Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12004)
Sơ Bộ Nghiên Cứu Tự Đức Thánh Chế Tự Học

SƠ BỘ NGHIÊN CỨU TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC

CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19


Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch


1. Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu, những sách này do người Hán soạn (như Nhất thiên tự, Tam tự kinh…) hay do chính người Việt biên trứ. Trong số những sách vỡ lòng được sử dụng phổ biến nhất trong trường học của các học giả Việt Nam, có “những cuốn từ điển mang tính văn hóa” [Nguyễn Đình Hòa 1987] như Nhất thiên tự [NĐH 1963 & 1989], Tam thiên tự [Nguyễn 1973 & 1989], Ngũ thiên tự… Đây thường là những tác phẩm của các tác giả khuyết danh, là bảng kê chữ Hán và các từ tương đương trong tiếng Việt, được trình bày bằng thơ, có thể là sử dụng lục bát hay tứ ngôn, các thể thơ này tồn tại với tư cách là phương thức học thuộc lòng và giúp nhớ chữ.

 Vua Tự Đức (1829 - 1883) triều Nguyễn (1802 - 1945), người đã trị vì từ năm 1847 đến năm 1883, nổi tiếng với tư cách của một nhà Nho uyên bác, ông viết cuốn từ điển Hán Việt bằng thể thơ lục bát: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Bài viết cố gắng phân tích chi tiết cuốn từ điển song ngữ này thông qua việc giới thiệu những nét đại quan về cấu trúc của chữ Nôm và thảo luận xem chữ Nôm ghi âm tiếng Việt thời đó như thế nào và các phương thức vay mượn đã ảnh hưởng đến việc dạy tiếng ra sao ở một đất nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán trong suốt giai đoạn dài như vậy.

 2.Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca được khắc in năm 1898, nhưng cũng giống như các tư liệu khác, văn bản này đã được chuyển khỏi Hà Nội vào năm 1954 và lưu trữ tại chi nhánh Đà Lạt, Thư viện Quốc gia Nam Việt. Hai thập kỷ sau, hai bản in mới của cuốn tự điển này đã được xuất bản, hai bản này đều được biên tu và phiên âm toàn bộ sang quốc ngữ, một bản của giáo sư Trần Kinh Hòa (Hồng Kông 1971) và một bản của Phương Thủ Nguyễn Hữu Quỳ (Sài Gòn 1971).

 Trần Kinh Hòa, giáo sư thỉnh giảng môn lịch sử tại đại học Huế từ năm 1958 đến năm 1962, chủ nhiệm Quỹ dịch thuật các tư liệu lịch sử triều Nguyễn, đã phiên âm toàn bộ văn bản này trong cuốn Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú (Đại học Hồng Kông 1971). Bản sau do Nguyễn Hữu Quỳ thực hiện, xuất bản dưới sự tài trợ của Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa; bản này chỉ cung cấp bản phiên Nôm phần đầu của quyển 2 Kham dư cùng với nguyên bản của năm quyển đầu, tức là chỉ có Kham dư và ba phần của Nhân sự. Mặc dù những chú thích giá trị của Nguyễn Hữu Quỳ đã đưa ra một số từ ghép dưới mỗi một tự mục Hán, nhưng những phân tích trong bài viết này chỉ dựa trên văn bản phiên âm của Trần Kinh Hòa [177-392] và phần phụ chú [393-404].

 3. Vua Tự Đức (tên là Hồng Nhậm, miếu hiệu là Dực Tông) là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị (miếu hiệu là Hiến Tông, trị vì từ năm 1840-1847). Trong khi hoàng tử Hồng Bửu (anh trai ông) là một người ham vui thì Hồng Nhậm lại tỏ ra thông minh ham học, phụ hoàng đã trao ngôi báu cho ông khi ông mới mười tám tuổi. Trong suốt 36 năm dưới triều Tự Đức, quân Pháp đã chiếm đánh Đà Nẵng (1858), sau đó là ba tỉnh miền Đông (1862) và ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867) trước khi bắc tiến chiếm Hà Nội và thiết lập chính quyền bảo hộ trên toàn cõi An Nam (1884). Cũng giống như các tiền vương Minh Mạng (1820- 1840) và Thiệu Trị (1840-1847), những người đã để lại các thi văn tập cho đời sau, Tự Đức cũng được biết đến bởi kiến văn uyên áo cũng như sự phản đối quyết liệt đối với đạo Thiên Chúa. Đắm mình trong Khổng học, ông là tác giả của Việt sử tổng vịnh (1877) gồm mười cuốn thơ về lịch sử Việt Nam và tám thi tập khác. Nhưng không ở đâu, những quan tâm sâu sắc của ông đến giáo dục lại thể hiện rõ ràng như trong Luận ngữ thích nghĩa ca Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Tập sách sau được bộ Lễ trình lên vua Thành Thái (1889- 1907) vào năm 1896 và được khắc in sau đó (từ 1898) theo đúng như di nguyện của Tự Đức-người khởi xướng, tức là mười lăm năm sau khi ông băng hà.

 4. Như cuốn Nhất thiên tựNgũ thiên tự, cuốn tự điển này (mà văn bản do chính Tự Đức chọn) dùng thể lục bát (gồm chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và lời chua nghĩa bằng chữ Nôm được xếp liền kề nhau):

Thiên

=

trời

địa

=

đất

vị

=

ngôi

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phú

=

che

tái

=

chở

lưu

=

trôi

mãn

=

đầy

 

 

 

滿

 

Cao

=

cao

bác

=

rộng

hậu

=

dày

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thần

=

mai

mộ

=

tối

chuyển

=

xây

di

=

dời

 

 

 

 

 tam_thien_tu 5. Theo từng liên, từ cuối cùng của câu sáu (ngôi) bắt vần với từ thứ sáu của câu tám dòng sau (trôi), rồi từ thứ tám - từ cuối của câu tám (đầy) lại bắt vần với từ cuối cùng – từ thứ sáu của liên tiếp theo (dầy), và đến lượt từ này bắt vần với từ thứ sáu của câu tám (xây). Thi luật thể thơ này quy định chỉ dùng thanh bằng, không dùng thanh trắc. Hơn nữa, với dòng thứ hai trong liên, nếu từ thứ sáu (trôi) là thanh ngang thì từ thứ tám (đầy) là thanh huyền [Huỳnh Sanh Thông 1979:xxxii-xxxiii; Nguyễn 1989]. Tuy nhiên, một số dòng trong cuốn từ điển này không tuân theo luật bằng trắc trên.

 Cấu trúc nội tại của các liên sáu tám đã tiềm ẩn sẵn trong dân ca, có lẽ thể thơ lục bát là sự thành công từ những phép lặp bất tận của các liên sáu tám này, như thơ Nôm (Truyện Kiều) chẳng hạn hay như các cuốn từ điển như Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự… và cả cuốn từ điển ngự chế này.

 6. Phần đầu của cuốn sách ghi lời tưởng nhớ của bộ Lễ và Quốc sử quán. Tác phẩm được soạn theo bảy mục; 1.Kham dư 堪輿 cuốn 1-2; 2.堪輿 cuốn 1-2; 2.Nhân sự 人事 cuốn 3-5; 3.人事 cuốn 3-5; 3.Chính hóa 政化 cuốn 6-7; 4.政化 cuốn 6-7; 4.Khí dụng 器用 cuốn 8-9; 5.器用cuốn 8-9; 5.Thảo mộc 草木 cu?n 10-11; 6.草木cuốn 10-11; 6.Cầm thú 禽獸cuốn 12; 7.Trùng ngư 蟲 魚cuốn 13. Mỗi trang chia năm cột, đọc từ phải sang trái. Mỗi cột có từ ba đến bảy chữ Hán (tính theo ngôn ngữ nguồn). Mỗi chữ Hán khắc to đều có chữ Nôm (khắc nhỏ hơn) liền ngay dưới mé phải. Có thể có một số chú thích (khắc nhỏ nhất) liền ngay sau để chua nghĩa cho những chữ Hán khó, âm đọc của những chữ này thường được chú bằng một từ đồng/gần âm hoặc bằng hai từ theo phép phiên thiết.

 7. Trong cả Tam thiên tự Ngũ thiên tự, câu lục có ba chữ Hán, câu bát có bốn chữ Hán; ví dụ trên cũng như vậy, dòng đầu giới thiệu ba chữ thiên, địa, vị, dòng dưới là bốn chữ phú, tái, lưu, mãn và trọng âm rơi vào các âm tiết chẵn hai, bốn, sáu, tám. Tuy nhiên, các dòng thơ không phải lúc nào cũng được cấu trúc theo lối như vậy: có năm trường hợp câu sáu trong cuốn sách chỉ có hai chữ Hán, vì cả trước và sau chỗ ngắt giọng có cụm ba âm tiết, trong đó từ Nguyệt (hữu trọng) được chua bằng từ song tiết Mặt trăngnhật- mặt trời. Tương tự như vậy, dòng bảy gồm hai vế đối nhau được chia đều bằng nhịp ngắt giọng ở giữa: sócmồng một, vọng ngày rằm 朔蒙没,望勜斚. Dòng mười cũng theo luật ấy, chỗ ngắt giọng chia câu thành hai vế tiểu đối bốn âm tiết bằng nhau: ngũ giờ chính ngọ, giờ quá trưa 日午, Nhiều dòng chỉ có giải một chữ, như: muội khi ban sáng lờ lờ ; hay như: dâm là mưa quá mười ngày chửa thôi 氵蕌; hay như: lâmlà mưa tự ba ngày trở lên 羅氵蕌自. Một điểm mạnh của cuốn từ điển này là “tác giả của nó đã gia công sử dụng một lượng lớn tính từ và trạng từ để định nghĩa danh từ và động từ, điều này hết sức hữu ích đối với những người học chữ Hán”. [ Nguyễn Hữu Quỳ 1971:6]. Thực tế, một số tự mục đòi hỏi không chỉ có từ tương đương trong ngữ đích mà còn yêu cầu những định nghĩa dài dòng giới hạn trong thể sáu tám. Người đọc tưởng như đang nghe thầy giáo giảng bài với những định nghĩa súc tích về các từ Hán Việt (đơn tiết, song tiết). Điều này rất thích hợp với phương pháp học thuộc lòng được sử dụng trong các lớp học xưa ở Việt Nam, nơi mà một trường tư thục do một số cá nhân (thầy đồ) trong làng thành lập để khai tâm cho con trẻ.

 8. Cho đến tự biểu Hán Việt được chú ý, cuốn từ điển chuyên đề này đã giới thiệu trên dưới chín ngàn tự mục, hầu hết là các từ đơn tiết, một số là “các từ kép”, ví như từ đa tiết kết hợp giữa danh từ và động từ. Đáng chú ý là các tự mục sau: long đồng 曨曈 được định nghĩa là mặt nhật độ gần sáng ra [Ch’en 183], cv đồng lông trong Thiều Chửu [1942:276,277]. Long đồng 朧月童- trăng mới lờ mờ rạng đông [Ch’en 185]. Hàng giới 沆瀣-khí mù nửa đêm [Ch’en 184]; cv hãng dới trong Thiều Chửu [1942:335]. Tích lịch  - tiếng gió [Ch’en 184]. Long tòng - khí mây [Ch’en 184]. Biệt biệt - mặt nhật chen chen lần vào [Ch’en 184]. Phái phái - mưa lớn [Ch’en 184] cv bái bái trong Thiều Chửu [1942:750]. Châu trương 目壽目長- mắt máy [Ch’en 217]. Liêu yếu - tai bùng [Ch’en 217]. Sảo sảo 身少身少 - dáng dài mình [Ch’en 217]; phản noản - dáng mặt nhăn [Ch’en 217]; ảo xảo - mặt méo [Ch’en 217]; huyền vân - mắt lòa [Ch’en 217]; bát thích  – cái áo tơi[Ch’en 310]; thu thiên  – đu rút [Ch’en 310]; lan lao liên lũ 口連- nói bàn líu lo[Ch’en 232].

 Với tư cách là một cuốn tự điển chuyên đề hoặc tự biểu, cuốn sách này đã cung cấp một lượng lớn vốn từ vựng về bộ phận cơ thể (tóc, răng, tai…), thực phẩm, đồ gia dụng [Ch’en 250], nhân luân, bệnh tật, trên ba mươi loại thuyền [Ch’en 295], xe cộ [298], vật phẩm, khí dụng [313-315], … Chỉ có một số hư từ (công cụ từ) được tìm thấy trong đó: ví dụ hai dòng dưới đây giới thiệu bảy từ Hán cổ: giảấy vậy vay, hồ ôi chỉ vậyta nàyý kia (,).

 9. Các từ tương ứng ở ngữ đích có khi không được kê ra trong cuốn sách, mà thay vào đó một câu giải thích đặt sau hệ từ “là” trong một câu định nghĩa theo phương trình X = Y, như: chí lễ vật cầm tay[Ch’en 283]; giao  là đắp đàn tế trời[283]; lữ   là lễ tế sơn xuyên [283], vu  là lễ tế cầu mưa[283]. Liên từ “rằng ” cũng được dùng để định nghĩa: sao rằng ngọn tóckiến 月建 rằng đầu gân[217]. Cả “là” và “rằng” được dùng trong một câu: độn là đi trốn, nô rằng ở thuê[275]. Quan hệ từ “mà ” cũng được dùng trong những câu định nghĩa diễn giải khi nó nối hai động từ với nhau: như trong: thụy ngồi mà ngủ, lưu nằm mà trông[223]. Đôi khi dùng so sánh như dòng mô tả sau: thục 木兄 hình như thể cái thùng[297]. Một số ít trường hợp, câu bát lại có chín từ, do các âm vô quy tắc, ví dụ: mạt 食末 là đuôi ngựa, bộc người hầu ngựa xe[287].

 10. Cuốn từ điển song ngữ này còn hơn cả một bảng từ, nó còn cung cấp các tự vị của tiếng Việt thế kỷ 19 và tự dạng Nôm của chúng. Một ví dụ là chữ buông lung 木奔籠 được dùng để dịch từ Hán dịch đảng (là kẻ buông lung khác người). Hay như từ nốc (thuyền nhỏ) [295] và xấp xỏa [297] mà âm hiện nay là chập chõa/chập cheng. Hai bản in thường đưa ra âm phiên (âm Hán Việt và âm Nôm) và tự dạng Nôm khác nhau, ví dụ như: 朒羅嶎朔斏筃, 月羅嶎晦斏群渉西, có hai bản quốc ngữ khác nhau: nục là bữa sóc trăng non, thiếu là bữa hối trăng còn mái tây [Ch’en 182] và Nọc đêm sóc trăng non; chiếu đêm hối, trăng còn mái tây [Nguyễn Hữu Quỳ 87].

 11. Chữ Nôm dùng để ghi từ “ruộng” và “well” cung cấp một cứ liệu thú vị về sự phát triển loại văn tự bình dân này: từ dùng để ghi từ ruộng, còn được tìm thấy trong Bảng tra chữ Nôm [1976] nhưng không thấy trong Tự điển chữ Nôm [1971], dường như phản ánh ngữ âm Trung Bộ xưa gần với âm lộng , trong khi tự dạng khác phản ánh âm / uô / của miền Bắc, âm này gần với âm / wa / của từ quảng (phần thanh phù của chữ Nôm này) hơn.

 12. Ch’en [1971:17] cho rằng: tự biểu này hay hơn Nhất thiên tự, Ngũ thiên tự- những tác phẩm mà vua Tự Đức dựa vào đó để ngự chế tác phẩm này. Chúng ta cũng nhất trí với ông rằng: giống như hai tự biểu của tác giả khuyết danh trên - và cũng như Tam thiên tự mà Ngô Thì Nhậm (1786-1803) được coi là tác giả của nó, cuốn từ điển Hán Việt của vị vua của triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam này xứng đáng có thể được đặt cạnh nhau với tư cách là các tài liệu tra cứu tham khảo hữu dụng. Nó có thể được coi là “cuốn từ điển quan phương của triều Nguyễn xưa”, và chỉ ra hệ thống âm chuẩn của giáo dục thời bấy giờ [17]. Thực tế, đây còn là “cứ liệu chứng tỏ ước muốn của nhà vua và Nho sĩ nhằm dựng lại âm đọc truyền thống” , một mặt là để quy phạm hóa ngữ âm lưu hành trong giới quý tộc của đất thần kinh vào thế kỷ 19 [17]. Hơn nữa, những phân tích trên có thể phát lộ ra những yếu tố từ vựng và ngữ âm thú vị của tiếng Việt vào thời điểm đầu của giai đoạn thực dân.

NĐH.1995

TTD dịch

(Dịch từ nguyên bản tiếng Anh A Preliminary Study of TỰ ĐỨC THÁNH CHẾ TỰ HỌC- a 19th-Century Chinese-Vietnamese Dictionary của Gs.Nguyễn Đình Hòa đăng tải trên Mon-Khmer Study 26:207-216.www.sealang.net/mks/copyright.htm)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ch’en Ching Ho, ed. Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca dịch chú, Original Text and Transcription in chữ Quốc ngữ with Introduction and Annotation. Hongkong, The Chinese university of Hongkong, 1971.

Đào Duy Anh, Giản yếu Hán Việt Từ Điển, Minh Tân, Paris, 1950 (Tái bản).

Huỳnh Sanh Thông, The Heritage of Vietnamese Poetry, New Haven, CT: Yale University Press, 1979.

Nguyễn Đình Hòa, Nhất thiên tự, Văn hóa nguyệt san 12.10. 1665-1678, 1963.

Nguyễn Đình Hòa. On “Cultural” Dictionaries in Vietnamese. Lexicographica.3, 1987, tr. 142-157.

Nguyễn Đình Hòa. 1989a. The Book of One Thousand Characters (Tam thien Tu). Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa. 1989b. The Book of Three Thousand Characters (Tam thien Tu) by Ngô Thì Nhậm. Carbondale, IL: Asia Books.

Nguyễn Đình Hòa, Graphemic Borrowing from Chinese: the Case of Chữ Nôm- Vietnamese’s Demotic Script. The Bulletin of the Institute of History and Philology. Academia Sinica. Vol.LXI, Part II. Taipei, Taiwan, China, 61: 383-432. 1990.

Nguyễn Đình Hòa, An 18th –Century Chinese-Vietnamese Dictionary: the Book of Three Thousand Characters. Paper given at the 183rd Annual Meeting of the Americal Oriental Society,1973.

Nguyễn Hữu Quỳ, Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, tập I, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách văn hóa, Saigon, 1971.

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm [Tự Đức], Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca, Huế, Quốc sử quán, 1898.

Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính, Tự điển chữ Nôm, Trung tâm học liệu, Saigon, 1971.

Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Đuốc Tuệ, Hanoi, 1942 [tb: Khai Trí, Saigon, 1960].

Thompson, Laurence C. 1965. A Vietnamese Grammar. Seattle: University of Washington Press [Reprint Edition as A Vietnamese Reference Grammar (ed.Stephen O’Harrow), Honolulu: University of Hawaii Press, 1987.]

Viện ngôn ngữ học, Bảng tra chữ Nôm, , Khoa học Xã hội, Hanoi, 1976.

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Tám 201608:01
Khách
Xin lỗi, ông Trần Kinh Hòa là người Đài Loan.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38632)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21908)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 21992)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69774)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6871)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38710)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 43966)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44058)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42878)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44392)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23063)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39181)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21723)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42367)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35579)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46477)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30087)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30784)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26179)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20333)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25531)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18447)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17099)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40747)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21704)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25886)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41404)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24886)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23763)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15048)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19951)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37803)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19077)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17679)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23515)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36276)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40344)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19472)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21690)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46147)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28562)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26258)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33386)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24065)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24796)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54481)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 19824)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant