New Haven, CT: Yale University Press, 1979.

Nguyễn Đình Hòa, Nhất thiên tự, Văn hóa nguyệt san 12.10. 1665-1678, 1963.

Nguyễn Đình Hòa. On “Cultural” Dictionaries in Vietnamese. Lexicographica.3, 1987, tr. 142-157.

Nguyễn Đình Hòa. 1989a. The Book of One Thousand Characters (Tam thien Tu). Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa. 1989b. The Book of Three Thousand Characters (Tam thien Tu) by Ngô Thì Nhậm. Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa, Graphemic Borrowing from Chinese: the Case of Chữ Nôm- Vietnamese’s Demotic Script. The Bulletin of the Institute of History and Philology. Academia Sinica. Vol.LXI, Part II. Taipei, Taiwan, China, 61: 383-432. 1990.

Nguyễn Đình Hòa, An 18th –Century Chinese-Vietnamese Dictionary: the Book of Three Thousand Characters. Paper given at the 183rd Annual Meeting of the Americal Oriental Society,1973.

Nguyễn Hữu Quỳ, Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, tập I, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách văn hóa, Saigon, 1971.

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm [Tự Đức], Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, Huế, Quốc sử quán, 1898.

Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính, Tự điển chữ Nôm, Trung tâm học liệu, Saigon, 1971.

Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Đuốc Tuệ, Hanoi, 1942 [tb: Khai Trí, Saigon, 1960].

Thompson, Laurence C. 1965. A Vietnamese Grammar. Seattle: University of Washington Press [Reprint Edition as A Vietnamese Reference Grammar (ed.Stephen O’Harrow), Honolulu: University of Hawaii Press, 1987.]

Viện ngôn ngữ học, Bảng tra chữ Nôm, , Khoa học Xã hội, Hanoi, 1976.

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Tám 201608:01
Khách
Xin lỗi, ông Trần Kinh Hòa là người Đài Loan.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9553)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9253)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31252)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20709)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 23110)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17717)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11632)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21380)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8758)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22165)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13313)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38482)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13400)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24297)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14944)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24619)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10171)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17618)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22726)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22650)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7513)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 14068)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 27050)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26793)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19857)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20816)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21373)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13211)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13341)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29830)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13883)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13932)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32436)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 24043)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29767)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31542)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34175)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18430)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19489)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32811)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18706)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30822)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16132)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26759)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32602)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39358)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40454)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19290)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19283)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
(Xem: 17097)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant