Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giấc Mộng Đình Mai

03 Tháng Hai 201400:00(Xem: 10881)
Giấc Mộng Đình Mai


Giấc Mộng Đình Mai


Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974 (đã đánh máy và quay ronéo), nhưng chưa kịp in thì BIẾN CỐ 30.4.1975 xảy ra. Thế là mọi thứ sách vở gì cũng phải xếp xó cất kĩ. Sau khi tôi vượt biên và được định cư tại Gia-nã-đại, hiền nội ở nhà đã phải chép tay lại, chia ra thành nhiều “bức thơ” (mỗi bức thơ hai, ba tờ giấy – kể cả bản thảo của các loại kinh sách khác, có đến mấy trăm bức thơ), gửi dần sang cho tôi; đến vài ba năm mới nhận được hết! Có lại tập bản thảo, tôi đọc lại một lượt, rồi vì đa đoan công việc mà nó lại bị chính tôi cho xếp xó một lần nữa hết hơn 14 năm! Đến cuối mùanăm ngoái (1995), nhân được chút thì giờ rảnh rỗi, tôi mới lôi nó ra đọc lại. Rồi không hiểu có hứng thú gì, tôi đem đánh máy, sửa chữa, bổ túc, với ý định sẽ cho in thành sách. Khi làm những công việc này, rất tiếc, tôi không có trong tay cuốn Mai Đình Mộng Ký do giáo sư Hoàng Xuân Hãn giới thiệu, trích dẫn, và giáo sư Nghiêm Toản chú thích (nhà xuất bản Trường Thi in lần thứ ba tại Sài-gòn). Đó là tài liệu căn bản mà tôi đã dùng để soạn thảo tập tiểu luận này năm 1974.

Đầu đông năm 1995, được sự trung gian và giúp đỡ của bạn Trương Tuệ (giám đốc nhà xuất bản An Tiêm ở Ba-lê), tôi có viết thư liên lạc với cụ Hoàng Xuân Hãn để xin một quyển Mai Đình Mộng Ký “của cụ” (nói trên), cùng với bản sao bản chữ Nôm của thi phẩm ấy, nhưng chờ rất lâu mà không được cụ trả lời. Cho đến khi công việc sửa chữa sắp hoàn tất, thì đùng một cái, tôi được tin Cụ qui tiên! Thật buồn! Dù tôi chưa từng được diễm phúc học với cụ, nhưng từ lâu rồi, tôi luôn luôn tôn kính Cụ là Thầy mình.

Thế rồi, tháng 6 năm nay, ông bạn giám đốc nhà An Tiêm đã bất ngờ gửi cho tôi một bản chụp cuốn Mai Đình Mộng Ký của hai giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toản (nhưng không phải là bản in lần thứ ba của nhà Trường Thi ở Sài-gòn, mà là bản in năm 1951 của nhà Sông Nhị ở Hà-nội). Đây quả là một sự ưu ái đặc biệt mà ông bạn đã dành cho tôi. Xin ghi khắc ân sâu của bạn! – Trong bức thư gửi cho tôi, ông bạn có viết một đoạn liên quan đến cụ Hãn như sau: “...... khi tôi trao thơ của bạn gửi cho cụ Hãn, xem thơ bạn cụ hài lòng lắm, và có nói với tôi là nếu cụ được xem bản Mai Đình do bạn làm, thích hợp, cụ đề nghị sẽ gộp hai bản in chung. Cụ hứa sẽ viết thơ cho bạn, nhưng tôi nghĩ, không phải cụ đã lơ là, mà với tuổi già trên 80, để cái gì quên cái nấy, thì việc thơ từ chắc là khó mà làm bình thường được, may ra chỉ gặp trực tiếp mà thôi......” Đó là nhắc lại chuyện cũ hồi năm ngoái, còn bây giờ thì... đâu còn cơ hội nào nữa để được trực tiếp hầu chuyện với cụ!

Có được bản này rồi, tôi mới hoàn toàn yên tâm về công việc mà tôi đang sắp hoàn tất ở đây. Nhờ bản này, tôi đã kiểm soát lại phần chú thích những từ ngữ và điển tích trong thơ Mai Đình mà tôi đã trích dẫn (từ ấn bản của nhà Trường Thi, Sài-gòn). – Những chú thích về từ ngữ và điển tích này tôi đã không làm năm 1974 khi soạn tiểu luận, mà chỉ mới làm hiện nay trong khi sửa chữa. Những tài liệu chính mà tôi dùng để tra cứu trong khi chú thích, ngoài cuốn Mai Đình Mộng Ký của hai giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toản, còn có các bộ: Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển của Trịnh Vân Thanh; Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ; và Từ Nguyên (chữ Hán) của nhà xuất bản Thương Vụ. Còn nữa, và đây cũng là một cái duyên bất ngờ: Mùa hè năm 1985, trong một chuyến sang Pháp, tôi được quen biết cô Giao Trinh (ái nữ của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh). Khi nhìn qua tủ sách của cô, bất chợt trông thấy cuốn Mai Đình Mộng Ký do Vũ Bằng bình chú, nhà xuất bản Phạm Văn Tươi in năm 1956 tại Sài-gòn. Tôi mừng lắm, liền xin cô một bản sao. Cô rất hoan hỉ. Một tháng sau khi trở về lại Gia-nã-đại, tôi nhận được bản sao chụp ấy do cô gửi cho. Đó cũng là một cái ơn mà tôi ghi nhớ, có liên quan đến tập tiểu luận này.

Trong tập “bản thảo” (năm 1974) của tiểu luận này, khi trích dẫn những tài liệu chữ Hán, chúng tôi đều kèm đủ ba phần: nguyên tác chữ Hán, phiên âm ra tiếng Hán-Việt, và dịch nghĩa ra tiếng Việt; nhưng ở đây, khi cho in thành sách, trước hết vì không có nhiều thì giờ viết lại chữ Hán, thứ nữa là vì không muốn cuốn sách trở nên quá nặng nề, rườm rà, cho nên chúng tôi không kèm theo hai phần nguyên tác chữ Hán và phiên âm, mà chỉ có phần dịch nghĩa mà thôi. Xin quí vị độc giảđặc biệt là quí vị độc giả “Hán Nôm” – hoan hỉ mà niệm tình tha thứ.

Năm 1974, khi viết tập tiểu luận này, tôi đã được giáo sư Nguyễn Đăng Thục hướng dẫn cho thật tận tình. – Lúc đó nó có tựa đề là “Tâm Lí Văn Nghệ Trong Mai Đình Mộng Kí”, và được đề tên soạn giả là Nguyễn Hữu Lợi, có bản sao lưu giữ tại Thư viện Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài-gòn. Khi bản thảo viết xong, quí vị giáo sư Lý Kim Hoa (Nguyên Hồng), Doãn Quốc Sỹ và Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) cũng đã đọc và khích lệ. Tôi xin chân thành ghi khắc ân sâu của quí vị giáo sư.
Sở học của chúng tôi còn rất hạn hẹp. Vậy trong tập tiểu luận này, nếu có chỗ khuyết điểm, xin các bậc cao minh rộng lượng chỉ giáo cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ ân đức ấy của Quí Vị.

Thành phố Edmonton, Gia-nã-đại, cuối thu năm 1996
Sen búp kính tặng quí vị độc giả,
Hạnh Cơ

Chương 1: Dẫn Nhập

Nhìn vào lịch sử văn học Việt-nam thời CUỐI-LÊ - ĐẦU-NGUYỄN (cuối thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19), chúng ta thấy có hai dòng họ lớn, vừa oai danh về khoa bảng, quan tước, lại vừa nổi tiếng về văn chương, đó là họ NGUYỄN ở làng TIÊN-ĐIỀN và họ NGUYỄN-HUY ở làng TRƯỜNG-LƯU, thuộc tỉnh Hà-tĩnh.
Làng Tiên-điền thuộc huyện Nghi-xuân, nằm phía Bắc dãy Hồng-lĩnh; làng Trường-lưu thuộc huyện La-sơn, nằm phía Tây Nam dãy Hồng-lĩnh. Cả hai họ Nguyễn ở hai làng này đều được liệt vào hàng văn kiệt, và có lẽ vì vậy mà họ đã tỏ ra rất tương đắc.
Trong bài “Nguồn Gốc Văn Kiều”, đăng trên báo Thanh Nghị (số 47, ngày 16.10.1943), giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã liệt các tác gia trong hai họ Nguyễn này vào chung một văn phái, gọi là Hồng-Sơn, và đã cho biết về sự liên lạc giữa hai họ này như sau:

“Ở đời Lê-mạt, anh em con cháu họ Nguyễn Tiên-điền đã giao du với người họ Nguyễn-Huy, và đã bao phen rủ nhau đi hát phường vải ở xã Trường-lưu. Trong bầu gái sắc trai tài, thơ đi hát lại, mà văn nôm của vùng Hồng-sơn đã nên trau chuốt. Thực là trong trường hợp ấy đã xảy ra các giai phẩm của văn phái Hồng-Sơn...”

Sự giao du ấy ngày càng đậm đà, đến nỗi về sau hai họ đã trở thành thông gia: Nguyễn Huy Tự (con cụ Nguyễn Huy Oánh, làng Trường-lưu) kết hôn với Nguyễn Thị Đài (con cụ Nguyễn Khản, làng Tiên-điền), và sinh ra NGUYỄN HUY HỔ.
Vậy, Nguyễn Huy Hổ đã mang trong mình dòng máu của cả hai họ Nguyễn ở Trường-lưu và Tiên-điền. Sự nối kết ấy không những chỉ ở phương diện huyết thống, mà còn ở cả phương diện văn chương: Nguyễn Huy Tự (Trường-lưu) đã soạn ra truyện Hoa Tiên và sau đó được Nguyễn Thiện (Tiên-điền, gọi cụ Nguyễn Khản bằng bác ruột) nhuận sắc. Và sau này, khi Nguyễn Du (Tiên-điền) viết Đoạn Trường Tân Thanh thì tỏ ra đã chịu ảnh hưởng sâu đậm văn Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự. Đến khi Nguyễn Huy Hổ viết MAI ĐÌNH MỘNG KÍ thì rõ ràng là đã chịu ảnh hưởng của cả cha (Nguyễn Huy Tự) và ông chú ngoại (Nguyễn Du).
Khi biên tập và cho xuất bản tác phẩm Mai Đình Mộng Kí, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã nhận xét về điểm này như sau:

“Bên cạnh Hoa Tiên và Đoạn Trường Tân Thanh còn có Mai Đình Mộng Kí, văn y như văn Hoa Tiên và văn Kiều. Vậy thì ta thấy sự liên lạc giữa ba tập văn này: Nguyễn-Huy Hổ, tác giả Mai Đình Mộng Kí chắc đã thuộc lòng Hoa Tiên và Đoạn Trường Tân Thanh trước lúc làm bài ấy, cũng như Nguyễn Du đã thuộc lòng Hoa Tiên khi làm tập Đoạn Trường Tân Thanh. Vả lại, Nguyễn Du lúc thiếu thời, rất hay giao du với văn sĩ Trường-lưu: ảnh hưởng của sự giao du ấy rất lớn. Nay ta đọc Mai Đình Mộng Kí, ta thấy từ cách dùng chữ đến cách đặt câu, đều giống như trong Hoa Tiên và Kiều, ta phải coi ba áng văn ấy là của một phái, một nhà, truyền từ người nọ đến người kia, của Hồng-Sơn văn phái.”(1)

“Bên cạnh Hoa Tiên và Đoạn Trường Tân Thanh còn có Mai Đình Mộng Kí”, vậy mà Hoa Tiên và Đoạn Trường Tân Thanh được người đời biết đến rất nhiều, được phổ biến sâu rộng, còn Mai Đình Mộng Kí thì lại bị mai một quá lâu; thật đáng ngạc nhiên!
Nguyễn Huy Hổ viết Mai Đình Mộng Kí khoảng sau năm 1809 (năm Kỉ Tị), nhưng mãi đến năm 1943 – tức là hơn 130 năm, tác phẩm này mới được xuất hiện lần đầu tiên trên tuần báo Thanh Nghị (số 32 ra ngày 1.3.1943), do giáo sư Hoàng Xuân Hãn sưu tầm và công bố (trong loạt bài “Nguồn Gốc Văn Kiều”, khởi đăng từ số 29, tháng 2.1943). Các sách văn học sử đã xuất bản từ năm 1943 trở về trước như Quốc Văn Trích Diễm (1925), Văn Học Việt Nam (1939) và Việt Nam Văn Học Sử Yếu (1941) của Dương Quảng Hàm; Cuộc Tiến Hóa Văn Học Việt Nam (1943) của Kiều Thanh Quế ... đều không thấy nói đến Nguyễn Huy Hổ và Mai Đình Mộng Kí.
Sau khi được giới thiệu trên báo Thanh Nghị (1943), Mai Đình Mộng Kí chỉ được nhắc đến một lần trong cuốn Văn Chương Quốc Âm Thế Kỉ XIX (1944) của Phan Trần Chúc; rồi thì vẫn vắng bóng trong các cuốn văn học sử khác – như Văn Chương Chữ Nôm (1947) của Thanh Lãng, Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu (1949) của Nghiêm Toản ...
Đến năm 1951, nhà xuất bản Sông Nhị (Hà-nội) mới đem in thành sách bài “Mai Đình Mộng K ý” (rút ra từ bài khảo luận “Nguồn Gốc Văn Kiều” của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đăng trong báo Thanh Nghị), với sự chú thích kĩ càng cùng lời bình luận và phân tích đại ý của giáo sư Nghiêm Toản. Việc cho xuất bản sách Mai Đình Mộng Kí này có lẽ là để đáp ứng nhu cầu giáo dục ở học đường lúc bấy giờ, vì trong phần “Phàm Lệ” sách ấy có nói: “Nhân vì Mai Đình Mộng K ý được ghi vào chương trình quốc văn bậc trung học, nên ở đây chú thích có phần kĩ hơn, nhất là về điển cố; riêng trong ba đoạn đầu lại có cả lời bình và phân tích đại ý, để giúp đỡ các học sinh...” Từ đó trở đi, tác phẩm này mới được chú ý đến, và các nhà viết văn học sử Việt-nam (như Nguyễn Tường Phượng, Bùi Hữu Sủng, Văn Tân, Phạm Văn Diêu, Phạm Thế Ngũ v.v...) đã dành cho nó một chỗ đứng trong các tác phẩm của họ.
Năm 1956, nhà xuất bản Phạm Văn Tươi (Sài-gòn) cũng đã cho phát hành cuốn Mai Đình Mộng Ký do Vũ Bằng phê bình và chú thích. Tuy vậy, việc làm này của nhà văn Vũ Bằng đã không có gì mới lạ, chỉ là hoàn toàn dựa vào ấn bản năm 1951 của giáo sư Hoàng Xuân Hãn (do nhà Sông Nhị xuất bản), cho in lại nguyên văn bài “Mai Đình Mộng Ký”, chú thích từ ngữ, và phê bình sơ lược về tác phẩm. Trong sách này, nơi phần “Phàm Lệ” ở đầu sách, ông Vũ Bằng cho biết:

“Theo chỗ biết của chúng tôi, Mai Đình Mộng Ký, mới có ba ấn bản: một, in trong báo Nam Phong của Phạm Quỳnh, một, của Dương Bá Trạc, và một của ông Hoàng Xuân Hãn sưu tầm...”

(Rất tiếc, chúng tôi chưa có điều kiện để được xem tận mắt hai ấn bản Mai Đình Mộng Ký in trong báo Nam Phong và của cụ Dương Bá Trạc, như ông Vũ Bằng đã cho biết.)
Ngoài ra thì không có một công trình biên khảo đặc biệt nào dành cho Mai Đình Mộng Kí.
Khi khảo luận về Tương An quận vương(2), ông Nguyễn Khuê đã từng phàn nàn:

“Trong văn học Việt-nam, có tác giả thì được quá nhiều người nghiên cứu, có tác giả lại rất ít được nhắc nhở. Trường hợp Nguyễn Du chẳng hạn, theo Thư Mục về Nguyễn Du(3), đã có đến 574 bài diễn văn, bài báo hoặc sách biên khảo về thân thế, tâm sự tác giả, về Đoạn Trường Tân Thanh và các tác phẩm khác của Tố-Như. Cuốn thư nục này được thành lập vào năm 1965, đến nay (tức là năm 1970, sách của ông Nguyễn Khuê được xuất bản – HC) số sách báo nói về Nguyễn Du chắc phải nhiều hơn. Ngoài Tố-Như, những tác giả ghi trong chương trình môn giảng văn bậc trung học cũng được biên soạn khá kĩ càng. Trong khi đó, những tác giả khác thường ít được các học giả, giáo sư lưu tâm nghiên cứu ...”(4)

So với Tương An quận vương thì Nguyễn Huy Hổ không đến nỗi bị hẩm hiu như vậy, nhưng nếu so với Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát v.v... thì Nguyễn Huy Hổ quả thật đã chịu cảnh ngộ bất công. Và khi Nguyễn Khuê đã không khởi đầu sự nghiệp nghiên cứu văn học của ông với Nguyễn Du hoặc Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát v.v..., mà với Tương An quận vương, cũng có lẽ vì ông muốn san bằng phần nào sự bất công ấy trong văn học giới. Ông quan niệm:

“... một khóm hoa, dù là hoa quí, không thể làm thành vườn hoa. Do đó, muốn cho vườn hoa văn học nước nhà thêm phong phú, thiết tưởng chúng ta đồng thời cũng cần phải hướng sự nỗ lực vào các tác giảchân tài khác...”(4)

Cũng cùng một niềm thiết tha đó với ông Nguyễn Khuê, chúng tôi xin đem ít kiến thức non nớt để tìm vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Huy Hổ qua tác phẩm Mai Đình Mộng Kí của ông, mong được góp phần giới thiệu một nghệ sĩ tài hoa vốn ít được mọi người nhắc nhở.
Về vấn đề tài liệu, những điều chúng tôi vừa trình bày ở trên đã chứng tỏ rằng, các tài liệu liên quan đến Nguyễn Huy Hổ và Mai Đình Mộng Kí hiện có rất ít. Tựu trung thì tập Mai Đình Mộng Kí do giáo sư Hoàng Xuân Hãn trích dẫn, biên tập, và giáo sư Nghiêm Toản chú thích là quan trọng nhất. Chúng tôi đã chọn tác phẩm đó làm tài liệu căn bản cho việc biên soạn tiểu luận này của chúng tôi. Và ấn bản chúng tôi hiện có là bản in lần thứ ba của nhà xuất bản Trường Thi, Sài-gòn (không thấy ghi năm ấn hành).

CHÚ THÍCH

1) Hoàng Xuân Hãn biên tập và trích dẫn, Nghiêm Toản chú thích, Mai Đình Mộng Ký (Sài-gòn: Trường Thi in lần thứ ba), trang 13.
2) Tương An quận vương sinh năm 1820, tên húy là Miên Bửu, tự Duy Thiện, hiệu Khiêm Trai, là con thứ 12 của vua Minh Mạng. Vương giỏi võ nghệ, lại nổi tiếng về thi ca, cùng với hai anh là Tùng Thiện vương và Tuy Lí vương, được coi là ba vị hoàng-tử giỏi văn chương hơn cả trong các vị hoàng tử con vua Minh Mạng. Vương mất năm Tự Đức thứ 7 (1854), hưởng thọ 35 tuổi.
3) Lê Ngọc Trụ và Bửu Cầm, Thư Mục về Nguyễn Du (Sài-gòn: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1965).
4) Nguyễn Khuê, Tâm Trạng Tương An Quận Vương Qua Thi Ca Của Ông. (Sài-gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, 1970), trang 14-15.

Chương 2: Tác GiảTác Phẩm

1. Tác giả NGUYỄN HUY HỔ (1783-1841)

Nguyễn Huy Hổ tên tục là Nhậm, tự Cảnh Như, hiệu Liên Pha, quê làng Trường-lưu, xã Lai-thạch, huyện La-sơn, tỉnh Hà-tĩnh. Ông là con thứ của cụ Nguyễn Huy Tự (1743-1790)(1) và bà Nguyễn Thị Đài (1752-1819)(2).

Ông vốn là con cháu của hai họ lớn ở vùng Nghệ-Tĩnh dưới thời Lê Trung-hưng (1532-1788): Ông nội là cụ Nguyễn Huy Oánh (1713-1789)(3) đỗ thám hoa, đã từng làm quan đến chức thượng thư dưới đời Lê Cảnh Hưng (1740-1786); cha là cụ Nguyễn Huy Tự, được liệt ngang hàng tiến sĩ, sung vào viện Hàn-lâm, tác giả truyện Hoa Tiên; ông cố ngoại là cụ Nguyễn Nghiễm (1708-775)(4) đỗ hoàng giáp; ông ngoại là cụ Nguyễn Khản (1734-1786)(5) đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức tả thừa tướng; ông chú ngoại là Nguyễn Du (1765-1820)(6) đỗ tam-trường, đã từng nổi tiếng là bậc đại văn hào; cậu họ là Nguyễn Thiện (1763-1818)(7), người đã nhuận sắc truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự.

Nguyễn Huy Hổ sinh năm 1783, lúc đó ở Bắc-hà, loạn kiêu binh đã nổi lên giết Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán (làm chúa được 2 tháng vào cuối năm 1782) và lập Trịnh Khải (1783-1786) lên làm chúa. Đến khi ông trưởng thành thì nhà Nguyễn (1802-1945) đã thống nhất đất nước. Do đó, khoảng 20 năm đầu của cuộc đời Nguyễn Huy Hổ là thời gian đã xảy ra nhiều biến cố lớn lao trong lịch sử nước nhà: Nhà Tây-sơn nổi lên diệt cả họ Nguyễn ở Nam-hà lẫn họ Trịnh ở Bắc-hà, chấm dứt tình trạng phân tranh đã kéo dài hàng hai trăm năm (1599-1786); hai mươi vạn quân Thanh do vua Lê Chiêu Thống (1787-1788) cầu viện bị vua Quang Trung đánh tan trong vòng mười ngày (1789); nhà Hậu-Lê (1428-1788) bị sụp đổ để thay thế bằng nhà Tây-sơn (1788-1802); rồi nhà Tây-sơn lại bị tiêu diệt về tay nhà Nguyễn (1802)... Chỉ trong khoảng mấy mươi năm mà giang sơn đổi chủ đến ba lần! Nội thù, ngoại chiến xảy ra triền miên, xã hội loạn lạc, dân tình khốn khổ. Bởi vậy, tuy thuộc dòng dõi khoa bảng cả hai bên nội ngoại, và chính Nguyễn Huy Hổ cũng là người văn hay học giỏi, nhưng ông đã không chịu thi cử để thi thố tài năng.
Lại nữa, những bậc tiền bối trong hai họ nội ngoại của Nguyễn Huy Hổ đều là những vị quan cao lộc hậu dưới triều Lê; vợ ông, bà Lê Thị Nguyên, lại chính là cháu vua Lê Hiển-tông (1740-1786), thì mối liên hệ giữa ông và triều Lê càng vô cùng thắm thiết. Vì vậy, cũng như Nguyễn Du, dù không chống triều Nguyễn, nhưng đã không tỏ ra ủng hộ nồng nhiệt lắm với triều đại này; và mối cảm hoài đối với triều Lê chắc chắn là có ẩn tàng trong lòng ông.
Hai người anh của ông cũng không hợp tác với triều Nguyễn: Nguyễn Huy Phó (?-?) sống ẩn dật ở Hưng-hóa, và Nguyễn Huy Vinh (1768-1818) thì dựng nhà dạy học ở núi Chung-sơn (huyện Nam-đường).
Nguyễn Huy Hổ đã giỏi về văn chương, mà cũng tinh thông cả thiên văn, địa lí; và có thể nói, đó cũng là tài năng đặc biệt của dòng họ Nguyễn Huy ở Trường-lưu (ông nội của ông là thám hoa Nguyễn Huy Oánh, trước kia đã từng làm việc ở tòa Khâm-thiên-giám, đoán nhật thực, nguyệt thực rất chính xác). Ông cũng rất giỏi về y lí, cho nên vào khoảng năm 1823, vua Minh Mạng (1820-1840) đã triệu ông vào cung chữa bệnh, rồi ban cho chức linh đài lang để làm việc tại tòa Khâm-thiên-giám. Tương truyền, ông cũng chính là người đã lấy kiểu đất để xây lăng vua Minh Mạng.
Nguyễn Huy Hổ mất năm 1841 (năm đầu vua Thiệu Trị), hưởng thọ 59 tuổi.
Về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Hổ, cho đến nay chúng ta vẫn không biết gì hơn ngoài thi phẩm Mai Đình Mộng Kí.

 

2. Tác phẩm MAI ĐÌNH MỘNG KÍ
Nguyễn Huy Hổ đã viết Mai Đình Mộng Kí vào năm nào? Những người trước đây thường dựa vào một câu trong bài tựa chữ Hán ở đầu tác phẩm: “Kỉ Tị xuân ......” (mùa xuân năm Kỉ-Tị ......) để cho rằng, Nguyễn Huy Hổ đã viết Mai Đình Mộng Kí vào năm 1809 (Kỉ-Tị). Nhưng nếu căn cứ vào câu thứ 15 của tác phẩm: “Nhớ xưa năm Tị tháng Dần” thì chúng ta có thể nghĩ rằng, tác phẩm đã được viết sau năm 1809 ít ra là ba bốn năm, và năm 1809 (tác giả được 26 tuổi) chỉ là thời điểm xảy ra giấc mộng. Lại nữa, nếu xét hai câu áp chót của tác phẩm:

Thấy đây còn biết từ đây,
Bao giờ sao nữa lại hay bấy giờ.
(Mai Đình Mộng Kí, câu 295 - 296)

thì tác giả không thể viết tác phẩm này vào hay sau lúc ra làm quan – tức là năm 1823, tác giả được 40 tuổi. Vậy, theo chúng tôi, Nguyễn Huy Hổ đã viết Mai Đình Mộng Kí trong khoảng từ 29 đến 39 tuổi (1812-1822).
Riêng về bài tựa chữ Hán để ở đầu tác phẩm, với tư tưởng thâm thúy đầy màu sắc triết lí, với lời văn hết sức nghiêm túc, cuối bài lại được kí tên là Linh Đài Lang, thì ta có thể tin chắc chắn rằng, tác giả đã viết bài tựa ấy sau khi đã ra làm quan dưới thời vua Minh Mạng.
Mai Đình Mộng Kí không phải là một câu chuyện dài với nhiều tình tiết li kì như Hoa Tiên hay Đoạn Trường Tân Thanh, mà chỉ là một bài kí sự dài bằng thơ, gồm 298 câu lục bát, trong đó Nguyễn Huy Hổ ghi lại một giấc mộng của chính mình.
Tiết Thượng-nguyên năm Kỉ-Tị (1809), Nguyễn Huy Hổ đi thăm anh là Nguyễn Huy Vinh đang ẩn cư dạy học tại huyện Nam-đường (nay là huyện Nam-đàn, tỉnh Nghệ-an). Giữa đường gặp trời mưa, ông ghé lại bến đò Phù-thạch (một phố thị, đồng thời là một thắng cảnh nổi tiếng trên bờ sông Lam thuộc địa phận tỉnh Nghệ-an) trú lại nhà người bà con, tiện thể lại được xem hội thắp đèn nhân đêm Rằm tháng Giêng. Sáng hôm sau, người bà con lại thuê thuyền để ông ngược dòng sông Lam đi lên Nam-đường. Thuyền chèo thong thả, vừa đi vừa ngắm cảnh núi sông. Đến chiều tối, hứng lòng trước cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, ông gọi lấy rượu, uống đến say rồi nằm ngủ. Ông chiêm bao thấy mình đi đến một tòa lâu đài tráng lệ, có vườn tùng, vườn mai. Ông tiến vào khuôn viên tòa lâu đài, ở đấy có đình Thưởng-mai, một người con gái vừa viết xong bài thơ và dán lên vách đình. Vừa thoáng thấy bóng người lạ, cô gái liền lẩn trốn vào tòa lâu đài. Ông vào đình, thấy đó là bài thơ vịnh hoa mai, liền họa lại, rồi gỡ bài thơ trên vách, bỏ vào ống đựng thơ chung với bài họa của mình. Ông đánh bạo tiến thẳng vào tòa lâu đài. Bỗng dưng, một người hầu gái chạy ra, giật lấy ống thơ trong tay ông và chạy biến vào nhà trong. Chốc lát, ông được mời vào yết kiến một vị phu nhân khuê các. Bà hỏi thăm quê quán của ông, và vì sao ông biết được nơi này mà tìm đến. Ông trả lời, mình vốn con nhà gia thế, nhưng hiện giờ thì phong trần, nhân đi dạo chơi mà lạc lối đến đây. Vị phu nhân tâm sự, cha và chồng bà đều làm quan nhà Lê, nhưng vì binh đao loạn lạc, sự thế đổi thay, nên đã cáo quan về đây ở ẩn; và họ đã mất hơn mười năm rồi. Bà vì còn phải lo cho con gái, nên vẫn ẩn cư ở nơi vắng vẻ này. Ông tự nhiên lạc đường đến đây, ắt là do trời xui khiến; hơn nữa, xem hai bài thơ xướng họa thì biết rằng ông và con gái của bà có sẵn nợ tình duyên. Nhưng bà khuyên ông hãy trở về lập công danh, lúc nào thành đạt hãy trở lại. Ông vâng lời ra về, và... sực tỉnh dậy, lòng bàng hoàng ngẩn ngơ, tiếc mối duyên trong mộng; rồi nhân đó mà suy nghĩ về hai chữ GIÁC, MÊ...
Nếu người xưa đã từng quan niệm: “ở tuổi 30, có thể tự lập được” (tam thập nhi lập), thì chắc hẳn Nguyễn Huy Hổ, trong khoảng từ 30 đến 40 tuổi, đã phải có những suy nghĩ thật chín chắn về việc nên hay không nên hợp tác với triều Nguyễn; và tác phẩm Mai Đình Mộng Kí hẳn nhiên đã phản ảnh cái tâm trạng trong thời gianhoàn cảnh đó của ông. Nói đến LÁNH ĐỜI ẨN DẬT là nói đến phong cách Lão-Trang; nói đến CÔNG DANH SỰ NGHIỆP là nói đến tâm thức nhà nho; nói đến GIÁC, MÊ là nói đến triết lí đạo Phật; cả ba nguồn tư tưởng ấy đã thấm nhập hài hòa trong con người Nguyễn Huy Hổ, giúp ông giải tỏa được những giằng co, uẩn khúc nội tâm, phác họa cho ông một con đường xuất xử hợp tình hợp lí. Ông cũng là một con người nghệ sĩ tài hoa, biết sống thực với hiện tại, biết cảm xúc trọn vẹn với những vẻ đẹp của đất trời... Tất cả những cái đó đã được ông biểu hiện thành thi phẩm Mai Đình Mộng Kí, một trong những tác phẩm tuyệt hảo của nền thơ văn cổ điển Việt-nam.


CHÚ THÍCH

1) Nguyễn Huy Tự sinh năm 1743, quán làng Trường-lưu, xã Lai-thạch, huyện La-sơn, tỉnh Hà-tĩnh, con của cụ Nguyễn Huy Oánh, thuộc một dòng họ nổi tiếng là văn kiệt thời Lê-mạt (giữa thế kỉ 18). Tuy không đỗ đại khoa, nhưng ông đã được vua Lê Cảnh Hưng mến tài, cho tiến triều, liệt ngang hàng với tiến sĩ, và làm quan đến chức đốc đồng. Năm 1783, nhân loạn kiêu binh, ông xin về ở ẩn. Năm 1790, ông được lệnh vua Tây-Sơn vời vào Phú-xuân, nhưng chỉ được vài tháng thì ông mất, thọ 48 tuổi.
2) Nguyễn Thị Đài là em ruột bà Nguyễn Thị Bành (1750-1773), con của cụ Nguyễn Khản. Nguyễn Huy Tự cưới bà Nguyễn Thị Bành năm 1763, và đến năm 1773 thì bà này mất. Đến năm 1782, ông lại tục huyền với bà Nguyễn Thị Đài, và sang năm sau thì sinh Nguyễn Huy Hổ.
3) Nguyễn Huy Oánh người làng Trường-lưu, xã Lai-thạch, huyện La-sơn, tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ thám hoa, làm quan đến chức thượng thư bộ Hộ; và đã có lần được cử đi sứ sang Trung-quốc.
4) Nguyễn Nghiễm người làng Tiên-điền, huyện Nghi-xuân, tỉnh Hà-tĩnh, đỗ nhị giáp tiến sĩ (tức hoàng giáp), làm quan đến chức đại tư đồ, tước Xuân quận công.
5) Nguyễn Khản là con trai trưởng của cụ Nguyễn Nghiễm, đỗ tam giáp tiến sĩ, làm quan đến chức tham tụng.
6) Nguyễn Du là con trai thứ bảy của cụ Nguyễn Nghiễm, đỗ tú tài năm 19 tuổi, làm quan đến chức hữu tham tri bộ Lễ dưới triều vua Gia Long (1802-1820).
7) Nguyễn Thiện là con của cụ Nguyễn Điều (1745-1786), và là cháu gọi cụ Nguyễn Du bằng chú ruột.

 

Chương 3: Nỡ Qua Ngày Bạc

 

Người ta thường lấy khoảng thời gian một trăm năm làm kì hạn đời sống. Thiên “Khúc Lễ” trong kinh Lễ có nói: “Nhân thọ dĩ bách niên vi kì” (Kiếp sống của con người lấy trăm năm làm kì hạn). Đó là nhân sinh quan của các nhà nho tri thiên lạc mệnh; mới nghe thì có vẻ như yếm thế, mà xét kĩ thì là cả một tư tưởng đạt quan và tỉnh thức. Sở dĩ con người cứ mải chạy theo dục vọng, tranh đua danh lợi, để rồi phải đau khổ ê chề vì danh lợi, thân bại danh liệt vì dục vọng, là bởi vì họ chẳng có phút nào được sáng suốt để suy gẫm cái ý nghĩa phù du của cuộc đờitỉnh ngộ, dừng bước đua chen:

Trăm măm là kiếp ở đời,
Vòng trần(1) này đã mấy người trăm năm!
Cuộc phù sinh(2) có bao lăm,
Nỡ qua ngày bạc(3) mà lầm(4) tuổi xanh!
(Mai Đình Mộng Kí, câu 1- 4)

Chỉ có những kẻ sáng suốt mới nhận chân được điều đó, và nhờ vậy, họ mới không bị cám dỗ bởi danh lợi, dục vọng. Nhưng như thế không có nghĩa là họ chán đời, – chúng ta nên nhớ, người tỉnh thức không bao giờ là người yếm thế – mà trái lại, rất yêu đời, yêu sự sống. Họ vẫn vui sống, và vui sống có ý thức. Họ vui sống nhưng vì không có tham vọng nên không bao giờ bị thất vọng. Nhờ tinh thần đạt quan ấy mà họ có ý thức tự do, có tư cách cao thượng, có tình cảm dồi dào, và có nguồn sáng tạo phong phú.
Trong tâm thức nhà nho, Nguyễn Huy Hổ cũng đã từng có ước vọng công danh, mà chữ “công danh”, theo như nhà nho Nguyễn Công Trứ (1778-1858)(5) nói: “Phải có danh gì với núi sông”, thì nó có nghĩa là sự nghiệp ở đời của nhà nho đối với gia đình, tổ quốc, dân sinh, và cả với vũ trụ. Vì vậy, “công danh” ở đây không phải là lấy địa vị, danh lợi làm mục đích tối thượng của đời sống, mà chỉ là phương tiện hành đạo của kẻ sĩ. Vì nếu công danhmục đích tối thượng để ganh đua, để rồi chôn vùi cuộc đời trong danh lợi, thì còn đâu là phẩm cách cao quí của sĩ phu! Cho nên điều cốt yếu của cuộc sống không phải chỉ là công danh, mà còn là nếp phong lưu lạc đạo, còn là mối tình cảm thâm trầm của một tâm hồn nghệ sĩ:

Duyên tế ngộ(6), hội công danh(7),
Là hai, với nghĩa chung tình(8) là ba,
Đều là đường cái người ta,
Là cầu noi(9) đó, ai qua mới từng.
(MĐMK, câu 5 - 8)

Tình là phản ứng hòa điệu của âm dương, là hấp lực lẫn nhau của trống mái, là xướng họa qua lại của nữ nam. Đó là bản chất của mĩ cảm, là mạch sống của nghệ sĩ. Do đó mà “duyên tế ngộ” và “nghĩa chung tình” đã được sắp ngang hàng với “hội công danh”, làm thành ba yếu tính của đời sống kẻ sĩ. Quan niệm đó của Nguyễn Huy Hổ cũng là quan niệm chung của các thi nhân tự nhận mình vốn thuộc “nòi tình”, là nhà nho quí phái. Bởi vậy, trong tất cả các tác phẩm văn nghệ cổ kim – dù văn nhân có muốn trình bày một tư tưởng cao siêu đến đâu đi nữa – chúng ta vẫn thấy chúng thường được xây dựng trên một câu chuyện thực tế là một cuộc tình. Tình hòa điệu thì sinh hoan lạc, tình không hòa điệu thì sinh bi thương, tất cả đều là bản chất của mĩ cảm. Rốt cuộc, chuyện tình qua bao đời vẫn là đề tài của văn nhân, và câu chuyện mộng của Nguyễn Huy Hổ cũng không ra ngoài mĩ cảm đó:

Tình duyên hai chữ nhắc bằng(10),
Há rằng duyên chướng, há rằng tình si(11).
Chuyện xưa còn có sá chi,
Đêm thanh vui chén muốn ghi nỗi mình.
Cho hay rằng giống có tình,
Chiêm bao lẩn quất(12) năm canh lần lần.
(MĐMK, câu 9 - 14)

“Tình” là dây nối kết do người chủ động, “duyên” là dây nối kết do trời sắp đặt – nói theo nhà Phật, tức là nghiệp thức. Tình và duyên thuận thì hòa hợp, hạnh phúc; có tình mà không có duyên thì phân cách oái oăm; có duyên mà không có tình thì chỉ là sự chắp nối miễn cưỡng. Đối với ba hoàn cảnh ấy của tình duyên, con người thật đầy đủ kinh nghiệm. Nguyễn Huy Hổ cũng thuộc “nòi tình”, vậy thuộc vào hoàn cảnh nào?
Trong Mai Đình Mộng Kí, Nguyễn Huy Hổ đã đề cập đến cuộc tình duyên dang dở giữa ông và thiếu nữ đề thơ; nhưng chúng ta sẽ đào sâu vào tâm sự của ông để thấy rằng, chuyện tình ấy chỉ là một cách biểu hiện khéo léo niềm ước vọng của ông trong tâm thức một nhà nho ở vào hoàn cảnh lịch sử đương thời. Chính cái tâm sự ấy đã được ông nói ra ngay ở những câu nhập đề tác phẩm:

Trăm năm là kiếp ở đời,
Vòng trần này đã mấy người trăm năm.
Cuộc phù du có bao lăm,
Nỡ qua ngày bạc mà lầm tuổi xanh.
Duyên tế ngộ, hội công danh,
Là hai, với nghĩa chung tình là ba.
Đều là đường cái người ta,
Là cầu noi đó ai qua mới từng.
(MĐMK, câu 1 - 8)

Kiếp người thật quá ngắn ngủi. Tuy nói đời người kéo dài trăm năm, nhưng đã có mấy người sống lâu trăm tuổi! Vậy thì chúng ta không nên buông thả đời trai một cách vô vị trong nếp sống ẩn dật, mà phải sống cho có ý nghĩa, tức là phải hội đủ ba yếu tố: duyên tế ngộ, hội công danh, và nghĩa chung tình.
Đó là đầu đề quan trọng mà Nguyễn Huy Hổ đã đưa ra. Ông đang sống ẩn dật nhưng lại tự cảnh cáo cái nếp sống đó của mình, và đồng thời đề cao cái tư cách nhập thế hành đạo theo quan niệm của một nhà nho tích cực.
Vậy chúng ta có thể thấy ngay ở đây cái gì đã khởi hứng cho Nguyễn Huy Hổ để ông viết nên thi phẩm Mai Đình Mộng Kí, đó chính là cái tinh thần “nhập thế hành đạo” của một kẻ sĩ chân chính, biết nhận trách nhiệm với xã hội mà trong đó mình đang sống.


CHÚ THÍCH

1) Vòng trần: trong cõi trần gian.
2) Cuộc phù sinh: kiếp sống của con người thật bấp bênh, vô định, chẳng khác nào khúc gỗ nổi trôi trên mặt đại dương.
3) Bạc: mỏng, lạt lẽo, vô vị.
4) Lầm: quậy nước cho đục.
5) Nguyễn Công Trứ: người làng Uy-viễn, huyện Nghi-xuân, tỉnh Hà-tĩnh, đỗ giải nguyên năm 1819, giỏi cả văn chương thao lược, làm quan trải qua ba triều Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883); về văn nghiệp thì từ chức hành tẩu đến chức thượng thư, về võ nghiệp thì từ chân lính trơn đến cấp tướng soái, được coi là một nhân sĩ khuôn mẫu Việt-nam ở thế kỉ 19.
6) Tế ngộ: gặp gỡ. Duyên tế ngộ: sự gặp gỡ tình cờ tốt đẹp giữa đôi trai gái do “duyên số”, không phải do mai mối mà được.
7) Công danh: sự nghiệp ở đời. Hội công danh: nơi, hoặc cơ hội để kẻ sĩ thi thố tài năng, lập nên sự nghiệp rạng rỡ ở đời.
8) Chung tình: tình yêu được chung đúc lại. Nghĩa chung tình: tình yêu gắn bó keo sơn dành cho một người.
9) Cầu noi: cây cầu được bắc để đi từ bờ xuống thuyền.
10) Nhắc bằng: cân bằng.
11) Duyên chướng, tình si: tình duyên làm cho người ta say mê, cái tâm trong sáng bị che lấp, tối tăm.
12) Lẩn quất: quanh quẩn.

 

Chương 4: Văn Phi Sơn Thủy Vô Kì Khí

 

Văn chương cốt ở óc sáng tạo. Cho nên khi người nghệ sĩ đã đem cả tâm hồn mình để rung động trước cảnh vật và diễn tả tình cảm đó ra thành lời, thành văn, thành tác phẩm, thì hẳn là óc sáng tạo phải chiếm phần quan trọng trong tác phẩm.

Có người bảo nghệ thuật nhiếp ảnh chỉ là mô phỏng sự vật, nhưng nếu xét kĩ ra, trong bức ảnh vẫn biểu lộ nét sáng tạo của nhiếp ảnh gia. Nét sáng tạo biểu lộ ở bối cảnh mà người chụp ảnh lựa chọn, ở sự lượng định mức độ ánh sáng và bóng tối, ở tầm xa cách để có sự gần gũi rõ ràng hay mờ ảo xa xăm, ở đề tài mà nhiếp ảnh gia muốn trình bày, ở đối tượng muốn làm cho nổi bật v.v... Nói chung, đã là nghệ thuật thì phải có sáng tạo, không có sáng tạo thì không thành nghệ thuật. Nhiếp ảnh còn như vậy, huống hồ là văn chương!

Văn chương không có sáng tạo thì chỉ là thứ văn nhại lại, vô vị, vô hồn, rỗng tuếch. Phải có sáng tạo thì văn mới có CHẤT VĂN, thơ mới có HỒN THƠ. Ông Trần Bích San(1) đã phát biểu quan niệm đó trong một bài thơ chữ Hán rất được truyền tụng:

Tam niên tam thướng Hải vân đài
Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt
Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai
Văn phi sơn thủy vô kì khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
Hưu đạo Tần quan chinh lộ hiểm
Mã đầu hoa tận đới yên khai

Và ông Tô Nam Nguyễn Đình Diệm đã dịch như sau:

Nhẹ bổng mình chim lối Hải-vân
Ba năm qua lại đủ ba lần
Nửa con mắt ngó trần ai hẹp
Sát ngọn cây trông nhật nguyệt gần
Chửa dạn phong sương tài chửa luyện
Không pha sơn thủy bút không thần
Mây lồng cổ ngựa hoa đua nở
Có hiểm gì đầu lối ải Tần (2)

“Văn phi sơn thủy vô kì khí”: văn chương mà không có tinh thần núi sông thì chỉ là thứ văn chương tầm thường, không có gì đặc biệt. Tinh thần “núi sông” chính là tinh thần hòa điệu và linh động của nghệ sĩ. Nói đến “sơn thủy” là nói đến mối dây liên hệ mật thiết giữa nghệ sĩ và thiên nhiên, nói rộng ra là giữa con người với vũ trụ. Theo quan niệm thuần túy về nghệ thuật của Đông phương, người nghệ sĩ chân chính là người biết thanh tao hóa tâm hồn để hòa điệu với thiên nhiên. Ông Lâm Ngữ Đường(3), một nhà tư tưởng cận đại của Trung-hoa, đã nói về đặc tính của các nghệ sĩ Trung-hoa như sau:

“Ấy là tinh thần bình tĩnh và hòa điệu. Bình tĩnh và hòa điệu xuất phát tự trong tâm hồn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ Trung-quốc là một người sống trong tinh thần của Đạo, nghĩa là nhập điệu với vũ trụ thiên nhiên. Chiếc thân ngoại vật đối với sự tấp nập phồn hoa, thảng nhiên với danh lợi, và chìm đắm vào trong không khí, núi sông, cùng với gió mát trăng thanh hay là mọi biểu hiện khác của tạo vật. Vì nghệ thuật cốt ở thành thật với mình, và nghệ thuật vốn là một đạo thuật, cho nên nghệ sĩ phải đứng trên tất cả, trong lòng của họ không được nuôi một điều giận dữ, vật dục, vì ở Trung-quốc xưa kia người ta tin một nghệ sĩ chân chính đồng thời phải là một người chân chính. Đấy là kỉ luật nghiêm ngặt của nhà nghệ sĩ chân chính ở Trung-quốc...”(4)

Cái cốt cách thanh cao do du sơn ngoạn thủy ấy của nghệ sĩ Trung-quốc cũng là cái cốt cách của nghệ sĩ Việt-nam. Nguyễn Du (1765-1820) đã từng ngao du khắp 99 ngọn núi của dãy Hồng-lĩnh, không chỗ nào là không có vết chân, để rồi tự đặt hiệu cho mình là Hồng Sơn Liệp Hộ. Nguyễn Trãi (1380-1442)(5), Lê Thánh-tông (1460-1497)(6), Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Nguyễn Khuyến (1835-1909)(7), Cao Bá Quát (1801-1854)(8), Tản Đà (1888-1939)(9) v.v..., bao nhiêu nghệ sĩ lừng danh của nước ta đều mang trong mình cái phong cách thanh cao ấy.
Và chắc hẳn rằng, con người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Huy Hổ mà chúng ta đang nói đến ở đây, cũng không thoát ra ngoài cái cốt cách ấy. Chúng ta thử nhìn qua vùng đất Hồng-Lam (núi Hồng và sông Lam), quê hương của Nguyễn Huy Hổ – mà cũng là quê hương của bao nghệ sĩ thời danh, được người đời thường ca tụng là miền đất “địa linh nhân kiệt”. Hồng-Lam là vùng địa giới giữa hai tỉnh Nghệ-an và Hà-tĩnh, với dãy Hồng-lĩnh ở phía Đông, dãy Thiên-nhận ở phía Tây, và sông Lam (hạ lưu sông Cả) uốn khúc ngoằn ngoèo làm ranh giới giữa Nghệ-an và Hà-tĩnh. Làng Tiên-điền (quê Nguyễn Du), làng Uy-viễn (quê Nguyễn Công Trứ), huyện La-sơn (quê La Sơn Phu Tử)(10), làng Trường-lưu (quê Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ)... đều nằm trong vùng Hồng-Lam này cả. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã nói về vùng này như sau:

“... Hồng là núi Hồng-lĩnh, tên thổ âm là rú Hống, Lam là sông Lam-giang, hạ lưu sông Cả. Vùng này chính là trung tâm điểm của xứ Hoan-châu. Sông Lam-giang ở phương Tây Bắc chảy xuống, len vào giữa ba huyện Thanh-chương (bờ Nam), Lương-sơn (phủ Anh) và Nam-đàn (bờ Bắc). Về phía Nam có hai ngọn nguồn: ngàn Phố ở huyện Hương-sơn tự phương Tây lại, ngàn Sâu ở Hương-khê từ phương Nam ra. Hai ngọn nguồn này len núi mà tới, hợp nhau ở ngã ba Tam-soa, dưới chân núi Tùng-lĩnh và đầu dãy núi Thiên-nhận. Hai dòng hợp thành sông La-giang. Tam-soa còn cách cửa bể 40 cây số. La-giang quanh co hai khúc, Đông tiến rồi lại Bắc tiến, gặp sông Lam-giang ở phía Nam chân núi Nghĩa-liệt (Lam-thành), gần bến đò Phù-thạch (đò Rum). Bến đò Phù-thạch này là nơi yếu điểm của vùng Hồng-Lam. Bên Bắc có phủ Hưng-nguyên. Bên Nam có phủ Đức-thọ (huyện La-sơn). Chỗ này còn cách cửa Hội chừng 30 cây số. Từ đó Lam-giang chảy sang phương Đông, gặp núi Hồng-lĩnh ở chân núi Ngũ-mã (chợ Củi), cho nên đổi hướng lên phương Bắc, chảy qua gần Bến-thủy, gần núi Mèo và ngăn chia núi Dũng-quyết (rú Quyết) ở Bắc và núi Hồng-lĩnh ở Nam. Vượt qua chỗ hẹp, liền chảy qua hai huyện Nghi-xuân (nam) và Nghi-lộc (xưa là Chân-phúc, rồi Chân-lộ) mà vào Đông-hải ở cửa Hội-thống. Trước cửa Hội có đảo Song-ngư. Nói tóm lại, triền sông Lam là một nơi rất nhiều thắng cảnh. Đứng chỗ nào, chung quanh cũng trông thấy đền cũ, thành xưa, bãi chiến trường, nơi ẩn dật...”(11)

 

Tự bản thân vốn là một con ngườicốt cách thanh cao, giàu nghệ sĩ tính, mà lại ở tại một vùng “sơn thủy hữu tình” như vậy, thì Nguyễn Huy Hổ đối với thiên nhiên ắt hẳn phải có một tình cảm phong phú, nồng nàn. Tình cảm đối với thiên nhiên càng nồng nàn phong phú thì lại càng lấy việc ngao du sơn thủy làm quan trọng cho cuộc đời nghệ sĩ, vì đó là cách di dưỡng tính tình, làm cho tâm hồn được thanh tao hóa; và cuộc du xuân của ông trên dòng sông Lam vào ngày Rằm tháng Giêng năm Kỉ-Tị (1809) được chính ông ghi lại, có thể nói là một cuộc du ngoạn điển hình, (có lẽ) vì nó đã đem lại nhiều thi vị nhất trong cuộc đời nghệ sĩ của ông.

Nhớ xưa năm Tị tháng Dần (12),
Thưởng xuân vừa gặp giữa tuần tròn trăng (13).
(MĐMK, câu 15 - 16)

“Du xuân” hay “thưởng xuân”, có thể nói là một mĩ tục truyền thống của dân tộc ta. Suốt năm, mọi người đều bận rộn với sinh kế, ít có được những ngày nghỉ ngơi. Họ hàng, bạn bè cũng vì vậy mà ít có khi gặp gỡ, thăm viếng. Ngày Tết là ngày đánh dấu sự bắt đầu một năm mới, người ta cố quên đi tất cả mọi phiền lụy của năm cũ, dành trọn vẹn những ngày đầu năm cho niềm vui, cho sự sum họp, cho tâm trí thảnh thơi... Mùa xuân khí dương ấm áp, bắt đầu cho một vòng tuần hoàn của thời tiết: “xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng” (mùa xuân nẩy nở, mùa hè tốt tươi, mùa thu rút vào, mùa đông chứa giữ). Cây cỏ úa héo với tiết đông giá lạnh, bây giờ đã lấy lại sức sống mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng người cũng thấy rộn lên niềm vui phơi phới, cùng với thời tiết thích ứng điều hòa. Những cuộc du xuân, những ngày hội hè mùa xuân đều là những dịp để mọi người cởi mở tâm hồn, tìm những phút phiêu diêu hứng thú, gây lại sinh lực vốn đã mòn mỏi, để rồi sẽ bắt tay vào công việc thực tế của cuộc sống hằng ngày sắp tới.
Nguyễn Huy Hổ nhân ngày xuân đi lên Nam-đường để thăm và mừng anh mới dựng xong nhà dạy học, vừa hưởng được cái vui sum họp, vừa hưởng được cái thi vị thưởng xuân giữa nơi sông núi. Việc đi Nam-đường vào ngày xuân của ông đã tỏ ra có một sự lựa chọn bao hàm nhiều ý nghĩa: một mặt ông đã hòa mình vào niềm vui xuân chung của dân tộc; mặt khác lại thích ứng với vòng sinh hóa tuần hoàn của thiên nhiên; và mặt khác nữa, ông đã thi hành cái “kỉ luật” của bất cứ một người nghệ sĩ Đông phương nào, đó là: “Phải thanh tao trong tâm hồn, khoát đạt ở cử động, bằng sự từng trải và ngao du sơn thủy.”
Cuộc du xuân của Nguyễn Huy Hổ diễn ra sau ngày Khai-hạ(14), tức khoảng sau ngày Mồng 7 tháng Giêng âm lịch, và ông đã đến Phù-thạch vừa đúng ngày Rằm; trăng tròn đầy và sáng tỏ.
Ngắm cảnh giữa ban ngày là để nhìn thấy nét đẹp sặc sỡ muôn màu, cái tư thái hùng vĩ của thiên nhiên. Về ban đêm, với một đêm Ba Mươi tối trời, người ta chỉ ngồi lặng lẽ, trải rộng thính giác trong không gian im lìm để nghe cả một âm giai bất tuyệt của đất trời. Và muốn ngắm cảnh ban đêm thì phải chọn những đêm có trăng sáng, vì chỉ có dưới ánh sáng trăng, vạn vật mới trở nên lung linh diễm ảo, mới tỏa ra cái vẻ huyền bí chập chờn của vũ trụ vô biên. Nếu giữa lúc ban ngày sáng rỡ, thiên nhiên có thể kéo tâm hồn ta trải rộng trong không gian mênh mông, thì chính ở ban đêm, thiên nhiên sẽ dẫn dắt mĩ cảm của chúng ta đi vào chiều sâu vô tận của hồn vũ trụ. Và chúng ta sẽ thấy, cuộc xem đèn ở Phù-thạch của Nguyễn Huy Hổ đã diễn ra trong khoảng thời gian thật thích hợp với kinh nghiệm mĩ cảm của ông:

Thắng du tiện nẻo quan đăng, (15)
Trông vời non Liễu, băng chừng dặm hoa. (16)
Trời hôm xuân nhuốm màu da,
Cơn mưa rửa tuyết, trận hà cuốn mây (17),
Chim về xao xác lá cây,
Rừng Đông đã thấy tròn xoay bóng thiềm (18).
(MĐMK, câu 17 - 22)

Lúc này trời đã về chiều. Sau cơn mưa xuân, bầu trời trở nên thật quang đãng, như vừa được rửa sạch lớp bụi trần. Mặt trời đã xuống sau đỉnh núi, còn chiếu những tia sáng cuối cùng vào các khóm mây ở chân trời, trông ráng chiều đẹp như tranh vẽ. Đó là thời khắc giao hòa giữa ngày và đêm, đủ để cho nghệ sĩ vừa chiêm ngưỡng được vẻ hùng vĩ của thiên nhiên ban ngày, vừa bắt đầu xúc cảm với bầu khí hư ảo của vũ trụ ban đêm. Đứng ở bến đò Phù-thạch trong thời khắc ấy, Nguyễn Huy Hổ vừa nghe được tiếng chim xào xạc bay về “chỗ ngụ” ở các lùm cây, vừa thấy rõ được nào núi Chung-sơn (non Liễu) ở huyện Nam-đường, dãy Hồng-lĩnh (rừng Đông) chạy dọc theo bờ bể; nào ráng chiều với bao màu sắc rực rỡ, rồi mặt trăng tròn vành vạnh xuất hiện trên đỉnh non Hồng... Từ đó, tác giả dõi mắt nhìn đi khắp nơi. Và với tâm hồn cảm thông sâu xa, ông đã chuyền tình cảm của mình đến cảnh vật, khiến cho mọi thứ đều trở nên lung linh, hữu tình:

Lửa(19) đâu thấp thoáng trong rèm,
Khi đưa hương xạ, khi đem khói tùng; (20)
Đá đâu lấp ló giữa dòng,
Như bay hoa sóng, như trồng gương nga; (21)
Thành đâu xây lấp yên hà, (22)
Đỉnh non nền cũ, cán cờ bụi sương; (23)
Đền đâu lắng dấu khói hương, (24)
Bể reo công trước, vàng tương mái tàu. (25)
Lần theo ngọn nước làu làu,
Gió lay chiếc cọc, thuyền mau mái chài.
(MĐMK, câu 23 - 32)

Cái hình ảnh “tròn xoay bóng thiềm” (câu 22 ở trên) cùng có nghĩa là, vào lúc đó, hình tướng của cảnh vật chung quanh đã chiếm toàn vẹn trực giác của tác giả; cảnh vật đã trở thành đối tượng của mĩ cảm thuần túy. Trong cái khoảnh khắc mà tác giả chợt cảm thấy vầng trăng viên mãn sáng lòa chiếm trọn thị giác, thì cũng là lúc tâm hồn tác giả nhập diệu vào cảnh vật. Cho nên trong phút giây quan thưởng đó, nghệ sĩ chỉ biết mình đang thấy ánh đèn thấp thoáng trong phố Khách với khói hương tỏa rộng không gian; đá nổi giữa dòng sông với muôn làn sóng nhấp nhô, khiến cho đá dường như lấp ló; sóng đập vào đá tung vãi bọt nước dưới trăng, trông khác gì mặt sông nở hoa; và tỏ rạng nhất vẫn lại là ả hằng nga sáng lòa đang trầm mình tận đáy nước. Tác giả lại nhìn lên núi Nghĩa-liệt, nơi đó, Lam-thành đang ẩn hiện trong đám khói mây mịt mù; đền Thiên-Hậu im lìm với mái dát vàng lóng lánh; và tiếng sóng nước từ xa khơi vọng lại như reo lên niềm tri ân công đức thần nhân... Tác giả hoàn toàn để hết tâm hồn vào giờ phút hiện tại. Sống với hiện tại. Đó là thế giới định thần thuần túy cảm giác, không còn xen lẫn một dục vọng hay một ý niệm trần tục nào, vượt trên mọi khái niệm, – cái còn lại chỉ là mĩ cảm kinh nghiệm của người nghệ sĩ.
Trong thế giới định thần ấy, ý thức của nghệ sĩ lại sáng tạo hình ảnh mới, làm cho mĩ cảm càng thêm phong phú:

Trong gương ai cắm cành mai,
Dưới mây ai ném một vài lưu tinh.
(MĐMK, câu 33 - 34)

Cái đẹp của mai, trăng, của mây trời và sao băng là cái đẹp tự nhiên của tạo vật. Nhưng với mĩ cảm kinh nghiệm cùng óc tưởng tượng sáng tạo dồi dào, tác giả đã làm cho cái đẹp tự nhiên của tạo vật trở thành cái đẹp nghệ thuật hóa. Xuyên qua cành mai mà thấy được vầng trăng, lại tưởng chừng như hoa mai đã được ai đem cắm vào vầng trăng đó; những vì sao băng bay vẹt qua nền trời, tưởng chừng như là những cục lân tịnh do chính bàn tay tạo hóa vừa ném xuống; vẻ đẹp ấy quả là kì diệu, thật linh động, mà chỉ có một tâm hồn thâm cảm, một sự hòa điệu sâu xa mới diễn tả được. Chính ngòi bút của tác giả đã chứng tỏ rằng tâm hồn của tác giả đã được thanh tao hóa từ lâu rồi, để lúc nào cũng sẵn sàng thu lấy bao nguồn cảm hứng.
Nghệ sĩ đã cùng thiên nhiên đồng điệu, cho nên, cũng thì bến đò Phù-thạch này đây, mà đối với cư dân ở phố Khách có thể là một nơi thị tứ, buôn bán phồn thịnh vì sự giao thông thuận tiện; đối với ngư phủ thì nơi đó hẳn là rất tiện lợi cho nghề đánh cá; đối với các sử gia và các nhà nghiên cứu văn học sử thì vùng này quả là một kho tàng vô giá về di tích lịch sửtài liệu văn học; có thể nói, đó là một thành phố nổi tiếng từ bao đời, không ai là không biết:

Phồn hoa nổi áng thị thành,
Này Phù-thạch phố là danh lịch triều.
(MĐMK, câu 35 - 36)

Nhưng đối với riêng nhà nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ thì bến Phù-thạch lúc bấy giờ chỉ là một cảnh đẹp thuần túy, một cảnh đẹp được thăng hoa để trở thành hình tướng của trực giác nghệ sĩ:

Thú phong lưu cũng ít nhiều,
Đèn chong vẻ tố, lò thiêu bụi trần. (26)
Vũng doi trải mấy xây vần, (27)
Dập dìu còn đó với xuân dễ nào.
Thảo mà cánh điệp lá đào,(28)
Đi về Vu-giáp ra vào Vũ-lăng. (29)
Một trời hoa cỏ lâng lâng,
Mơ mòng mưa Sở gió Đằng đâu đây. (30)
Chiều xuân chuốc chén vơi đầy, (31)
Thử xem người tỉnh người say mới là!
(MĐMK, câu 37 - 46)


CHÚ THÍCH

1) Trần Bích San (1838-1877) người làng Vị-xuyên, huyện Mĩ-lộc, tỉnh Nam-định, đỗ giải nguyên năm 1864, hội nguyên và đình nguyên năm 1865, được người đời kính mến và gọi là Tam Nguyên Vị Xuyên. Ông xuất chính năm 1867, làm quan đến chức tuần phủ Hà-nội. Năm 1877, ông được vua Tự-Đức (1840-1883) cử làm chánh sứ sang Pháp dự cuộc đấu xảo và cám ơn nước này đã giúp súng đạn và tàu chiến cho Việt-nam; nhưng ông đã tự tử chết trước khi lên đường, vì ông có mối thâm thù với viên toàn quyền Dupré, không muốn phải bị nhục trước viên toàn quyền này.
2) Trích trong Giai Thoại Làng Nho, tập II, của Lãng Nhân (Sài-gòn: Nam Chi tùng thư, 1964), trang 220-221.
3) Lâm Ngữ Đường: sinh năn 1895 tại tỉnh Phúc-kiến, Trung-quốc, uyên bác cả văn hóa Trung-hoa và Âu-Mĩ, là một tư tưởng gia thời cận đại của Trung-quốc mà cả thế giới đều biết tiếng.
4) Trích trong Triết Lí Văn Hóa Khái Luận của Nguyễn Đăng Thục (Sài-gòn: Văn Hóa Á Châu, 1959), trang 72.
5) Nguyễn Trãi: hiệu là Ức-Trai, người làng Nhị-khê, huyện Thượng-phúc, tỉnh Hà-đông, đỗ thái học sinh năm 1400, giữ chức chánh chưởng ở Ngự-sử-đài đời Hồ Hán Thương (1401-1406). Sau lại phò tá Bình Định vương Lê Lợi và lập được nhiều công trong suốt thời gian chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh, giành lại nền độc lập tự chủ cho nước nhà. Vua Lê Thái-tổ (1428-1433) lên ngôi, phong ông tước hầu, chức nhập nội hành khiển, liệt hàng khai quốc công thần. Năm 1439 ông xin về trí sĩ. Đến năm 1442 thì ông bị giết oan cùng với cả họ hàng vì cái án Thị Lộ; mãi đến đời vua Lê Thánh-tông (1460-1497) ông mới được minh oan.
6) Lê Thánh-tông: vua thứ tư nhà Hậu-Lê, tên là Tư Thành, con thứ tư của vua Lê Thái-tông (1434-1442).
7) Nguyễn Khuyến: hiệu Quế Sơn, người làng Yên-đỗ, huyện Bình-lục, tỉnh Hà-nam, đỗ tam nguyên năm 1871, làm quan đến chức tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Năm 1885 ông về hưu, mở trường dạy học, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc mất.
8) Cao Bá Quát: hiệu là Chu Thần, người làng Phú-thị, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, đỗ cử nhân năm 1831. Ông là người tài giỏi, từng được ca tụng là “thần Siêu, thánh Quát”, nhưng bởi tính tình quá tự phụ, kiêu ngạo, không ai chịu nổi, nên quan trường cứ lận đận mãi. Ông thất chí, kết đảng với Lê Duy Cự (dòng dõi nhà Lê) chống lại triều đình, bị kết án phản loạn và bị xử chém cùng với cả họ hàng.
9) Tản Đà: tên là Nguyễn Khắc Hiếu, người xã Khê-thượng, huyện Bất-bạt, tỉnh Sơn-tây. Ông thuở nhỏ theo nho học nhưng dự mấy khoa thi hương đều không đỗ, bèn quyết chí rèn luyện chữ quốc-ngữ, và đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng, làm cái gạch nối giữa hai nền giáo dục “cũ” và “mới” ở đầu thế kỉ 20.
10) La Sơn Phu Tử: tên là Nguyễn Thiếp (1723-1804), tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am, người xã Nguyệt-ao, huyện La-sơn, tỉnh Hà-tĩnh, thường được người đời xưng là La Sơn Phu Tử. Ông đỗ tiến sĩ năm 1748, làm quan dưới triều vua Lê Hiển-tông (1740-1786). Năm 1786 ông xin về trí sĩ. Về sau, vua Quang Trung (1788-1792) kính tài, vời ông ra tham chính mấy lần nhưng ông đều từ chối. Tuy không dùng được ông, nhưng nhà vua lúc nào cũng tôn kính ông như bậc thầy. Ông là một nhà nho bác học, tính tình nghệ sĩ, phong cách thanh cao, không ham danh lợi, rất được mọi người kính trọng.
11) Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử (Paris: Minh Tâm, 1952), trang 44-45.
12) Tháng Dần: tức là tháng Giêng âm lịch.
13) Giữa tuần tròn trăng: theo âm lịch, mỗi tháng có ba tuần: thượng tuần (từ ngày Mồng 1 đến ngày Mồng 10); trung tuần (từ ngày 11 đến ngày 20); và hạ tuần (từ ngày 21 đến ngày cuối tháng). Ngày trăng tròn – tức ngày Rằm – luôn luôn là ngày giữa (ngày 15) của tuần giữa (trung tuần).
14) Ngày Khai-hạ: Nguyên văn trong bài tựa chữ Hán của tác giả viết là “nhân nhật”, tức là ngày Mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Giáo sư Toan Ánh có nói về ngày này trong quyển Tín Ngưỡng Việt Nam (Quyển hạ. Sài-gòn: Nam Chi tùng thư, 1968) như sau: “Theo tục lệ Việt-nam, ngày Mồng 7 tháng Giêng là ngày lễ Hạ-nêu (......) Lễ Hạ-nêu còn gọi là lễ Khai-hạ, mọi công việc thường xuyên, người ta chỉ bắt đầu lại sau ngày lễ này (......) Lễ Khai-hạ, người Trung-hoa gọi là lễ Nhân-nhật, nghĩa là ngày của Người. Theo sách Phương Sóc Chiêm Thú thì tám ngày đầu năm, mỗi ngày thuộc riêng về một giống: Mồng 1 thuộc giống Gà; Mồng 2 thuộc giống Chó; Mồng 3 thuộc giống Lợn; Mồng 4 thuộc giống Dê; Mồng 5 thuộc giống Trâu; Mồng 6 thuộc giống Ngựa; Mồng 7 thuộc giống Người (nên được gọi là Nhân-nhật); Mồng 8 thuộc giống Thóc. Nhân ngày Nhân-nhật là ngày của giống Người, người ta làm lễ cúng trời đất để đánh dấu ngày đó...” (Trang 335-338)
15) Thắng du: cuộc ngoạn du thích thú. - Quan đăng: xem thả đèn trên sông.
16) Non Liễu: tức núi Chung-sơn. - Băng chừng: chữ “chừng” nghĩa là mức độ, giới hạn; ở đây chỉ cho cái gì giống như là bờ rào, bức tường hoa, hay bờ cỏ, tạo một khoảng cách từ chỗ này sang chỗ kia; “băng chưừg” nghĩa là vượt qua chừng mà tiến tới.
17) Cơn mưa rửa tuyết: Sau cơn mưa trời trong, quang đãng. - Hà: ráng trời, tức là hơi mây có ánh mặt trời chiếu ngang, hiện ra các màu rực rỡ, thường thấy vào lúc mặt trời mọc hay mặt trời lặn. - Cuốn mây: chữ “cuốn” ở đây tức là chữ “quén”, có nghĩa là vén lên; ý nói, sau cơn mưa thì mây đen tan hết, chỉ còn lại rán chiều.
18) Rừng Đông: tức núi Hồng-lĩnh (ở phía Đông bến Phù-thạch). Bóng Thiềm: mặt trăng. Chữ “thiềm” nghĩa là con cóc; trong mặt trăng có bóng đen trông giống như con cóc.
18) Hương xạ, khói tùng: khói và mùi thơm của nhang.
19) Lửa: chỉ cho các ngọn đèn trong phố Phù-thạch.
20) Hương xạ: chất thơm lấy từ rún của một loài chồn. - Khói tùng : khói đuốc làm bằng nhựa thông.
21) Hoa sóng: sóng tung bọt trông như hoa. - Gương nga: mặt trăng.
22) Thành: tức thành Lam trên núi Nghĩa-liệt. - Xây lấp yên hà: khói mây bao phủ làm cho thành Lam chỗ ẩn chỗ hiện.
23) Trên đỉnh núi còn dấu tích nền của cột cờ, nhưng cán cờ thì chẳng thấy đâu, chỉ toàn là bụi và sương.
24) Đền: Theo giáo sư Nghiêm Toản thì “đền” ở đây là đền thờ bà Thiên Hậu của người Hoa.
25) Bể reo: Trong bản in năm 1971 (nhà Sông Nhị, Hà-nội), chữ “bể reo” được viết là “bể Liêu”, và được giáo sư Nghiêm Toản đã giải thích: “Tên bể ở gần bờ bán đảo Liêu-đông, nếu cắt theo nghĩa đen. – Ở đây bể Liêu chỉ nên hiểu rộng là bể, hoặc là bể Đông...” Bản in này (Trường Thi) viết là “bể reo”, và sau khi lặp lại lời giải thích trên, giáo sư Nghiêm Toản nói thêm: “Nhưng tôi đoán đó là bể reo, nghĩa là tiếng sóng bể từ xa đưa lại như tiếng reo, ca tụng công bà Sơn Hậu che chở người đi bể.” - Mái tàu: mái nhà, ở đây tức là mái đền Thiên Hậu. - Vàng tương mái tàu: mái đền được dân chúng thếp vàng.
26) Cả câu này có nghĩa là: ánh đèn sáng mát, đẹp đẽ, và hương trầm xông tỏa làm tan mọi dục vọng trần tục.
27) Vũng: chỗ trũng giữa đồng hay trên mặt đất có nước đọng, hoặc nơi bờ biển sâu tàu có thể đậu được. - Doi: khoảnh đất gie ra sông hay biển. Câu này có ý nói về sự đổi thay vô thường của cảnh vật: doi biến thành vũng; vũng biến thành doi.
28) Thảo mà: thảo nào, hèn chi. - Cánh điệp: cánh bướm. Sách Trang Tử, thiên “Tề Vật Luận” nói rằng, một hôm nọ Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa làm bướm, bay lượn thích thú, đến khi thức dậy mà lòng vẫn còn nghi hoặc, không biết mình là bướm hay bướm là mình. - Lá đào: rừng hoa đào. Bài “Đào Hoa Nguyên Kí” của Đào Tiềm kể chuyện một người đánh cá chèo thuyền ngược dòng sông, hai bên bờ toàn là rừng đào, rồi lạc vào một cái động gọi là Đào-nguyên, trong đó mọi người đều sống thanh bình, an vui, hạnh phúc, tách biệt hẳn với thế giới trần tục ở bên ngoài.
29) Vu-giáp: núi Vu-giáp, thuộc tỉnh Tứ-xuyên, Trung-quốc. Bài “Cao Đường Phú” của Tống Ngọc nói rằng, vua Tương vương nước Sở cùng với Tống Ngọc dạo chơi đầm Vân-mộng. Vua nhìn lên quán Cao-đường thấy đầy hơi mây. Vua hỏi hơi gì thế, Tống Ngọc tâu rằng, ngày trước tiên vương (tức Sở Hoài vương) cũng thường ra chơi ở Cao-đường, một hôm nằm ngủ, mộng thấy cùng ân ái với một người đàn bà đẹp, hỏi thì nàng ấy xưng là nữ thần núi Vu-giáp, thường hay làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều ở Dương-đài. Do đó, người đời sau thường dùng những chữ “Vu-giáp, Dương-đài, mưa Sở, hay mây mưa” để chỉ cho sự đi lại của trai gái. - Vũ-lăng: đất Vũ-lăng thuộc tỉnh Hồ-nam, Trung-quốc, nơi xảy ra câu chuyện được ghi trong bài “Đào Hoa Nguyên Kí” của Đào Tiềm (chú thích số 28 ở trên).
30) Mơ mòng: mơ ước. - Mưa Sở: xin xem lại chú thích số 29 ở trên. - Gió Đằng: gió đưa đến gác Đằng vương; ý chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Vương Bột (648-675) đời Đường (618-907), mới 6 tuổi đã biết làm văn, đến 16 tuổi thì nổi tiếng khắp thiên hạ. Một hôm, quan đô đốc ở Hồng-châu đặt tiệc tại gác Đằng vương, mời danh sĩ bốn phương tới tham dự, và yêu cầu mỗi người phải làm một bài “tự” ngay trong bữa tiệc. Vương Bột – lúc đó khoảng 15 tuổi – muốn đến tham dự, nhưng vì ở xa quá nên ngần ngại. Một ông già biết thế, khuyên chàng cứ mạnh dạn sửa soạn thuyền buồm chèo đi, tự nhiên sẽ có gió thổi giúp thuyền đi nhanh. Quả nhiên, khi chàng cho thuyền khởi hành thì có gió lớn thổi đi vùn vụt, đến gác Đằng vương vừa kịp lúc nhập tiệc. Trong tiệc, chàng làm bài “Đằng Vương Các Tự”, ai xem cũng đều kinh hãi, cho chàng là bậc thiên tài. Từ đó, danh của Vương Bột vang dậy khắp nơi. Do câu chuyện trên mà có câu: “Thời lai, phong tống Đằng vương các”, nghĩa là, gặp lúc thời vận tốt nên được gió đưa đến gác Đằng vương. – Những từ “cánh điệp, lá đào, Vu-giáp, Vũ-lăng, mưa Sở, gió Đằng” trong các câu 41, 42, 43 và 44 đều ngầm ý chỉ cho thắng cảnh Phù-thạch có sức thu hút mạnh mẽ đối với văn nhân nghệ sĩ, ai cũng muốn tới đó để hưởng thú thần tiên.
31) Chiều xuân: chiều theo ý mời mọc của mùa xuân.

 

Chương 5: Mình Với Ta Tuy Hai Mà Một

 

Nếu cái bầu khí huyền diệu, tĩnh mịch của ban đêm đã du hồn nghệ sĩ vào cõi thâm sâu vô tận trong lòng vũ trụ, thì cái cảnh sắc rực rỡ muôn màu, cái dáng vẻ hùng vĩ lẫm liệt của thiên nhiên lúc ban ngày sẽ dẫn cảm quan nghệ sĩ đi vào chiều rộng bao la của trời đất. Vũ trụ mênh mông, dễ ai có thể đi cùng khắp để biết rằng trời đất là một hòa điệu đại đồng! Duy có nghệ sĩ, dù bước chân không trải khắp không gian, nhưng chỉ một tâm hồn vô tư, vô dục, là có thể hòa nhập vào với vũ trụ đại đồng. Giữa con ngườivũ trụ có điểm cộng thông, giữa NGÃ và VẬT có mối liên hệ “đồng đồng vãng lai”, như Trang Tử(1) đã nói: “Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất.”(2) (Trời đất với ta cùng tồn tại, muôn vật với ta là một thể đồng nhất.)
từ ý nghĩa đó, Trang Tử đã thuật câu chuyện ngụ ngôn như sau:

“Trang Tử cùng Huệ Tử đứng chơi trên cầu sông Hào. Trang Tử nói:
– Đàn cá bạc đang bơi lội thung dung, đó là vì cá vui vẻ vậy.
Huệ Tử hỏi:
– Ông không phải là cá, làm sao biết được cá vui?
Trang Tử hỏi lại:
– Ông không phải là tôi thì làm sao ông biết được tôi không biết cá vui?
Huệ Tử trả lời:
– Tôi không phải là ông, cố nhiên tôi không thể biết được tâm ông. Cũng vậy, ông không phải là cá, tất nhiên ông không thể biết được cái vui của cá. Thực không còn nghi ngờ gì nữa!
Trang Tử nói:
Chúng ta hãy trở lại từ đầu câu chuyện! Ông đã hỏi tôi làm sao biết được cá vui. Nếu tìm bản ý của câu hỏi ấy thì rõ là ông đã biết rằng tôi có biết cái vui của cá, rồi ông mới lại hỏi tôi để biết rằng do đâu mà tôi biết được cá vui; thì đây, tôi xin trả lời: chính lúc tôi đứng chơi trên cầu sông Hào mà biết được vậy.”(3) (HC dịch)

Trong câu chuyện ngụ ngôn trên, Trang Tử muốn nói: Ta đi chơi trên cầu sông Hào mà lòng thấy vui vẻ thì ắt hẳn rằng đàn cá lội tung tăng ở dưới nước kia cũng đang vui vẻ như ta; – nghĩa là Trang Tử tin rằng, không có sự phân biệt giữa vật và ngã (vật ngã đồng nhất), tương tự như ý nghĩa mấy câu thơ sau đây của Tản Đà:

Người đâu cũng giống đa tình,
Ngỡ là ai, lại là mình với ta.
Mình với ta, dẫu hai nhưng một;
Ta với mình, sao một mà hai?
(Nói Chuyện Với Ảnh)

Dù mỗi cá nhân chỉ tự biết mình trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng giữa ta với người, giữa ta với vật vốn có điểm cộng đồng, cho nên ta mới dùng những kinh nghiệm của chính bản thân để cảm thông với người và vật. Nếu Trang Tử chỉ là Trang Tử, cá chỉ là cá, cũng như nếu người chỉ là người mà vật chỉ là vật, hoàn toàn cách biệt, không có một điểm tương thông, thì vũ trụ này chỉ là một mớ hỗn độn gồm vô số thế giới độc lập, cô đơn; còn đâu là điều lí tương sinh, còn đâu là hòa điệu đại đồng, còn đâu là trần ai tri kỉ! Cho nên nghệ sĩ chân chính là hạng người hơn ai hết đã đạt được cái tâm hồn hòa điệu đó; – và cái tâm hồn hòa điệu đó chính là mĩ cảm kinh nghiệm, là tác dụng di tình của tâm lí nghệ sĩ. Một khi mĩ cảm kinh nghiệm được phát triển đến mức tuyệt diệu, viên mãn, thì vũ trụ gồm chứa trọn vẹn trong tâm hồn ta; vạn vật và ta không ngoài nhau mà có. Đó là ý nghĩa của một giai thoại sau đây về Bá Nha(4), đã được một văn hào Nhật-bản, ông Okakura Kakuzo, viết trong tác phẩm nổi tiếng của ông: The Book Of Tea:

“Ngày xưa trong rừng núi Long-môn có một cây ngô-đồng đứng sừng sững như một ông vua rừng vậy. Nó ngửng đầu lên nói chuyện với tinh tú; rễ đâm sâu xuống dưới âm ti, cuốn trộn lẫn lộn với tóc rồng bạc ngủ bên trong lòng đất. Chợt có một đạo sĩ cao cường đi qua chặt lấy cây ấy làm thành cây đàn kì lạ, mà bản tính chỉ phải nhạc sư cao tay mới làm chủ nổi. Từ lâu cây đàn được giấu kín trong kho tàng nhà vua, mọi người lần lượt hết sức thử gẩy mà hoàn toàn không thành điệu. Nó chỉ đáp lên bằng những âm thanh khinh bỉ xé tai, không hòa nhịp với những lời ca người ta mơ tưởng hát lên. Cây đàn không nhận họ là chủ của nó.
Sau cùng đến Bá Nha, ông vua đàn danh tiếng, với ngón tay nhẹ nhàng, y vuốt ve cây đàn như vuốt ve con ngựa bất kham, rồi nhẹ nhàng chạm vào dây đàn. Ông ca hát trời đất bốn mùa, cao sơn, lưu thủy, và bấy giờ tất cả tiềm thức của cây ngô-đồng tỉnh dậy. Gió xuân lại hiu hiu đùa cợt trong cành lá. Dòng thác đổ xuống sườn núi như cười vui với cỏ hoa. Kế đến tiếng nói mơ màng của mùa hạ nổi lên với tất cả côn trùng, tiếng rì rào ngọt ngào của hạt mưa sa, giọng thở than của con chim gáy. Kìa tiếng hổ gầm, tiếng vọng lại của hang núi. Đây đến mùa thu, trong đêm thu vắng vẻ, ánh trăng thu sắc như gươm, lóng lánh trên ngọn cỏ đọng sương. Rồi thì mùa đông dưới màn tuyết phủ đầy trời, bầy thiên nga lượn múa với những hạt mưa đá đập lạch tạch vào cành khô với sự thích thú kiêu căng.
Rồi Bá Nha đổi điệu và hát khúc hát tình yêu. Rừng cây rung động như một tình nhân ngây ngất mơ màng. Trên cao, một đám mây nổi sáng đẹp như một thiếu nữ kiêu hãnh lướt qua để lại đàng sau hình bóng lê thê dưới mặt đất, đen ngòm thất vọng. Rồi điệu đàn lại chuyển biến, Ba Nha gẩy lên điệu chiến tranh, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Và trên dây đàn nổi lên bão tố Long-môn, rồng bay chớp bể, tuyết đổ núi băng.
Thích thú cực độ, nhà vua hỏi Bá Nha ở đâu có cái bí quyết của sự thành công như thế. Bá Nha liền thưa: Tâu bệ hạ, kẻ khác thất bại vì họ ca cái mình họ, còn hạ thần phó mặc cho cây đàn chọn lấy điệu hát của nó, không còn biết thật có phải cây đàn đã biến thành Bá Nha hay Bá Nha biến ra cây đàn.”(5)

Đó là nguồn năng sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ chân tài, đã phát huy tận cùng mĩ cảm kinh nghiệm. Do đó mà các nghệ sĩ Đạo gia đều khẳng định rằng tất cả những tác phẩm của họ đều là kết quả của trực giác thuần túy; và họ đã truyền quan điểm mĩ học cho nhau từ đời nọ sang đời kia như một cái gì hết sức thần bí.
Đến như nghệ sĩ nước ta, từ các thiền sư, đạo sĩ các đời Lí, Trần đến Lê, Nguyễn, cũng cùng trong cái tâm hồn hòa điệu “vật ngã đồng nhất” đó mà tạo ra những sáng tác bất hủ. Và nguồn mĩ cảm ấy cũng đã là nguồn sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Hổ ở đây:

Dã men, vừa sánh giọng trà,(6)
Nhà lan treo tháp, doành la xuống thuyền.(7)
Gió xuân rút cánh buồm duyên,
Thiều quang chín chục, vân yên một chèo.(8)
Bến tình nhẹ nhổ con neo,
Đầu mui yến vấn, mạn chèo oanh đưa.(9)
Thảnh thơi bầu rượu túi thơ,
Ngón cầm khiển hứng, nước cờ giải mê.
Não nùng vượn suối hoa khe,
Với người dường có vả vê chữ tình.(10)
(MĐMK, câu 47 - 56)

Thuyền tác giả ngược dòng sông Lam vào buổi sáng mùa xuân. Giữa cảnh trời nước mênh mông, khí xuân ấm áp, gió xuân phơi phới, chung quanh nào én, nào oanh, nào hoa, nào vượn..., tác giả đã hoàn toàn đắm mình trong mĩ cảm, mê li vào cảnh giới thoát trần. Tác giả yêu cảnh, yêu vật; mà cảnh và vật đối với tác giả cũng tỏ tình quyến luyến đậm đà. Thích thú của tác giả cùng với én, oanh, hoa, vượn... gặp gỡ cảm sinh; tình người, tình vật “đồng đồng vãng lai”.

Phong quang tám bức vén tranh:(11)
Bình non mượn khắm, gương doành lét tô;(12)
Bến Nam liễu bá con đò;(13)
Mảnh mây viễn phố; cánh cò hàn sa;(14)
Ngàn Đông khói lẫn lạc hà;(15)
Giọt mưa cổ thụ, tiếng gà cô thôn;(16)
Vó câu pha gió nhẹ bon;(17)
Bên lầu Bắc hỏi hoàng hôn địch nào.(18)
Trời Tây bóng hạc non sào,(19)
Đường rêu khách quạnh ruổi vào Thiên-thai.(20)
(MĐMK, câu 57 - 66)

Nhìn lên núi cao thì cây cối um tùm, và trông núi như một chiếc độc bình vĩ đại, có thể cắm hết cả cây rừng tươi tốt; ngó xuống dòng sông thì mặt nước trong xanh phẳng lì như chiếc gương to lớn có thể soi cả bầu trời. Trải mắt rộng ra bốn phương, phong cảnh bày ra như những bức tranh sơn thủy. Đây không phải là những cảnh ước lệ do tác giả bắt chước theo “Tiêu Tương Bát Cảnh" của người danh họa Trung-hoa để tả cảnh Việt-nam, nhưng thật ra, đó chính là kinh nghiệm mĩ cảm của tác giả. Tám cảnh vùng Tiêu-Tương (Trung-hoa) quả là bức tranh tuyệt đẹp mà nghệ sĩ khi quan thưởng đã mê li vào đó để thu hóa thành hình tướng cho trực giác; mà khi nó đã là hình tướng của trực giác thì cảnh đạp đâu còn là của Tàu, của Tây, hay của Việt-nam! Và chính trong khi ngắm cảnh sắc chung quanh vùng sông Lam, Nguyễn Huy Hổ cũng đã thoát ra ngoài những khái niệm về phạm vi, ranh giới; trong phút định thần, nghệ sĩ chỉ có mỗi ý tượng của cảnh đẹp đã thâm nhập tràn đầy mĩ cảm; và các bức tranh kia đã được diễn tả như một nét tượng trưng cho hình tướng trực giác của mình. Cho nên tiếp theo đó, tác giả lại diễn tả đến bốn hoạt cảnh ngư, tiều, canh, mục nơi chốn lâm tuyền, cũng là để nói lên cái nếp sống an nhàn, cái thú vị ẩn dật của kẻ đạt quan mà hiện tại tác giả đang sống vô cùng thích thú:

No xem góc bể chân trời,(21)
Một xuân biết mấy mươi nơi dập dìu.
Đòi nơi giốc mục, ca tiều,(22)
Cần hôm mấy cán, tơi chiều nửa manh.(23)
Thảnh thơi gió mát trăng thanh,
Nào đầm Đồng-lại, nọ ghềnh Bàn-khê.(24)
(MĐMK, câu 67 - 72)

Cái thích thú ngao du sơn thủy là cái thích thú thanh cao của người nghệ sĩ chân chính, khác với những khoái cảm dục vọng của tục nhân. Cho nên trong lúc thuyền bồng bềnh giữa “phong quang tám bức vén tranh” mà Nguyễn Huy Hổ tưởng như mình chính là Lưu Thần, Nguyễn Triệu đang lạc lối vào cõi Thiên-thai; đang khi say sưa trong thú vui ẩn dật mà tưởng mình như Nghiêm Tử Lăng(25) đang ngồi câu cá nơi đầm Đồng-lại, hay Khương Tử Nha(26) ôm cần đợi cá nơi ghềnh Bàn-khê.
Lúc này trời đã vào đêm. Trăng mười-sáu lên rất sớm, tròn đầy sáng rỡ. Và giữa cảnh trời trăng sông núi ấy, cái thích thú của tác giả có khác nào cái thích thú của Tô Đông Pha(27) bơi thuyền dạo chơi trên sông Xích-bích(28) ngày nào...

Mảng vui sào cạy mái phê, (29)
Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu. (30)
Nài xuân chén những kèo mau, (31)
Tưởng duyên kì ngộ ngâm câu Vị-đường. (32)
Này này quế trạo lan tương, (33)
Ví đua Xích-bích chi nhường Đông-Pha.
(MĐMK, câu 73 - 78)

Ngày xưa Tô Đông Pha cũng từng bơi thuyền trên sông rộng giữa một đêm trăng. Trước cảnh đẹp thiên nhiên có trăng sáng trên đầu, núi cao hùng vĩ trước mắt, với con thuyền bềnh bồng trên mặt nước lóng lánh phản chiếu ánh trăng, người nghệ sĩ họ Tô đã cảm xúc bồi hồi, để rồi sáng tác nên bài phú “Tiền Xích Bích”, và chính nó đã ảnh hưởng đến nguồn mĩ cảm của Nguyễn Huy Hổ lúc này thật sâu đậm. Nhân tiện, chúng tôi xin dịch bài ấy ra đây để chúng ta cùng thưởng thức, hầu có thể cảm thông được với mối xúc cảm của người nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ độ nào trên sông nước Lam-giang:

Ngày Rằm tháng Bảy mùa thu năm Nhâm-Tuất(34), tôi cùng với bạn chèo thuyền dạo chơi ở chân núi Xích-bích. Gió mát thổi nhẹ, mặt sông phẳng lì, cầm chén rượu mời ạn cùng uống, ngâm bài thơ “Minh Nguyệt”, và hát chương “Yểu Điệu”(35). Một lát sau, trăng mọc trên đỉnh núi phía Đông, đi lững thững trong khoảng giữa sao Ngưu, sao Đẩu. Sương tỏa mặt sông, ánh sáng phản chiếu từ mặt nước trông như tiếp với bầu trời. Lúc đó, mặc tình cho chiếc thuyền con muốn đi đâu thì đi, bồng bềnh trên mặt nước mênh mông, lồng lộng như cưỡi gió nương mây, nào biết đâu là nơi sẽ đến; hớn hở như người quên đời chỉ sống một mình, như mọc cánh mà bay lên tiên. Vì thế mà uống rượu vui lắm, rồi gõ vào mạn thuyền mà hát. Hát rằng:
Bềnh bồng thuyền quế chèo lan,
Mặt sông lấp lánh, ánh trăng lưng trời.
Nhớ nhung lòng những bồi hồi,
Ngóng trông người đẹp phương trời xa xăm.
Bạn biết thổi sáo, bèn theo lời ca của tôi mà hòa điệu. Tiếng nghe não nùng như sầu như thảm, rên rỉ như khóc như than; dư âm lanh lảnh, nghe nhỏ như sợi tơ chưa đứt, làm khích động con giao long đang nằm trong hang tối cũng phải múa may, mà người thiếu phụ thủ tiết ở một chiếc thuyền cô quạnh đâu đây cũng phải sụt sùi vì xúc động.
Tôi rầu rầu nét mặt, sửa lại vạt áo, ngồi ngay ngắn và hỏi bạn rằng:
– Vì sao lại có tiếng não nùng đến thế?
Bạn đáp:
– Câu “Trăng sáng sao thưa, quạ bay về Nam”, há chẳng phải là thơ của Tào Mạnh Đức(36) ư? Nhìn về Hạ-khẩu ở phía Tây, trông sang Vũ-xương ở phía Đông, sông núi uốn khúc quấn lấy nhau, cây cối um tùm, đó chẳng phải là nơi Tào Mạnh Đức bị khốn bởi Chu Du ư? Vừa khi phá đất Kinh-châu, xuống thành Giang-lăng, rồi thuận dòng tiến sang mặt Đông, chiến thuyền liền nhau hàng vạn dặm, cờ xí rợp trời, Tào Mạnh Đức đứng trên mặt sông, tay nâng cao chén rượu, tay cầm ngang ngọn giáo mà ngâm lên câu thơ; thực là bậc anh hùng một thời, mà nay thì ở đâu! Huống chi tôi với bác đánh cá kiếm củi ở trên bến sông này, kết bạn cùng tôm cá, vui chơi với hươu nai, bơi một chiếc thuyền con, mời nhau chén rượu, gửi thân phù du ở trong trời đất, xem ta nhỏ nhặt như một hạt thóc ở trong bể xanh; cảm thương cho kiếp sống ngắn ngủi của ta mà mến mộ con sông Trường-giang(37) dài vô cùng; những muốn được cùng tiên bay đi rong chơi sung sướng, ôm trăng sáng mà sống trọn đời, nhưng tôi biết không thể trong phút chốcđạt được sở nguyện, cho nên đành gửi tiếng lòng trong cơn gió thoảng!
Tôi nói:
– Thế bác có biết nước và trăng không? Nước chảy thế kia mà chưa từng đi bao giờ, mặt trăng khi tròn khi khuyết nhưng chưa có lúc nào thêm bớt; bởi vì, nếu ta lấy cái tâm biến đổi mà nhìn thì thực tại vũ trụ chẳng qua chỉ ở trong một cái chớp mắt, và nếu lấy cái tâm không biến đổi mà nhìn thì muôn vật cùng với ta đều không bao giờ cùng tận. Như vậy thì có gì để bác phải bận tâm! Vả lại, trong trời đất, mỗi vật đều có chủ, nếu không phải là của ta thì dù chỉ là vật nhỏ như sợi lông, ta cũng không lấy. Chỉ có gió mát trên sông, trăng sáng đầu núi, tai nghe nên tiếng, mắt thấy nên hình, lấy không ai ngăn cấm, dùng không bao giờ hết; đó mới thật là cái kho vô tận của tạo hóa, mà cũng là cái thú vui chung của bác với tôi.
Bạn nghe vậy vui cười thích thú, lại tiếp tục uống rượu. Khi thức ăn đã hết, chén bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu ngủ trong thuyền, phương Đông đã sáng bạch lúc nào không biết!(38) (HC dịch)

Xưa kia Tào Tháo đóng quân trên sông Xích-bích, giữa cảnh trời trăng sông núi, bất giác tâm hồn phiêu diêu trước cảnh đẹp, liền uống rượu cho say, rồi cầm ngang ngọn giáo đứng ở mũi thuyền mà ngâm thơ; ai dám bảo là trong con người vị võ tướng kia không có tâm hồn nghệ sĩ! Và chính trong cái phút định thần đó, Tào Tháo vì đã mê li vào cảnh đẹp, quên mình vào thiên nhiên, đâu còn nhớ đến lục thao tam lược là gì, cũng đâu còn nghĩ đến kẻ địch đang rình rập chờ thời cơ đánh úp! – Và có lẽ vì vậy mà cả đạo thủy quân với hàng vạn chiến thuyền của ông đã phải tan tành nơi sông Xích-bích do trận hỏa công của bộ tham mưu Gia Cát Lượng và Chu Du chăng? Biết đâu được!
Tâm hồn nghệ sĩ dễ cảm thông nhau. Vì vậyTô Đông Pha đã vô cùng cảm khái với trạng thái xuất thần lúc bấy giờ của Tào Mạnh Đức, đã kéo núi sông Xích-bích có dấu vết của Tào ở Gia-ngư đến giao lưu, nhập một với núi sông Xích-bích Hoàng-châu mà mình đang thả thuyền rong chơi trên đó. Và cũng với mĩ cảm trước núi cao trăng sáng, gió mát sông dài, Tô Đông Pha đã hứng khởi làm nên bài phú vừa uy nghi hào hùng, vừa mơ màng huyền ảo. Rồi ở nơi đây, cũng cùng trong mĩ cảm đó, Nguyễn Huy Hổ đã bắt gặp Tô Tử trên dòng sông Lam ở cõi trời Nam xa hàng vạn dặm và cách nhau hàng tám thế kỉ về sau...


CHÚ THÍCH

1) Trang Tử: tên là Trang Chu, người nước Tống, sống trong khoảng 370-298 tr. TL (cùng thời với Mạnh Tử). Ông là một triết gia nổi tiếng thời Chiến-quốc (403-221 tr, TL). Tư tưởng của ông liên quan mật thiết với tư tưởng của Lão Tử (sống vào khoảng 570-490 tr. TL), cho nên từ cuối đời nhà Hán (202 tr. TL - 220 s, TL), danh từ kép “LÃO-TRANG” đã được thông dụng trong giới học giả Trung-quốc. Bộ Đạo Đức Kinh của Lão Tử và bộ Nam Hoa Kinh của Trang Tử được coi là những bộ sách chủ yếu của Đạo gia.
2) Sách Trang Tử, thiên “Tề Vật Luận”.
3) Trích dịch từ sách Trang Tử, thiên “Thu Thủy”.
4) Bá Nha: người nước Tống, thời Xuân-thu (770-476 tr. TL), làm quan đến chức thượng đại phu. Ông có tài gảy đàn xuất chúng, thường phàn nàn trong thiên hạ chưa có ai thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một đêm kia, khi đi sứ nước Sở trở về, gặp đêm trăng sáng, ông cho quân kéo thuyền vào bờ sông Hàm-dương nghỉ ngơi, rồi lấy đàn ra gảy. Nhân đó ông được gặp Tử Kì, một người dân quê địa phương, trẻ tuổi, nghèo khổ, nhưng biết thưởng thức tiếng đàn tuyệt diệu của ông. Chẳng những biết thưởng thức, Tử Kì còn thấu rõ cả nội tâm của ông trong lúc gảy đàn. Ông khâm phục và quí mến vô cùng, bèn cùng Tử Kì kết làm bạn tri âm. Sau đêm đó hai người chia tay, hẹn năm sau sẽ gặp lại. Đúng một năm sau, ông trở lại chỗ cũ thì mới hay Tử Kì đã chết rồi! Ông tìm đến mộ bạn, bày đồ tế lễ, khóc thương thảm thiết, rồi lấy đàn ra gảy bản ai điếu thật bi thương; và đó cũng là lần gảy đàn cuối cùng của đời ông, vì sau đó ông đã đập bể cây đàn, thề trọn đời không gảy đàn nữa, vì bạn tri âm đã không còn!
5) Trích bài dịch của giáo sư Nguyễn Đăng Thục trong Lịch Sử Triết Học Đông Phương, tập V (Sài-gòn: Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1964), trang 79-80.
6) Dã men: tan hết chất rượu trong người. - Sánh: hết cạn, không còn một giọt. - Giọng trà: vị trà. – Cả câu ý nói: đã tỉnh rượu và cũng vừa uống xong tách trà.
7) Nhà lan: nhà trồng lan; lời đẹp để chỉ cho nhà bà con hoặc bạn thân. - Treo tháp: treo giường lên, ý nói giường không dùng thì treo lên để cất, khi nào có khách đến thì lại bỏ xuống cho khách nằm. Vậy, “treo tháp” ở đây có nghĩa là tiễn khách ra đi. - Doành la: mặt sông phẳng lì như tấm lụa.
8) Thiều quang: ánh sáng đẹp của mùa xuân. Thiều quang chín chục: 3 tháng xuân. - Vân yên: mây khói, ý nói đi xa.
9) Mai: mui thuyền. - Yến vấn: chim én bay quấn quít như chào hỏi. - Oanh đưa: chim oanh đưa tiễn. Yến oanh là những giống chim của mùa xuân. Câu này ý nói chim bay lượn quanh thuyền.
10) Vả vê: thích, muốn, quyến luyến.
11) Phong quang: ánh sáng của gió. Gió vốn không có ánh sáng, nhưng cành lá cỏ cây thì có ánh sáng mặt trời chiếu rọi, gió thổi qua làm mọi thứ rung động, lung linh, cứ tưởnh như là chính gió có ánh sáng. Câu này có nghĩa là phong cảnh chung quanh đẹp như tám bức tranh. Tương truyền, Tống Địch (Trung-hoa) là một họa sĩ đại tài, nổi tiếng nhất có bộ tranh sơn thủy gồm tám bức, vẽ tám cảnh đẹp ở miền sông Tiêu-Tương, gọi là “Tiêu Tương Bát Cảnh”, rất được truyền tụng: 1. Bình sa lạc nhạn (đàn chim nhạn đáp xuống bãi cát bằng phẳng); 2. Viễn phố qui phàm (thuyền trở về ở một bến sông xa); 3. Sơn thị tình lam (cảnh chợ bên chân núi khi khói núi đã tan); 4. Giang thiên mộ tuyết (tuyết rơi trên sông lúc về chiều); 5. Động-đình thu nguyệt (trăng thu trên hồ Động-đình); 6. Tiêu-Tương dạ vũ (mưa đêm trên sông Tiêu-Tương); 7. Ngư thôn tịch chiếu (cảnh trời chiều nơi xóm chài); 8. Yên tự vãng chung (tiếng chuông chùa tan trong khói chiều).
12) Khắm: nguyên chữ “khắm” có nghĩa là mùi hôi thum thủm, nhưng ở đây, theo hai giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toản thì nó có nghĩa là “cắm”. Bình non mượn khắm: quả núi trông như một chiếc bình lớn dùng để cắm tất cả cây cối mọc nơi ấy. - Lét: liếc, nhìn trộm. Gương doành lét tô: mặt sông phẳng lì trông như được tráng một lớp gương, có thể nhìn mà tô điểm được.
13) Bá: bám, ôm.
14) Viễn phố: bến ở đằng xa. - Hàn sa: bãi cát quạnh hiu, lạnh lẽo.
15) Ngàn: chốn rừng núi thâm u. - Lạc hà: ráng trời đang tan dần.
16) Cổ thụ: cây sống đã lâu đời. - Cô thôn: làng xóm hẻo lánh.
17) Vó câu: vó ngựa. - Pha: lướt qua. - Bon: nhanh.
18) Bên lầu Bắc hỏi: Ấn bản năm 1951 (Sông Nhị, Hà-nội) viết là: “Bên lầu thử hỏi”. Theo tự dạng chữ Nôm thì hai chữ “bắc” và “thử” trông giống nhau. Theo chúng tôi thì chữ “bắc” đúng hơn, vì nó hợp ý với toàn đoạn này, là tác giả đang tả cảnh chung quanh, đủ cả bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. - Địch: ống sáo.
19) Bóng hạc: “Hạc” là chim hạc, tượng trưng cho sự sống lâu. Theo ý tứ ở đây, có lẽ đã có sự nhầm lẫn, thay vì “bóng ác” thì viết lầm là “bóng hạc”. “Ác” là con quạ, nghĩa bóngmặt trời; – tự dạng chữ Nôm của hai chữ “ác” và “hạc” trông giống nhau. “Bóng ác” là bóng mặt trời. Câu này ý nói, mặt trời lặn ở hướng Tây còn chưa đầy một cây sào (tức một cây tre, đơn vị đo ruộng đất ngày xưa).
20) Khách quạnh: ít người đi lại. - Thiên-thai: một ngọn núi trong tỉnh Triết-giang, Trung-quốc, có nhiều hang động. Tương truyền, đời Hậu-Hán (25-220), vào ngày tết Đoan-ngọ, có hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi Thiên-thai hái thuốc, lạc vào động tiên, cùng với tiên nữ kết duyên vợ chồng. Nửa năm sau hai chàng nhớ quê trở về, đến nhà thì mới biết đã trải qua bảy đời.
21) No: đầy đủ, thỏa mãn.
22) Đòi: nhiều. - Giốc mục: tiếng tù và của các mục đồng. - Ca tiều: tiếng ca ngâm của các tiều phu.
23) Cần hôm: cần câu của những người đi câu cá ban đêm. - Tơi chiều: áo tơi của dân làng mặc trên đường về nhà lúc trời chiều.
24) Đồng-lại: nơi ngày xưa Nghiêm Tử Lăng thường ngồi câu cá. - Bàn-khê: chỗ Khương Tử Nha (tức Khương Thượng, hay Lã Vọng) thường ngồi câu cá thuở còn hàn vi.
25) Nghiêm Tử Lăng: tức Nghiêm Quang, người đời Hán (206 tr. TL - 221 sau TL), bạn của Lưu Tú, đã từng giúp Lưu Tú dựng nên đế nghiệp (tức vua Hán Quang-vũ, 23-58). Lưu Tú muốn phong quan tước nhưng Tử Lăng cố chối từtrở về sống ẩn dật ở núi Phú-xuân (thuộc tỉnh Triết-giang).
26) Khương Thượng: tự Tử-Nha, hiệu Lã-Vọng, người đời Chu (1122-221 tr. TL), rất giỏi thao lược. Thuở hàn vi bị vợ chê là nghèo mạt mà bỏ đi lấy chồng khác, nhưng Tử Nha không buồn giận, sống ẩn dật, kiên nhẫn, thường câu cá chờ thời ở bến sông Vị, đất Bàn-khê (tức đất Chu, thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay). Lúc 80 tuổi, ông được vua Chu Văn vương biết tiếng, mời ra giúp nước, phong chức thừa tướng, giao cho ấn soái, cầm đầu 800 chư hầu diệt vua Trụ của nhà Thương (1766-1122 tr. TL), dựng nghiệp lâu dài cho nhà Chu, được liệt vào hàng khai quốc công thần.
27) Tô Đông Pha (1036-1101): tên thậtTô Thức, tự là Tử Chiêm, người tỉnh Tứ-xuyên, con của Tô Tuân (1009-1066), một danh sĩ đời Tống (956-1276). Ông chịu ảnh hưởng của cả Nho, Lão, và nhất là Phật, nên tâm hồn rất phóng khoáng. Ông đỗ tiến sĩ rất sớm – năm 21 tuổi, tuy nhiên, hoạn lộ bao phen chìm nổi, làm quan có lúc đến thượng-thư, nhưng vì tính tình hay mỉa mai đả kích việc chính trị, nên nhiều lần phải bị đày ra tận các vùng quan ngoại xa xăm. Dù vậy, ông không hận đời, vẫn lo đời sống thực tế ấm no cho dân chúng và vẫn thanh thản sống trong trời thơ của riêng ông.
28) Xích-bích: Ở huyện Gia-ngư thuộc tỉnh Hồ-bắc (Trung-quốc) có một dãy núi nằm bên bờ sông Dương-tử, tên là Xích-bích. Nguyên năm 208, Tào Tháo từ Giang-lăng đuổi đánh Lưu Bị. Lưu Bị kết liên với Tôn Quyền, dùng hỏa công đánh úp, đốt hàng vạn chiến thuyền của Tào Tháo. Lửa cháy đến nỗi vách núi hóa thành màu đỏ, nên núi được đặt tên là Xích-bích. Tại Hoàng-châu (một thị trấn nhỏ trên bờ sông Dương-tử, cũng thuộc tỉnh Hồ-bắc) cũng có một dãy núi đá màu đỏ, và cũng được đặt tên là Xích-bích. Năm 1080, do lời sàm tấu ở triều đình mà Tô Đông Pha đã bị giáng chức và bị đổi tới làm việc tại Hoàng-châu. Ở đây ông thường dạo chơi nơi Xích-bích và có làm hai bài phú nổi tiếng là “Tiền Xích Bích” và “Hậu Xích Bích”. Nhân vì có sự trùng tên giữa hai ngọn núi cách xa nhau, ông đã cảm khái về Tào Tháo nên đã đề cập tới trong bài “Tiền Xích Bích Phú”.
29) Sào cạy: Lái mũi thuyền quay sang bên trái gọi là “cạy”; ngược lại, quay sang bên trái gọi là “bát”. - Mái phê: mái chèo khoan thai. Bốn chữ “sào cạy mái phê” ở đây có nghĩa là thuyền đi thong dong, thoải mái.
30) Doành ngân: dãi ngân hà, tức bầu trời đêm trong vắt. - Bóng thỏ: bóng trăng. - Xê: xích đi, dịch đi, dời đi, di chuyển.
31) Nài: nài ép, đòi cho được. - Kèo: kì kèo, kèo nài.
32) Vị-đường: bờ đê sông Vị (một phụ lưu chính của sông Hoàng-hà, phát nguồn từ tỉnh Cam-túc, chảy qua tỉnh Thiểm-tây, đến huyện Đồng-quan thì chảy vào Hoàng-hà). Câu Vị-đường: Trên bờ sông Vị có thành gọi là Vị-thành (ở phía Tây huyện Trường-an của tỉnh Thiểm-tây). Trong bài thơ tiễn bạn đi sứ của Vương Duy (701-761), đời Đường, có câu: “Vị-thành triêu vũ âấ khinh trần.” (Trời Vị-thành buổi sáng đầy ắp mưa bụi.) Nhắc tới thơ Vị-đường là có ý nói tới sự từ giã (hoặc tiễn đưa) bạn bè.
33) Quế trạo: mái chèo ở phía sau thuyền làm bằng gỗ quế. - Lan tương: mái chèo ở phía trước thuyền làm bằng gỗ lan. “Quế trạo lan tương” là lấy từ câu “Quế trạo hề lan tương” trong bài phú “Tiền Xích Bích” của Tô Đông Pha.
34) Năm Nhâm-Tuất: tức năm 1082.
35) “Minh Nguyệt” và “Yểu Điệu” là những bài hát trong kinh Thi.
36) Tào Mạnh Đức: tức là Tào Tháo (155-220), cũng có tên là Tào A Man, một quyền thần đời Hậu-Hán. Ông đỗ hiếu liêm năm 20 tuổi. Đời Hán Linh đế (168-189) ông có công dẹp loạn Hoàng-cân, rồi trừ quyền thần Đổng Trác. Đời Hán Hiến đế (189-220) ông dẹp yên các nhóm Viên Thuật, Viên Thiệu, Lưu Biểu, thống nhất cả vùng lưu vực sông Hoàng-hà, chức đến thừa tướng, tước phong Ngụy vương. Nhưng rồi ông cũng lại trở thành quyền thần, áp chế vua Hán, mưu đồ soán ngôi, nhưng việc chưa thành thì chết. Sau, con ông là Tào Phi (187-226) nối chí, giết vua Hiến đế, bỏ nhà Hán, sáng lập nhà Ngụy (220-265), ông được truy tôn là Thái-tổ Ngụy Vũ đế. Ông là một tướng tài, giỏi dùng binh, lại có sở trường về văn học; nhưng cũng là một người đầy mưu mô xảo quyệt, nên người đời đã tặng cho ông một tiếng “gian hùng”.
37) Trường-giang: tức sông Dương-tử.
38) Trích dịch từ sách Khảo Chính Cổ Văn Quan Chỉ, quyển IV, Diêu Trĩ Tường chú thích và dịch ra văn bạch thoại (Hương-cảng: Hoa Mĩ thư cục), trang 77-78.

 

Chương 6: Nghệ Sĩ và Say

 

Chúng tôi muốn đề cập đến trạng thái SAY của nghệ sĩ như là một thái độ mượn chất men để quên đi những phiền lụy, thị phi, danh lợi của cuộc đời, để tâm hồn được tẩy trần, thanh tao; nó khác với cái say của kẻ tục nhân trong trạng thái si mê cuồng loạn, hoặc đi thất tha thất thểu, hoặc nằm đầu đường xó chợ, hoặc chửi tục đập phá, hoặc ngủ mê mệt miệng nói bâng quơ nhảm nhí...

Trạng thái SAY của nghệ sĩ là một loại mĩ cảm, một nguồn năng quan trọng giúp nghệ sĩ sáng tác, như Lâm Ngữ Đường đã từng nói:

“Tôi tuy không sành uống rượu, nhưng không thể không bàn đến vấn đề này, vì nếu so với các vật khác thì rượu giúp cho văn học rất nhiều. Cũng như một số người đã từng biết đến cái nghệ thuật hút thuốc, rượu cũng đem lại một hiệu quả là làm tăng cao nguồn năng sáng tạo của nhân loại. Cái thú uống rượu, nhất là cái thú “tiểu ẩm” mà văn học Trung-quốc thường nói đến, trước kia khi mới nghe tới, tôi vẫn cho là một điều bí mật, khó hiểu; nhưng đến khi nghe một nữ sĩ diễm lệ ở Thượng-hải, trong lúc ngà ngà say, đã hăng hái ca tụng cái mĩ đức của rượu, thì tôi mới cảm thấy rằng, cái thú uống rượu mà người ta thường diễn tả là điều chân thật. Bà ta bảo: “Trong lúc nửa say nửa tỉnh, người ta nói chuyện huyên thuyên không ngớt. Đó là lúc người ta sung sướng, thích thú nhất.” Chính trong lúc đó, họ có cảm giác dương dương đắc ý, lòng tự tin có thể vượt qua bất cứ trở lực nào, quan cảm mẫn nhuệ gia tăng; và ở giữa cái ranh giới nửa thực nửa hư, nửa say nửa tỉnh này mà khả năng sáng tạo đã đạt đến một cường độ cao hơn lúc nào hết...” (1) (HC dịch)

Nghệ sĩ nặng tình với rượu cũng sánh bằng với giai nhân. Giai nhân còn có khi bạc tình, chứ rượu với nghệ sĩ thì gắn bó keo sơn, cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Bởi vậy, từ những thi hào Trung-hoa cho đến các danh sĩ Việt-nam, không ai là không thích được say.
Đào Tiềm(2) đã từng nói về tính ưa uống rượu của mình:

“Tính ông thích uống rượu, nhưng vì nhà nghèo nên không có được thường. Bạn thân biết vậy nên có lúc bày rượu mời, thì ông uống cho thực hết, đến khi say mới thôi; say rồi thì ra về, không còn lưu luyến gì nữa...”(3) (HC dịch)

Lí Bạch(4) là một nhà thơ kì tài của Trung-hoa, tính lại càng thích rượu; và uống rượu càng say thì thơ càng hay tuyệt. Vì vậy người đương thời thường gọi ông là Tửu Trung Tiên. Rất nhiều giai thoại được viết về cái nết say của ông:
- Một hôm Lí Bạch đang say, vua triệu vào bảo thảo tờ biểu “xuất sư” (ra quân dẹp giặc), ông không thảo mà viết ngay thành bài biểu.
- Có lần đang tại chức hàn lâm, Lí Bạch uống rượu quá say, nhà vua phải sai cận vệ phun nước vào mặt cho tỉnh lại để soạn nhạc từ. Ông tỉnh lại liền cầm bút viết luôn mười chương không cần suy nghĩ.
- Có lần vua Đường Minh Hoàng cùng Dương Quí Phi đi dạo thưởng hoa. Để làm vui lòng Quí Phi, vua cho vời Lí Bạch đến làm tân từ cho nhạc. Lúc đó Lí đang say túy lúy, nhưng vừa nghe lệnh liền viết luôn một mạch ba bài “Thanh Bình Điệu”.
- Và ngay cả câu chuyện về cái chết của ông cũng vẫn không rời khỏi cái nết say. Tương truyền, một đêm trăng sáng, ông bơi thuyền trên sông Thái-thạch, khi đã uống rượu quá say, ông nhìn xuống sông thấy vầng trăng in đáy nước đẹp quá, bèn nhảy xuống ôm lấy vầng trăng, liền bị đắm và chết đuối!...
Cái nết say quả đã làm vinh dự cho bậc thiên tài. Nhưng nghệ sĩ say không cứ gì phải say rượu, mà còn say cờ, say thơ, say đàn. Bốn thú vui “cầm, kì, thi, tửu” đeo dính với nghệ sĩ như hình với bóng:

Cầm kì thi tửu
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà
Thú xuất trần tiên vẫn là ta
......
Nguyễn Công Trứ
(Cầm Kì Thi Tửu)

Vậy thì cách thức say của thi nhân là đắm mình vào những cuộc tiêu sái để gạn lọc cho sạch thất tình lục dục, làm cho tâm hồn trở nên thư thái nhẹ nhàng, vượt lên trên thời không, chỉ còn có thuần túy mĩ cảm làm nguồn năng sáng tạo. Cho nên đã là nghệ sĩ thì không ai là không thích say, và nhiều lúc còn lấy cái say làm cái ngông nghênh đắc ý của đời mình. Phạm Thái (1777-1813) vì thất chí với hoài bão cần vương, lại thất tình với Trương Quỳnh Như(5), liền chỉ biết lấy say sưa làm sinh thú:

Sống ở dương gian đánh chén nhè
Chết về âm phủ cắp kè kè
Diêm vương phán hỏi rằng: – Chi đó?
– Be!
Phạm Thái

Trần Tế Xương (1870-1906)(6) thì thú nhận một cách đáng yêu:

Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
......

Nguyễn Khuyến (1835-1909) thì bướng bỉnh rất lí thú:

Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được rồi ra cũng chẳng chừa

Và đến như Tản Đà (1888-1939) thì cái nết say quả thật ngông cuồng không thua gì Lí Bạch:

Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thì cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười!
Say chẳng biết phen này là mấy
Nhìn non xanh chẳng thấy lại say
Quái! Say sao say mãi thế này?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh
......

Nghệ sĩ say là thế, nhưng say là say trong tỉnh, mà tỉnh là tỉnh trong say. Cho nên thi nhân uống rượu, không uống nơi trà đình tửu quán đến nỗi say cuồng mất trí, làm mất cả nhân cách, mà thường tìm thú vui “đối ẩm” với bạn tri âm, hoặc với bạn tùng, cúc... ở sân nhà, hay “tiểu ẩm” trên sông nước, trong ngọn gió hây hây mát mẻ, dưới vầng trăng sáng mông lung; và rượu của họ đã trở thành “rượu thánh”:

Cao sơn lưu thủy thi thiên trục
(núi cao, nước chảy, ngàn cuộn thơ)
Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền
(trăng sáng, gió mát, một thuyền đầy rượu)
Dang tay người tài tử khách thiền quyên
Chén rượu thánh câu thơ thần thích chí.
Cao Bá Quát

Những điều dẫn chứng trên đây đã cho chúng ta thấy rằng, SAY xưa nay vẫn là nết chung của nghệ sĩ, là một yếu tố quan trọng tác động tâm lí khi nghệ sĩ sáng tác. Chính ở trong trạng thái như-say-như-tỉnh con người mới thấy cao hứng, bao nhiêu cái rụt rè, gò bó, mặc cảm dồn ép của thế sự mới bị tiêu trừ; lúc đó tâm hồn mới được hoàn toàn sảng khoái tự do, tình cảm trở nên vừa bồng bột vừa thâm trầm; và trước cảnh đẹp thiên nhiên, cảm quan nghệ sĩ càng tỏa rộng, tiểu ngã hòa nhập hoàn toàn vào đại hồn vũ trụ. Đó chính là không khí mầu nhiệm bao quanh người nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ khi ngao du trong khoảng núi cao sông rộng, một con thuyền bềnh bồng trên nước dưới trăng, uống rượu tìm quên phiền lụy, thanh tao hóa tâm hồn để cho cảm hứng được thần hóa, nào có thua gì cuộc đi chơi trên sông Xích-bích của Tô Đông Pha:

Nài xuân chén những kèo mau,
Tưởng duyên kì ngộ, ngâm câu Vị-đường,
Này này quế trạo lan tương,
Ví đua Xích-bích, chi nhường Đông Pha.
(MĐMK, câu 75 - 78)

Trong khi tác giả chuếnh choáng hơi men, thần trí lâng lâng nửa say nửa tỉnh, thì bầu trời hoa cỏ chung quanh cũng đã cùng cảm thông với tác giả mà trở nên lâng lâng nửa tỉnh nửa say; rồi từ đó khởi lên niềm ao ước một mối duyên kì ngộ trong giấc mộng tình:
Một trời hoa cỏ lâng lâng,
Mơ màng mưa Sở, gió Đằng đâu đây.
Chiều xuân chuốc chén vơi đầy,
Thử xem người tỉnh người say mới là...
(MĐMK, câu 43 - 46)
chúng ta thấy rõ ràng là, chính nhờ trạng thái say thanh cao, say thoát tục ấy mà Nguyễn Huy Hổ đã có thể du hồn vào một giấc mơ thanh kì của kẻ tìm đến non tiên:

Say sưa đòi thú lân la,
Giang thành đã gióng canh gà sang tư. (7)
Giấc hòe thiêm thiếp lần mơ. (8)
Trong mơ mòng thấy tình cờ lạ sao:
Tưởng mình lạc lối nguồn đào, (9)
Khi ra Động-khẩu, khi vào Bồng, Doanh. (10)
(MĐMK, câu 79 - 84)

Đến như, khi viết lại câu chuyện mình, tác giả cũng không phải ngồi tỉnh trí để vận dụng kí ức như viết một bài kí sự khô khan, mà tác giả vẫn dùng rượu để nương theo cái chuếnh choáng hơi men làm tăng thêm cảm hứng sáng tác:

Chuyện xưa còn có sá chi,
Đêm thanh vui chén muốn ghi nỗi mình.
(MĐMK, câu 11 - 12)

Vậy thì tự cổ chí kim, SAY vẫn là một trạng thái quan yếu của nghệ sĩ. Vai trò của lí trí sẽ bị lu mờ trong khi say, cho nên nghệ sĩ sẽ không sống bằng suy luận, bằng đắn đo lợi hại thiệt hơn, mà tâm hồn chỉ tràn đầy tình cảm. Lúc say là lúc con người thành thật với mình nhất. Lòng thành thật thì dễ rung cảm, và nhờ vậy mà nguồn mĩ cảm sáng tạo đã trở nên phong phú dồi dào.

CHÚ THÍCH
1) Trích dịch từ sách Sinh Hoạt Đích Nghệ Thuật của Lâm Ngữ Đường (nguyên tác Anh ngữ: The Importance of Living), bản dịch Hoa ngữ của Việt Duệ (Hương-cảng: Dân Sinh thư cục, 1951), trang 264.
2) Đào Tiềm (365-427) còn có tên là Uyên Minh, tự là Nguyên Lượng, quê ở Giang-tây. Ông là người thông minh, học rộng, nhưng gặp thời loạn lạc nên dù có hoài bão lớn, ông cũng đành dẹp bỏ thế sự để sống an vui với thiên nhiên và thơ, rượu.
3) Trích dịch bài “Ngũ Liễu Tiên Sinh Truyện” của Đào Tiềm, sách Khảo Chính Cổ Văn Quan Chỉ (đã dẫn ở chương trước), quyển III, trang 10.
4) Lí Bạch (701-762) tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên. Ông là người thông minh dĩnh ngộ, từng được vua Đường Minh Hoàng (713-756) trọng dụng, phong chức hàn lâm. Ông được người đời kính trọng như một vị thánh thơ đời Đường (618-907), và là một đại thi hào Trung-quốc.
5) Phạm Thái - Trương Quỳnh Như: Phạm Thái người xã Yên-thưởng, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh. Ông thuộc dòng dõi quan nhà Lê nên mưu toan chống lại Tây Sơn để khôi phục nhà Lê. Việc bại lộ, bị truy nã gắt gao, ông phải cải trang làm nhà sư ẩn lánh ở trong chùa, lấy hiệu là Phổ Chiêu thiền sư. Nhưng chỉ được ít lâu, ông lại hoàn tục để tiếp tục chí hướng cũ, khởi binh chống Tây Sơn. Việc lại thất bại. Trong thời gian bôn ba binh nghiệp, ông có người yêu là Trương Quỳnh Như, nhưng cuộc hôn nhân cũng không thành, khiến Quỳnh Như đau buồn, sinh bệnh mà chết. Vừa thất chí lại vừa thất tình, quá đau buồn và chán nản, ông quay sang làm bạn với rượu, tự hiệu là Chiêu Lì. Ông mất khi mới 37 tuổi.
6) Trần Tế Xương: cũng có tên là Trần Kế Xương, tự Tử Thịnh, hiệu Vị Thành, người làng Vị-xuyên, huyện Mĩ-lộc, tỉnh Nam-định. Ông là người thông minh, văn hay chữ tốt, cầm kì thi họa đều giỏi, nhưng tính tình ngông nghênh, bướng bỉnh, không chịu bị gò bó, câu thúc, cho nên từ sau khi thi đỗ tú tài năm 1894, những khóa thi kế tiếp ông cứ bị đánh rớt hoài vì vi phạm trường qui. Nhà nghèo lại thi rớt mãi, ông đâm ra hận đời, khiến cho lời thơ luôn luôn có giọng cay chua. Đã thế, ông còn mang niềm u uất của người dân mất nước (vì đang là thời Pháp-thuộc), nên thơ của ông đầy giọng châm biếm thế tình và ẩn chứa tình yêu nước sâu xa.
7) Giang thành: thành ở bờ sông. - Gióng: điểm, đánh mạnh cho kêu to. - Canh gà: ngày xưa khi chưa có đồng hồ, người dân quê thường nghe tiếng gà gáy ban đêm để độ chừng giờ giấc. (Ban đêm được chia làm năm canh, mỗi canh dài bằng hai giờ ngày nay: canh một: từ 7 giờ tối đến 9 giờ đêm; canh hai: từ 9 đến 11 giờ đêm; canh ba [giờ Tí, nửa đêm]: từ 11 giờ đêm đến 1 giờ khuya; canh tư: từ 1 đến 3 giờ khuya; canh năm: từ 3 giờ khuya đến 5 giờ sáng.)
8) Giấc hòe (hay giấc Nam-kha): mơ ước hão huyền. Thuần Vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hòe, bên cạnh có ổ kiến, chiêm bao thấy mình đến nước Hòe-an, được vua gả cho công chúa và phong làm thái thú quận Nam-kha. Sau đánh giặc thua, bị vua đuổi về, tức giận quá, bèn giật mình thức dậy, mới hay chỉ là một giấc chiêm bao!
9) Nguồn đào: tức Đào-nguyên. (Xin xem lại chú thích số 28, chữ “Lá Đào”, chương 4.)
10) Động khẩu: cửa vào động tiên. - Bồng, Doanh: Bồng-lai và Doanh-châu, tương truyền đó là hai hòn đảo ở trong biển Bột-hải (vùng biển giữa hai bán đảo Liêu-đông và Sơn-đông, Trung-quốc), nơi đó có tiên ở, loài vật toàn sắc trắng, cung điện toàn bằng châu báu.

 

Chương 7: Mĩ Cảm Hang Động

 

Dù phải vất vả với cuộc sống thực tế hằng ngày, phải bôn ba trăm việc, đầu tắt mặt tối, nhưng dân ta vẫn nhớ nghĩ đến và dành thì giờ cho những sinh hoạt tâm linh. Họ tâm niệm rằng, hồn thiêng của tổ tiên vẫn tồn tại trong mái ấm gia đình, hồn thiêng dân tộc vẫn trường cửu nơi núi sông, đình chùa, lăng miếu. Dù không phải là nghệ sĩ chính cống, người ta vẫn thích được ở một ngôi nhà có vườn cảnh tươi tốt, có hoa cỏ bốn mùa; và nếu điều kiện cho phép, họ còn xây cả một ao hồ nhân tạo để thả cá trồng sen, có khi ở giữa hồ còn được dựng lên một hòn non bộ đủ cả núi cao đồi thấp, tùng bách, hang đá, chùa miếu, lại có cả thần tiên câu cá, đánh cờ...

Đó là tâm thức tổ tiên còn giữ lại trong lòng người hiện tại, chứng tỏ rằng, dân tộc ta, ngoại trừ những kẻ cuồng tín cực đoan, tà kiến vô thần, và những người quá si mê trong ao tù vật chấtđọa đày bản thân, đánh mất nhân tính, còn thì ai ai cũng đều cảm thấy trong tâm hồn mình vẫn luân chuyển dòng tâm thức huyền diệu muôn đời của tổ tiên nòi giống. Chúng ta ai cũng cảm thấy kiếp nhân sinh là ngắn ngủi, tạm bợ, và trong khi sống cái kiếp tạm bợ và ngắn ngủi này, chúng ta đều biết chuẩn bị cho một đời sống khác ở kiếp tương lai.
Từ nghìn xưa, dân tộc ta cũng như các dân tộc Đông phương truyền thống, đều có lòng tin mãnh liệt vào một đời sống vĩnh cửu – được gọi chung là thế giới thần tiên, khác với kiếp sống tạm bợ ở chốn phàm trần. Kiếp sống ngắn ngủi ở trần giới, chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong đời sống vĩnh cửu kia; cho nên sự chết của thế nhân cũng chỉ là một cuộc đổi thay thể xác:

Chết là thể xác, còn là tinh anh
Nguyễn Du
(Đoạn Trường Tân Thanh)

Nếu có dịp đi thăm lăng tẩm của các đế vương hoặc các nhà mồ của hàng dân dã, chúng ta sẽ thấy được niềm tin tưởng kia nó thâm sâu đến thế nào! Vua vừa lên ngôi là đã nghĩ ngay đến nơi mà mình sẽ nối tiếp cuộc sống đời đời. Người ta phải vào sâu trong vùng núi non trùng điệp, tìm địa thế, lấy kiểu đất, và xây cất thành một tiểu hoàng cung, nơi đó vua sẽ sống cuộc sống vĩnh cửu sau khi từ bỏ cõi trần. Tương truyền, chính Nguyễn Huy Hổ là người đã lo việc đó cho vua Minh Mạng (1820-1840). Nơi dân dã cũng vậy. Rất nhiều người khi cảm thấy tuổi thọ đã cao, bèn ung dung đi mua sinh phần, xây sẵn kim tĩnh hoặc nhà mồ để chuẩn bị nơi cư trú cho kiếp sống tương lai. Ngôi nhà bình nhật chỉ là nơi “sống gửi”, mà ngôi nhà mồ kia mới chính là chỗ “thác về”.
Và nếu nhà mồ, lăng tẩm là nơi sống vĩnh cửu của con người thì các HANG ĐỘNG lại là thế giới trường cửu của thần tiên. Trong sách Tư Tưởng Việt Nam, giáo sư Nguyễn Đăng Thục có dẫn lời của Olov Jansé (một nhà khảo cổ học danh tiếng, hội viên trường Viễn Đông Bác Cổ, Hà-nội) viết về cổ mộ vùng Bắc-ninh (Việt-nam) như sau:

“...... Trước tiên chúng tôi đã phát lộ ra gần chợ Lim một kiến trúc lớn gồm có hơn năm phòng, mỗi phòng giống như một tụy đạo (đường hầm). Có những kiến trúc khác giống như thế được phát lộ trong vùng đó. Chúng tôi cũng tìm thấy những mộ phần chỉ gồm có một phòng, thường chia làm ba ngăn bởi những lớp vách vòng cung. Vật liệu đã được dùng và cơ cấu của những kiến trúc đó trông qua có vẻ bí ẩn, và chứng tỏ những sáng kiến mới mẻ hẳn lên đến nỗi làm cho ta phải ngạc nhiên trong cách kiến trúc mộ phần...
Những mộ phần đầu tiên chúng tôi quan sát ở Bắc-ninh thì được xây cất trong những đồi núi thiên nhiên và cho ta những cảm giác hang động nhân tạo. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì thực ra, chẳng hạn ở Tứ-xuyên, miền Nam Trung-hoa, đã thấy có những mộ phần đào cất trong sườn núi. Những mộ phần hang động ấy có vào khoảng thời đại nhà Hán. Người ta cũng lại phải nhận định rằng cái ý niệm hang động siêu nhiên có một vai trò trọng yếu trong tín ngưỡng Đạo giáo. Theo tín ngưỡng này thì trong lòng một quả núi lớn có những hang động mà cái vòm tượng trưng vòm trời, lòng đáy phù hợp với đất. Cửa vào những hang động ấy là biên giới giữa thế giới vật chấtthế giới siêu hình......” (1)

Và lời của giáo sư Nguyễn Đăng Thục nối tiếp:

“... tín ngưỡng thiên động (Grotte-Ciel) do cổ mộ hạt Bắc-ninh đã khởi niệm, trong ấy ý tưởng chính là trong lòng ngọn núi lớn có hang động mà vòm tượng trưng vòm trời và đáy đại diện cho đất. Cửa động ấy là biên giới ngăn cách thế giới vật chấtthế giới siêu hình. Núi được coi như thiên đường của Đạo giáo, nơi cư trú của thần tiên bất tử.”(1)

Từ “nhà” đến “mồ” chỉ là sự thay đổi của hai nơi cư trú: “Sống mỗi người một nhà, già mỗi người một mồ”; và từ kiếp sống nhân sinh đến kiếp sống tương lai vẫn là một cuộc sống duy nhất mà sự chết chỉ là một cách thay đổi hình thức sống, chỉ là sự phân chia làm hai giai đoạn của một lịch trình biến hóa trong một thực tại linh động mầu nhiệm. Cho nên trong tâm thức dân tộc, tự cổ lai, người ta vẫn quan niệm rằng thần tiêntượng trưng cho sự sống lâu trường cửu. Người ta thường than thở cho sự ngắn ngủi của đời sống trần gian và khao khát một đời sống lâu dài nơi thế giới thần tiên. Và lòng khao khát thật mãnh liệt đến độ đã sản xuất ra biết bao nhiêu chuyện thần tiên để nói lên ước vọng của con người, như câu chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc lối vào Thiên-thai, là một chuyện cổ tích Trung-hoa mà vẫn được dân ta truyền tụng như chuyện của chính mình. Những chuyện thần tiên trong kho tàng văn chương nước ta cũng thật nhiều, mà chuyện “Từ Thức Lấy Vợ Tiên” sau đây là một tỉ dụ:

“Khoảng năm Quan-thái đời nhà Trần, ở Hóa-châu (Thanh-hóa) có chàng Từ Thức, nhờ phụ ấm được bổ huyện tể (tri huyện) Tiên-du (Bắc-ninh). Cạnh huyện có ngôi chùa danh tiếng. Trong chùa có một cây mẫu đơn, cứ mùa hoa nở là ngựa xe tấp nập đến xem hoa đông như hội.
Tháng Hai năm Bính-Tí (1396) có một cô gái tuổi chừng 15, 16, phấn điểm sơ sài, dung nhan lộng lẫy, cũng đến xem hoa. Nàng vịn phải cành giòn nên gẫy, bị người coi hoa bắt giữ lại. Ngày đã sắp tối mà không ai đến nhận. Từ Thức thấy vậy động lòng, liền cởi áo cừu gấm trắng đưa vào tăng phòng để chuộc nàng ra. Mọi người thấy vậy đều khen Từ là một vị quan hiền đức.
Song Từ Thức vốn tính ham rượu thích đàn, đam thơ mê cảnh, công việc sổ sách bỏ ùn lại, thường bị quan trên quở trách. Từ than rằng: “Ta chẳng thể vì số lương năm hộc gạo hẩm vàng mà buộc mình trong vòng danh lợi. Âu là với một mái chèo, bỏ quan trở về. Non xanh nước biếc có phụ gì ta đâu.”
Liền cởi trả ấn tín ra đi. Vốn ưa cảnh hang động ở miền Tống-sơn, bèn xem chỗ cất nhà ở đó. Từ thường sai gã hề đồng đem bầu rượu cây đàn đi theo, còn tự mình thì mang theo mấy tập thơ Đào Tiềm, hễ gặp nơi nào ưng ý là lại rót rượu ra uống có vẻ thú vị lắm. Phàm những nơi thủy tú sơn kì như núi Chích-trợ, động Lục-vân, kênh Nga, sông Lãi, thảy đều có thơ đề vịnh.
Một hôm Từ dậy sớm trông ra cửa bể Thần-phù (thuộc huyện Nga-sơn, Thanh-hóa), ngoài xa chừng vài trăm dặm, thấy đám mây ngũ sắc ùn ùn kết lại như một đóa hoa sen nổi lên, vội chèo thuyền ra xem thì thấy một trái núi thật đẹp. Từ kinh ngạc bảo gã chèo thuyền rằng:
– Ta ở trong chốn giang hồ, các thắng cảnh miền Đông-Nam, đã từng qua lại nhiều lần biết rõ. Nay không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt. Có lẽ là non tiên rụng xuống, vết thần hiện lên, không thì sao khi trước đã không mà hôm nay lại có được.
Từ bèn buộc thuyền lên bờ coi thì thấy khí núi xanh biếc, vách đá dựng thẳng cao hàng ngàn trượng; bằng không có cánh vị tất trèo lên thăm cảnh đó được.
......
Chợt thấy vách đá nứt toác ra một cái hang tròn, đường kính chừng một trượng, bèn vén áo thử bước vào, đi chưa được vài bước, cửa hang đã đóng sập lại, tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ không thể nào thoát chết được. Từ lấy tay sờ soạng vết rêu xanh, nhận thấy có một lối đi nhỏ, ngoằn ngoèo như ruột dê. Lần mò bước đi chừng hơn một dặm thì thấy có đường dốc đi lên, bám víu lần từng bước, càng lên đường càng rộng thêm. Lên đến ngọn núi thì bầu trời quang đãng, ngoảnh nhìn bốn phía đều có lầu đài lộng lẫy, mây xanh ráng đỏ bám lấy lan can, cỏ ngọc hoa châu khoe màu đây đó. Từ nghĩ thầm: “Đây nếu không phải đền Tiên cõi Phật cũng là nơi ẩn tục lánh phàm như Thứu-lĩnh, Đào-nguyên chẳng hạn.” Còn đang suy nghĩ, chợt nghe thấy hai đồng nữ áo xanh bảo nhau rằng:
– Chú rể nhà ta đã đến.
Đoạn chúng chạy vào báo tin, một lát trở ra nói:
Phu nhân mời chàng vào.
Từ liền theo họ đi vào, quanh bức tường gấm, qua bực cửa son. Trong cửa là tòa cung điện cao ngất ngưởng, trên biển đề “Điện Quỳnh-Hư”, “Gác Dao-Quang”. Trên gác có bà tiên áo trắng ngồi trên giường thất bảo. Bên cạnh kê một cái sập gỗ đàn hương, bà mời Từ lên ngồi rồi bảo rằng:
......
– Đây là núi Phù-lai, tức động thứ 6 trong 36 động tiên, nổi bềnh bồng ngoài biển cả, không chằng, không rễ, như núi La, núi Phù, hợp tan theo với gió mưa, chẳng khác các ngọn Bồng-lai, co dũi như làn sóng dợn, mà ta là địa tiên núi Nam-nhạc, tức Ngụy phu nhân. Vì chàng nghĩa cả, hay giúp người trong cơn nguy khốn, nên mới dám phiền chàng đến đây.
Bà tiên lại đưa mắt cho con hầu vào gọi cô ra. Từ liếc mắt nhìn trộm, té ra là người đánh gẫy cành hoa bữa trước. Bà tiên bảo rằng:
– Đứa con tôi đây là Giáng Hương, ngày trước đi xem hoa gặp nạn, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy không quên. Nay muốn cho cùng chàng kết duyên để đền ơn trước.
Bèn ngay đêm ấy sai thắp đèn mỡ phụng, trải chiếu vằn rồng để hai người làm lễ giao bái.
......
Từ Thức hồi tưởng từ hôm bỏ nhà ra đi, giữa ngày mang bách, đến nay thấm thoát đã được một năm.
......
Một hôm, xa trông thấy chiếc thuyền buôn đi về phía Nam, Từ trỏ bảo Giáng-Hương rằng:
– Nhà tôi cũng ở về phía đó, nhưng trời xa biển rộng biết là nơi đâu!
Rồi nhân lúc nhàn rỗi, chàng lại nói với vợ:
– Tôi đây lòng cỏ héo hon, lệ hoa thánh thót, nực cười mình lụy tục chưa quên, luống rầu nỗi lòng xưa vẫn nhớ, dám xin thể tất, cho phép tạm về. Chưa rõ tôn ý thế nào, xin cho tôi biết.
......
Giáng Hương khóc mà rằng:
– Thiếp đâu dám vì tình phu phụ mà ngăn trở niềm nhớ quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, cảnh đời ngắn ngủi, dù nay chàng về, chỉn e sân liễu vườn hoa còn đâu phong cảnh năm xưa.
Nhân nàng thưa chuyện lại với phu nhân. Phu nhân nói:
– Không ngờ chàng còn vướng víu lòng trần như vậy!
Rồi cho một cỗ xe cẩm vân, sai đưa chàng về... Chỉ trong chớp mắt Từ liền về đến nhà, thì đã vật đổi sao dời, thành quách nhân dân, nhất nhất khác xưa, duy còn cảnh núi non, khe suối, hai bên bờ không đổi sắc biếc màu xanh thuở nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm các người già cả, thảy đều nói rằng: “Thuở nhỏ tôi có nghe: ông tổ ba đời nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất, đến nay đã ngoại 60 năm. Hiện nay là nhà Lê đã trải qua ba triều, bây giờ là niên hiệu Diêu-ninh thứ năm (1458).”
Từ Thức bấy giờ mới ngậm ngùi hối hận, muốn lên xe mây trở lại, nhưng xe đã hóa ra con chim loan bay mất rồi... Từ bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoàng-sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.” (2)

Câu chuyện Từ Thức lấy vợ tiên trên đây đã ngụ nhiều ý nghĩa; nó nói lên sự gần gũi giữa tiên và tục, tiên và tục có thể qua lại gặp gỡ miễn là có “duyên” với nhau. Tiên có thể đi chơi ở cõi tục và tục cũng có thể lên vãng cảnh tiên. Cõi tiên ở nơi cõi tục mà cõi tục cũng ở nơi cõi tiên. Tiên và tục cũng đều là người, chỉ khác nhau ở chỗ người tiên thì cốt cách thanh cao, phẩm hạnh trong sạch, cuộc sống luôn luôn an nhàn, sung sướng, thoát khỏi những phiền lụy mà người tục luôn luôn bị ràng buộc, khổ sở. Cho nên dù là người trần tục mà biết tu dưỡng tính tình để có phẩm hạnh thanh cao, có đời sống thoát tục là tức khắc thành tiên, và dù là người tiên nhưng còn lầm lỗi, tâm còn bị vướng mắc dục vọng trần giới thì cũng hóa thành phàm tục.
Chính một học giả người Âu, ông Alfred Meynard, cũng công nhận điều này khi khảo cứu về các hội hành hương ở Bắc-Việt xưa kia trong báo Revue Indochinoise (số tháng 5, 1928) mà giáo sư Nguyễn Đăng Thục đã trích dẫn như sau:

“Tôi cho rằng cái điều mâu thuẫn giữa Đông phươngTây phương mà hiện nay người ta đang thắc mắc, chẳng phải một vấn đề phức tạp chi lắm như người ta đã tưởng. Nó qui về có một điểm là người phương Đông đã đem cái vô hình xuống cuộc đời hằng ngày của họ. Họ sống với thế giới huyền bí, nhờ cái gì họ tưởng đã thấy được. Trái lại, người Âu Tây sống bên lề cái vô hình, phủ nhận nó nữa, vì không biết đến có nó. Hay là họ bị xô đẩy vào nó mà không nhìn......”(3)

Thần tiên đối với dân tộc ta, và có thể nói là đối chung với cả các dân tộc Đông-phương, là kiếp sống đời đời, kiếp sống hoàn toàn tự chủ, tự do, tự tạigiải thoát. Bởi vậy người ta đã sùng bái thần tiên, muốn vươn lên nối kết với siêu nhiên bằng cách tìm vào các hang động (hay thiên động) để chiêm ngưỡng thiên nhiên, làm lắng xuống mọi dục vọng trần thế, đưa tâm hồn lên thế giới cao siêu để cảm thông với bầu không khí huyền bí, cái sức sống linh động của thần tiên bàng bạc trong đó. Tất nhiên hang động được coi như cảnh giới trung gian giữa trần thếthiên đường, giữa người tục và tiên nhân, giữa hữu hạn và vô cùng. Bởi thế, thiên động chẳng những là nơi trẫy hội hành hương của du khách thập phương, mà nó còn là nguồn mĩ cảm tuyệt vời của văn nghệ sĩ. Người bình dân tìm đến hang động để chiêm bái cầu nguyện, mong được thỏa mãn cái khát vọng siêu hình; trong khi đó, giới văn nghệ sĩ du lãm nơi hang động để thăng hoa tình cảm cá nhân vào cõi vô hạn, để thu hóa kinh nghiệm mĩ cảm cho việc sáng tác.
Là một nhà nho nghệ sĩ, vốn có sẵn tâm thức tổ tiên dân tộc, quê hương lại nằm trong vùng địa linh nhân kiệt với nhiều hang động nổi tiếng(4), ắt hẳn Nguyễn Huy Hổ cũng đã từng du lãm nơi các hang động để thăng hoa cảm giác mà thu hóa mĩ cảm; và mĩ cảm ấy, giờ đây, nhân lúc ngủ say đã thần hóa và biểu hiện ra động tiên trong giấc mộng của ông:

Say sưa đòi thú lân la,
Giang thành đã gióng canh gà sang tư,
Giấc hòe thiêm thiếp lần mơ,
Trong mơ mòng thấy tình cờ lạ sao:
Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra động-khẩu, khi vào Bồng, Doanh.
Đòi nơi chim lá hoa cành,
Dường chiều đón rước, như tình rủ rê;
Mấy chòm len lỏi sơn khê, (5)
Dòng ngăn thú dật, vách che bụi trần. (6)
(MĐMK, câu 79 - 88)

Động tiên là như thế. Lối vào động bao giờ cũng có vách đá cao vòi vọi để ngăn cách với cõi trần, chỉ có một lối nhỏ vừa đủ cho một người len lỏi mới vào được. Khi đã lọt qua được cái cửa nhỏ ấy rồi thì bầu trời tiên cảnh mới hiện ra – như đã được diễn tả trong câu chuyện “Từ Thức Lấy Vợ Tiên” ở trên; lại như Đào Tiềm đã diễn tả về động Đào-nguyên:

“Vào khoảng triều Thái-nguyên đời Tấn(7), một ngư phủ ở huyện Vũ-lăng, một hôm nhân mải đi theo bờ suối, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một khu rừng mọc toàn hoa đào, nằm sát bờ suối, rộng hàng mấy trăm thước, không xen lẫn một thứ cây nào khác. Cỏ thơm tươi tốt, hoa rụng hực hỡ. Ngư phủ lấy làm lạ, cứ tiến tới trước, ý muốn đi tận cùng khu rừng. Rừng đào chạy dài đến ngọn nguồn con suối mới hết, và lúc ấy thì núi hiện ra. Núi có một cửa hang thật nhỏ, bên trong có ánh sáng chiếu lờ mờ. Ngư phủ bèn rời thuyền đi vào cửa hang. Mới đầu hang rất hẹp, lối đi chỉ vừa vặn cho một người. Đi vài mươi bước, hang càng mở rộng và sáng sủa......” (8) (HC dịch)

Sách Ô Châu Cận Lục tả hang động đền Chân-linh cũng vậy:

“Đền ở huyện Chân-linh, châu Bố-chính. Lưng liền với núi biếc, mặt ngắm xuống duềnh xanh. Phía dưới thì nước biếc như màu chàm, phía trên thì non xanh như tấm thảm. Động có cửa vào, cửa hẹp chỉ vừa lọt một chiếc thuyền con. Càng vào trong càng thấy rộng rãi. Những du khách đi thuyền đến vãn cảnh, trước hết phải thanh tâm trì giới, thì tự khắc thấy nước lặng sóng êm, gió quang mây tạnh. Với một bó đuốc, đi men lợi nước lần vào, nghe gió thổi như đàn, động vang tựa sáo. Đi ước hơn một trăm bộ, bỗng thấy mở ra một khoảng rộng, trông thấy trời sáng trưng, mặt trời chói lọi. Cỏ đẹp mây êm, sạch lòng trần tục; hoa cười đón khách, chim hót chào người, cảnh riêng hẳn ra một bầu trời đất......” (9)

Chúng ta thấy, động tiên, từ chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, qua bài kí động Đào-nguyên, đến hang động đền Chân-linh, đều có nét đồng nhất, và đã là nguồn mĩ cảm thâm sâu trong tâm hồn thanh tao của nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ, để bây giờ đây, trước cảnh sơn thủy hữu tình, với một con thuyền giữa trăng nước mùa xuân, ông mê li vào cảnh vật, rồi mượn men nồng của rượu để đưa thần trí lâng lâng vào cõi mộng; đó là lúc mà mĩ cảm kinh nghiệm tự do dẫn dắt hồn mộng đi vào động tiên. Vậy, động tiên từ bây giờ là trực giác hình tướng, là toàn cõi ý tượng tràn ngập tâm hồn thi nhân, đưa thi nhân từ thế giới phàm trần vào thế giới thần tiên như nguồn suối trên kia đã đưa ngư phủ vào động Đào-nguyên:

Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra Động-khẩu, khi vào Bồng, Doanh.
Đòi nơi chim lá hoa cành,
Dường chiều đón rước, như tình rủ rê;
Mấy chòm len lỏi sơn khê,
Dòng ngăn thú dật, vách che bụi trần.
Ruổi quanh hoa kính lần lần, (10)
Cảnh tiên riêng đợi tay thần mở mang.
Bầu trời ghẽ chiếm thanh quang, (11)
Nẻo xa trông rõ mấy trang lão tùng, (12)
Dưới tùng có gác Nghinh-phong, (13)
Cách chừng thấy những phạm cung, bảo đài.(14)
Băng chừng rảo bước tới nơi, (15)
Tường sau nghìn gốc tảo mai quanh thành; (16)
Biển đâu nét tạc rành rành,
Đề ba chữ “Thưởng Mai Đình” vàng tương.(17)
(MĐMK, câu 83 - 98)

Vậy Nguyễn Huy Hổ đã bằng trạng thái say để đi vào mộng, và bằng con đường mộng để đến cõi tiên – nhờ đã có nguồn mĩ cảm sâu đậm từ hang động. Khi mĩ cảm hang động đã tràn ngập tâm hồn thì người nghệ sĩ có thể ung dung đi vào cõi tiên, không phải bằng nhãn quan nhìn thấy, không phải bằng ý thức suy luận, mà chỉ thuần bằng trực giác hình tướng, bằng hồn mộng. Và giấc mộng ở đây như là đã được sửa soạn, được chuẩn bị bằng sự thanh lọc mọi dục niện trong tâm hồn, bằng sự ngao du sơn thủy để thăng hoa tình cảm cá nhân vào đại hồn vũ trụ, hòa điệu tiểu ngã hữu hạn vào đại thể vô cùng. Mộng của tác giả ở đây là loại mộng GIÁC của bậc thần tiên, chứ nào phải là thứ mộng MÊ của người phàm tục!

CHÚ THÍCH

1) Nguyễn Đăng Thục, Tư Tưởng Việt Nam (Sài-gòn: Khai Trí, 1964), trang 43-45.
2) Lược trích trong sách Tân Biên Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Tự, Bùi Xuân Trang dịch (Sài-gòn: BỘ QGGD, 1962), quyển thượng, trang 189-221.
3) Nguyễn Đặng Thục, sách đã dẫn, trang 50.
4) Xin xem sách Ô Châu Cận Lục, tác giả khuyết danh, Bùi Lương dịch (Sài-gòn: Văn Hóa Á Châu, 1961).
5) Chòm: xóm nhà.
6) Thú dật: cái thú vui ẩn dật.
7) Vua Hiếu-vũ đế nhà Tấn (280-420) có hai niên hiệu: Vĩnh-khang (373-376) và Thái-nguyên (376-396).
8) Trích dịch bài “Đào Hoa Nguyên Kí” của Đào Tiềm (sách Khảo Chính Cổ Văn Quan Chỉ, quyển III, trang 6).
9) Ô Châu Cận Lục (dã dẫn trên), trang 13-14.
10) Hoa kính: lối đi có đầy hoa.
11) Ghẽ: riêng một cõi, một mình. - Thanh quang: trong sáng.
12) Trang: bậc, hạng, tiếng gọi người với ý đề cao, tâng bốc. - Lão tùng: cây tùng sống lâu năm.
13) Nghinh phong: hứng gió.
14) Phạm cung: đền tiên, chùa Phật. - Bảo đài: lâu đài tráng lệ, sang quí.
15) Băng chừng: đi đường tắt cho gần.
16) Tảo mai: loại mai nở hoa sớm.
17) Thưởng-mai đình: nhà mát cất giữa vườn mai để thưởng thức hoa mai.

 

Chương 8: Mộng và Sáng Tạo Văn Nghệ

 

Mộng là một nguồn sáng tạo văn nghệ, điều đó chúng ta có thể làm sáng tỏ ở đây bằng cách đào sâu vào giấc mộng của Nguyễn Huy Hổ; vì chúng ta đã thấy hiển nhiên rằng, chính giấc mộng Mai-đình (Mai Đình Mộng) đã là đề tài sáng tác của ông.

Mộng là trạng thái tâm lí của nghệ sĩ khi đã gột rửa mọi tư dục, mọi tính toán, thị phi để thăng hoa cảm giác vào trực giác hình tướng. Trong trạng thái tâm lí đó của giờ phút đó, nghệ sĩ đã bỏ rơi thực tại, bỏ rơi chính mình để sống trong một thế giới hoàn toàn chỉ có ý tượng.

Trong đời sống thường nhật, nào lo đáp ứng các nhu cầu cơm áo, nào lo chống chọi với muôn trở lực của cuộc đời, chợt có một lúc nào đó, chúng ta ngồi thừ người ra hàng phút, hàng giờ, hoặc nhìn vào khung trời mông lung, hoặc dõi theo một đám mây đang thay hình đổi dạng, hay một dòng nước đang trôi chảy lửng lờ..., mà đắm hồn mình vào đó. Rồi trí tưởng tượng cứ tự do đưa tâm hồn chúng ta đi cùng khắp phương trời lữ thứ... Đó là giờ phút chúng ta bỏ rơi thực tại, không còn ý thức được chính sự hiện hữu của mình trong không gianthời gian. Đó là trạng thái mộng trong lúc thức.
Mặt khác, khi chúng ta cảm thấy quá mệt mỏi, không muốn cho các giác quan cứ liên tục làm việc từ ngày này sang ngày khác, mà cần phải nghỉ ngơi, thì giấc ngủ là trạng thái nghỉ ngơi sảng khoái nhất; vì khi ngủ thân thể sẽ được nằm yên, mắt khỏi phải nhìn, tai khỏi phải nghe, miệng khỏi phải nói... Tuy nói là các giác quan được yên nghỉ hoàn toàn khi ngủ, nhưng sự thực thì trong giấc ngủ, mắt ta vẫn trông thấy cảnh vật, tai ta vẫn nghe tiếng nói, miệng ta vẫn nói cười, thân ta vẫn đi lại; và đó là những hình ảnh, những hành vi cử chỉ trong chiêm bao, là mộng trong lúc ngủ.
Khi Nguyễn Huy Hổ ngồi trên thuyền mà đắm hồn vào cảnh vật thiên nhiên, mê li với trời trăng mây nước để đưa hồn mộng theo dấu người xưa vào cõi Thiên-thai, hay đang cùng Tô Tử bơi thuyền trên sông Xích-bích, thì đó là lúc tác giả đang sống trong trạng thái mộng thức. Và đến khi nhờ men nồng đưa thần trí vào giấc ngủ để thấy mình tiếp tục ngao du vào nơi tiên cảnh, được gặp mối duyên kì ngộ, thì đó là lúc tác giả đang sống trong trạng thái mộng ngủ vậy. Và tác giả đã diễn tả một cách khéo léo cái trạng thái từ mộng thức sang mộng ngủ của mình như không hề bị cách biệt bởi một ranh giới nào:

Mảng vui sào cạy mái phê,
Doành ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.
Nài xuân chén những kèo mau,
Tưởng duyên kì ngộ ngâm câu Vị-đường.
Này này quế trạo lan tương,
Ví đua Xích-bích chi nhường Đông Pha.
Say sưa đòi thú lân la,
Giang thành đã gióng canh gà sang tư.
Giấc hòe thiêm thiếp lần mơ,
Trong mơ mòng thấy tình cờ lạ sao:
Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
(MĐMK, câu 73 - 83)

Nhưng dù là mộng thức hay mộng ngủ thì vẫn là mộng, và đều mang ý nghĩacon người muốn xa rời thực tại, tạm ngưng những hoạt động tri thức để sống với thế giới ý tượng, với bầu trời mông lung của tiềm thức.
Thế giới mộng là thế giới của sinh hoạt tiềm thức; và các triết gia phân tâm học đều công nhận rằng, tiềm thức mới chính là phần quan trọng của sinh hoạt tâm thần. Họ cho rằng, toàn thể tâm thần chúng ta như là đại dương, phần sinh hoạt ý thức chỉ như lớp sóng nhấp nhô trên mặt biển, còn phần tiềm thức mới thực là khối nước khổng lồ của đại dương ở dưới lớp sóng đó.
Vậy muốn tìm hiểu bản chất của đại dương, muốn nghiên cứu tất cả những gì đại dương có, chúng ta phải tìm vào lòng đại dương cho đến tận đáy biển sâu, chứ không phải chỉ nhìn vào lớp sóng trên mặt biển mà có thể biết được. Cũng vậy, muốn tìm hiểu cá tính thực của con người, không phải chỉ căn cứ vào những biểu lộ của ý thức – vì chúng có thể bị trá ngụy, che đậy – mà còn phải tìm hiểu ở những sinh hoạt tiềm thức. Do đó, các nhà phân tân học đã có khuynh hướng nghiên cứu các giấc mộng để tìm biết cá tính thật của con người, vì thế giới mộng chính là thế giới sinh hoạt của tiềm thức.
Freud (1856-1939)(1) cho rằng, mộng là sự thỏa mãn một ước vọng. Ông nói:

“Lòng ham muốn chính là sự khích động của giấc mơ; sự thực hiện lòng ham muốn này chính là nội dung giấc mơ; đó chính là một trong các tính chất cơ bản của giấc mơ.” (2)

Nói rõ hơn, dục vọngbản năng chủ yếu của con người, nó luôn luôn đòi được thỏa mãn; nhưng trong lúc thức tỉnh vì có lí trí chế ngự theo những tập tục, luân lí v.v... của xã hội, nên nó không khởi tác được. Phải chờ đến lúc ngủ, ý thức danh lí tạm ngưng hoạt động thì dục vọng mới trỗi dậy mạnh mẽ, những ham muốn bị dồn nén trong lúc thức, bây giờ mới có dịp tăng cường áp lực. Bởi vậy, bằng giấc mơ, người ta có thể được thỏa mãn mọi ước vọng, giải tỏa mọi thảm kịch ở nội tâm. Từ quan niệm đó, bước sang địa hạt nghệ thuật, Freud cũng khẳng định rằng, nghệ thuật chính là dục vọng được thăng hoa.
Không có một người nào bằng lòng với hiện tại của mình. Mỗi người đều có những ước vọng thầm kín đòi được thỏa mãn, nhưng ngoài đời thì lúc nào cũng gặp những trở ngại của thành kiến, của phong tục, tập quán, luân lí, đạo đức v.v... cản ngăn, khiến cho không thể nào toại nguyện được. Do đó mà đã sinh ra những xung đột nội tâm, một bên là bản năng tiềm thức muốn được sống trọn vẹn tự do, một bên là áp lực của lí trí muốn sống phù hợp với khuôn kỉ cương xã hội. Cái ý thức muốn sống “hợp lí” ấy phải tìm mọi cách để trừ khử những dục vọng bản năng, nhưng thực ra nó chỉ đè nén được chúng trong nhất thời, – tức là đẩy vào trong vùng thâm sâu của bóng tối tiềm thức – mà không thể nào tiêu diệt hẳn được. Những dục vọng bản năng ấy chỉ tạm thời chịu dồn nén, và vẫn tìm mọi cơ hội thuận lợi để trỗi dậy. Chúng sẽ được giải thoát bằng nhiều đường lối tùy theo nhân cách của mỗi hạng người. Chúng có thể được giải thoát bằng những cơn thác loạn thần kinh hay khủng hoảng tinh thần nơi những người ý chí suy nhược, khiến sinh ra những hành động bạc ác như giết người, cướp của, hiếp dâm, hay mất ý thức đến độ mê sảng, điên cuồng. Chúng có thể được giải thoát một cách trá ngụy ôn hòa ở những người ham thích đọc truyện hay xem phim ảnh chém giết, khiêu dâm. Chúng có thể được giải thoát một cách tự nhiên trong mộng mị lúc ngủ. Những người có đức tin mạnh mẽ thì cứ để cho chúng biểu hiện tự nhiên nhưng biết dùng trí sáng suốt để nhận diện, hướng dẫn, uốn nắnchuyển hóa, thăng hoa chúng. Và ở giới nghệ sĩ thì chúng được giải thoát bằng những sáng tác nghệ thuật; và đó là ý nghĩa khi Freud cho rằng nghệ thuật là dục vọng được thăng hoa.
Do vậy, thế giới văn nghệthế giới tượng trưng, là một hình thức kín đáo để cho những khuynh hướng, những ước vọng bản năng của con người xuất hiện. Nó là một thứ ngôn ngữ tượng trưng, bộc lộ tiềm lực sống sâu xa nhất của con người, khác hẳn với cái lối bộc lộ “bề ngoài” mà con người dùng để đáp ứng với thực tế. Vậy đối với nghệ sĩ, thưởng thứcsáng tác văn nghệ là thứ sinh hoạt gần như duy nhấtcông dụng làm thỏa mãn những đòi hỏi của tâm tình mà nếp sống thực tế không cho phép thỏa mãn.
Những ước vọng, những đòi hỏi trong nội tâm nghệ sĩ hẳn nhiên là rất tư riêng của cá nhân nghệ sĩ. Vậy việc làm chính đáng của nghệ sĩ là sao cho những ước vọng, những đòi hỏi ấy mất hẳn tính cách cá nhân, riêng tư, để trở thành thứ tâm lí phổ quát, đại đồng, khiến cho mọi người ở bất cứ giai tầng nào của xã hội cũng có thể rung động được. Giá trị của tác phẩm, của nghệ sĩ là làm thế nào để rung động được tất cả mọi người thưởng thức. – Dĩ nhiên, về cường độ rung độngrung động ra sao, điều đó có thể khác nhau ở mỗi người thưởng thức.
Nghệ sĩ nói lên những gì riêng tư của tâm hồn họ, nhưng có thể làm rung động được mọi người là chính vì ngôn ngữ của họ là thứ ngôn ngữ tượng trưng. Ngôn ngữ tượng trưngbiểu tượng của tâm linh mà nghệ sĩ vừa tìm trong đó con đường khai phóng những u uẩn, những ray rức của riêng mình, vừa nói lên được cái khát vọng chung của mọi người. Khi nghệ sĩ làm một bài thơ, vẽ một bức họa, đúc một pho tượng, họ đã đi theo con đường của văn nghệđào sâu vào cá tính đặc thù để đạt được tình cảm, ý chí, lí trí phổ quát mà Tây-phương gọi là cái “tâm lí phổ quát”, còn Đông- phương thì gọi là cái “tâm của trời đất” (thiên địa chi tâm). Nghệ sĩ nào đạt được cái “tâm của trời đất” thì đó là con người toàn diện.
Cái “tâm của trời đất” nơi mỗi người đều có, nhưng ít ai đạt được. Nghệ sĩ là người đạt được nó và khơi nó dậy trong tâm hồn mọi người bằng cách dùng văn nghệ làm rung cảm lòng người; và ngôn ngữ của văn nghệngôn ngữ tượng trưng mà nghệ sĩ là người có khả năng và trách nhiệm làm cho nó hội nhập vào thế giới ngôn ngữ thực, tức là tâm trạng mà con người cảm thấy có thực ở cuộc đời thực tế.
Giấc mộng của Nguyễn Huy Hổ là giấc mộng tiên. Ông nằm mộng thấy mình đi đến cảnh tiên và được gặp người tiên.
Chúng ta có rất nhiều từ ngữ về tiên, nhưng thực ra, nào ai biết tiên là gì, thấy tiên ra sao, gặp tiên ở đâu! Vậy tiên chỉ là hình ảnh tượng trưng, một mẫu người lí tưởng đủ cả chân, mĩ, thiện, sống thanh cao nơi một cảnh giới trong sạch, đẹp đẽ, an bình – gọi là “cảnh tiên”. Đó là những hình ảnh tưởng tượng chỉ có trong ước mơ của loài người, nhằm phản kháng lại cuộc sống giả dối, tạm bợ, ô uế, tù túng, hạn hẹp và đầy dục vọng của loài người nơi trần giới. Giấc mơ tiên của Nguyễn Huy Hổ cũng phát sinh từ ý thức phản kháng đó, nhằm tìm thỏa mãn cho cái khát vọng về mẫu người và cảnh giới lí tưởng của ông. Mẫu người và cảnh giới lí tưởng đó trước sau vẫn chỉ là những khái niệm trừu tượng, đã được diễn tả bằng nét tượng trưng qua những hình ảnh cụ thể trong thế giới ý tượng.
Vậy tượng trưng là một tính chất rất đặc biệtphổ biến của văn nghệ – và cả tôn giáo nữa. Tượng trưng là lối diễn tả “ý tại ngôn ngoại” (ý nghĩa không ở ngay trong lời nói), một lối diễn tả lấy cái thật nhỏ để chỉ cái thật lớn, lấy cái đặc thù để ngụ cái phổ quát, lấy sự vật cảm giác để thấy ý nghĩa cái siêu cảm giác, lấy cái hiện tượng mà nhìn cái siêu tượng.
Nhà phân tâm học Jung (1875-1961)(3), trước khi khảo cứu các hoạt động tiềm thức, nhất là về giấc mộng, đã rất chú ý đến vai trò của biểu tượng. Ông nói:

“Chúng ta gọi là biểu tượng, một danh từ, một tên gọi hay là một hình ảnh tuy đã quen thuộc với ta hằng ngày, nhưng còn gợi lên những ý nghĩa khác thêm vào ý nghĩa ước định hiển nhiên của nó. Biểu tượng gợi lên cái gì mờ mịt, xa lạ hay tàng ẩn đối với ta.
......
Như vậy, một chữ hay một hình ảnh sẽ trở thành một biểu tượng khi nào gợi đến cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp. Chữ ấy hay hình ảnh ấy có một khía cạnh không thể ý thức được, sâu rộng hơn, chưa bao giờ được xác định phân minh, được giải thích đầy đủ. Vả chăng không ai có thể giải thích được.
......
Có biết bao nhiêu sự kiện vượt khỏi phạm vi hiểu biết của người ta. Bởi vậy chúng ta luôn luôn dùng những biểu tượng để hình dung những khái niệm mà chúng ta không thể định nghĩa và hiểu biết đầy đủ. Cũng vì lẽ ấytôn giáo dùng thứ ngôn ngữ đầy biểu tượng và dẫn đạt ý tưởng bằng hình ảnh......” (4)

Một nhóm các nhà khảo cứu về “tâm lí văn nghệ học” ở Đài-loan cũng đã nói về tính chất tượng trưng như sau:

“...... Tính chất tượng trưng là lấy cái cụ thể để thay thế cái trừu tượng. Mĩ cảm phát sinh từ trực giác hình tướng, cho nên tác phẩm văn nghệ cần phải cụ thể hóa những ý tượng để trực tiếp rung động cảm quan. Nếu văn nghệ chỉ dùng toàn những khái niệm trừu tượng thì chúng ta không khỏi mắc vào cái chứng bệnh rất thông thường là chỉ cho người ta suy tư điều lí, chứ không cho người ta quan thưởng ý tượng. Ở nơi nghệ sĩ, những khái niệm trừu tượng từ trong trí óc phải được phiên dịch ra thành những ý tượng cụ thể; và sự phiên dịch ấy tức là tượng trưng vậy.
Văn nghệtượng trưng, cho nên đã có người bảo, văn nghệ là từ trong cái tướng riêng mà thấy được cái tướng chung, từ trong cảm giác biểu lộ ra chỗ lí giải; hay nói cách khác, lấy cái ý tượng cụ thể để tượng trưng cho khái niệm trừu tượng......”(5) (HC dịch)

Nguyễn Huy Hổ đã sống trải qua thời kì nhiễu nhương, bi đát của giai đoạn lịch sử Lê-mạt - Nguyễn-sơ. Ông chán ngán cái xã hội tao loạn ấy đến nỗi, mặc dù vốn thuộc dòng dõi khoa bảng từ bao đời, vốn là một văn tài của thế hệ, tuổi trẻ tài cao, nhưng ông đã bỏ cả việc thi cử, không màng danh lợi phồn hoa, chỉ vui say cuộc sống ẩn dật. Dù không ra mặt chống đối xã hội như làm một cuộc cách mạng chính trị, nhưng thái độ cũng chứng tỏ nơi ông một tinh thần phản kháng tiêu cực, và ông đã quay về với đời sống nội tâm để riêng tìm một nét đẹp cho tâm hồn; rồi từ đó ông đã ước mơ về một thế giới lí tưởng khác hẳn thế giới tao loạn, ô trọc hiện thời. Niềm ước mơ đó đã thúc đẩy ông sáng tác. Nhưng thế giới lí tưởng lại không có thật, mà chỉ là một khái niệm trừu tượng, vậy nó phải được biểu hiện thành những ý tượng cụ thể: đó là GIẤC MỘNG ĐÌNH MAI.
Nguyễn Huy Hổ thấy mình đến một nơi như động Đào-nguyên. Cửa động có vách cao, có dòng suối như để ngăn cách cảnh tiên với thế giới trần tục. Lối đi vào động đầy hoa và muôn chim vui hót đón chào. Càng đi sâu vào, cảnh tượng rực rỡ của non tiên càng hiện rõ: có rừng tùng, rừng mai, có lầu các bảo đài, có đình Thưởng-mai với tấm bảng chữ vàng rực rỡ:

Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra động-khẩu, khi vào Bồng, Doanh.
Đòi nơi chim lá hoa cành,
Dường chiều đón rước, như tình rủ rê;
Mấy chòm len lỏi sơn khê,
Dòng ngăn thú dật, vách che bụi trần.
Rủi quanh hoa kính lần lần,
Cảnh tiên riêng đợi tay thần mở mang.
Bầu trời ghẽ chiếm thanh quang,
Nẻo xa trông rõ mấy trang lão tùng.
Dưới tùng có gác nghinh phong,
Cách chừng thấy những phạm cung, bảo đài.
Băng chừng rảo bước tới nơi,
Tường sau nghìn gốc tảo mai quanh thành.
Biển đâu nét tạc rành rành,
Đề ba chữ “Thưởng Mai Đình” vàng tương.
(MĐMK, câu 83 - 98)

Nguồn Đào tức là “Đào-nguyên”, là một xã hộiĐào Tiềm đã diễn tả như thế giới cách biệt hẳn với xã hội phàm tục. Trong xã hội đó, con người vẫn sống một đời sống bình thường, vẫn làm việc, vẫn ăn uống, nhưng là một đời sống giải thoát, một cõi thiên đường, vì con người ở đó sống thanh thản theo tự nhiên, không biết đến danh lợi, không bị sự yêu ghét, thị phi làm hoen ố tâm hồn, không bị lôi cuốn vào những dục vọng đen tối, không biết đến sự thịnh suy dời đổi của các triều đại vua chúa thuộc xã hội bên ngoài. Không biết đến sự thịnh suy, biến đổi qua thời gian tức là sống vượt ngoài thời gian; không đua chen danh lợi, không bị hoen ố tâm hồn bởi những cám dỗ vật dục tức là sống vượt ngoài không gian; và sống thanh thản theo tự nhiên tức là sống vô vi theo lẽ “Đạo” – như Lão-Trang quan niệm. Vậy “Đào-nguyên” đã là một hình ảnh tượng trưng nói lên cái xã hội lí tưởng mà Nguyễn Huy Hổ hằng mơ ước.
Những hình ảnh cụ thể khác càng thêm tô đậm cho niềm mơ ước đó của ông: hình ảnh “mấy trang lão tùng” nói lên kiếp sống lâu dài của tiên tử, khác hẳn với kiếp sống phù du tạm bợ của con người; những hình ảnh như “gác nghinh phong”, “phạm cung bảo đài”, “lầu túc điểu”, “hồ du ngư”(6), “đồ thư”(7) v.v... đều nói lên cuộc sống thanh bình, cao khiết nơi thế giới thần tiên, không hề vướng víu bụi trần, không bị dục vọng ràng buộc.
Thế giới ô trọc thì dành cho người ô trọc, còn thế giới thanh khiết thì chỉ dành cho người thanh khiết; người ô trọc không thể nào đến được thế giới thanh khiết:

Cảnh tiên riêng đợi tay thần mở mang
(MĐMK, câu 90)

Người nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ đã cắt đứt được sợi dây cương tỏa của thế sự phồn hoa, lấy sơn thủy để di dưỡng tính tình; và khi tâm hồn đã được thanh tao hóa thì cảnh tiên tự khắc mở cửa đón mời, vì nó chỉ đóng kín đối với những tâm hồn ô trọc mà thôi. Hay nói cách khác, chỉ có những người biết xua đuổi những cám dỗ xấu xa, biết tự thắng những dục vọng kém hèn để hướng về thế giới lí tưởng thì họ mới đạt được thế giới lí tưởng đó. Và họ đạt được thế giới lí tưởng đó không phải bằng suy luận, bằng khái niệm trừu tượng, mà bằng mĩ cảm kinh nghiệm. Chính nhờ mĩ cảm kinh nghiệm mà nghệ sĩ biết mình đang sống thực trong thế giới đó, đang đi, đang nhìn, đang thấy v.v..., và “Thưởng-mai đình” rốt cục là hình tướng làm đối tượng cho chủ thể trực giác Nguyễn Huy Hổ, để từ đó nẩy sinh ra cuộc gặp gỡ lí thú giữa nghệ sĩ và giai nhân:

Băng chừng rảo bước tới nơi,
Tường sau nghìn gốc tảo mai quanh thành.
Biển đâu nét tạc rành rành,
Đề ba chữ “Thưởng Mai Đình” vàng tương.
Trong đình bốn báu sẵn sàng, (8)
Cánh mây mới thảo ngòi sương chửa rời. (9)
Xông mai chợt động bóng người, (10)
Vẻ lan vừa chán vội dời gót sen. (11)
(MĐMK, câu 95 - 102)

Hoa mai mang một dáng vẻ vừa thanh khiết vừa cao quí. Hoa mai lại là hoa của mùa xuân, biểu hiện cho sự sinh phát, một nguồn sống bắt đầu cho một chu kì sinh động tuần hoàn. Bởi vậy, vào những ngày đầu xuân, dân tộc ta dù là người ở giới nào cũng muốn có một cành mai trong nhà. Thái độ của chúng ta đối với hoa mai cũng khác đối với những loại hoa khác trong những ngày ấy. Chúng ta không xem hoa mai là thứ hoa dùng để trang hoàng cho đẹp nhà cửa, mà trong lòng chúng ta đối với nó như có một vẻ quí trọng và cũng có vẻ tin tưởng vào một sự thiêng liêng nào đó. Cho nên, nếu cành mai trong nhà ai càng nở hoa rực rỡ trong ngày đầu xuân, thì chủ nhân càng hân hoan vui mừng như thể nó đã đem đến tin lành cho năm mới.
Đầu xuân mở cuộc ngao du, Nguyễn Huy Hổ mơ thấy mình đi chơi đến vườn mai, nơi vườn mai lại có đình Thưởng-mai, ắt hẳn đây là nơi cư ngụ của người tôn quí, có một cuộc sống thanh cao, không vướng bụi trần. Ở một nơi vừa mang vẻ cao khiết vừa có ý ngụ tình như vậy, thì sự xuất hiện của giai nhân đâu có gì là lạ:

Vẻ sao ngọc chuốt, giá thanh, (12)
Bút thần đố vẽ nên tranh truyền thần.
Giá sao báu Triệu, châu Tần, (13)
Người sao so dưới cõi trần chưa ai,
Thực âu sắc nước hương trời,
Chẳng dòng thần nữ cũng vời tiên cung. (14)
(MĐMK, câu 107 - 112)

Thiếu nữ là một nàng con gái tuyệt đẹp, nét đẹp sang quí của tiên nhâncõi trần không thể có được. Vẻ đẹp của người trần thì dù đẹp đến đâu cũng có thể diễn tả được, nhưng đến như vẻ đẹp của tiên nữ thì làm sao diễn tả nên lời! Bởi vậy tác giả đã không tả tỉ mỉ về nhan sắc người con gái mà chỉ lấy một vài hình ảnh tượng trưng như “ngọc chuốt”, “giá thanh”, “báu Triệu”, “châu Tần”, cùng một vài nét ví von ẩn dụ như “bút thần đã vẽ”, “cõi trần chưa ai”, “sắc nước hương trời”... là đủ nói lên hết cái vẻ đẹp tuyệt trần của tiên nữ.
Nhưng trong sự gặp gỡ này, thi nhân mới chỉ “nhìn thấy” chứ đâu đã được cái hân hạnh “đối diện” với giai nhân! Ngày xưa Lưu, Nguyễn lạc bước vào Thiên-thai thì được gặp ngay tiên nữ và sống đời hạnh phúc; còn ở đây, khi thi nhân vừa mới trông thấy dáng vẻ của giai nhân từ xa xa thì nàng đã vội quay gót dời chân, chỉ để lại chút hương thừa còn phảng phất nơi cỏ cây hoa lá:

Xông mai chợt động bóng người,
Vẻ lan vừa chán vội dời gót sen.
Ghẽ ngang về mái tây hiên, (15)
Cành dao khuất bóng, xiêm tiên lẫn màu. (16)
Ít nhiều chùm quẹn chồi thâu, (17)
Hương thừa còn phảng phất đâu trước đình.
(MĐMK, câu 101 - 106)

Nhìn theo lối vào tiên cung thì đã muôn trùng cách biệt, khiến cho thi nhân chỉ còn biết ước mơ, thơ thẩn một mình:
Nguồn phong, động khóa trùng trùng, (18)
Khách thơ thêm những mơ mòng hồn thơ.
Biết đâu nước đợi non chờ,
Chúa xuân sao bỗng hững hờ cho đang!
Bào tình lần thấm giọt Tương, (19)
Thẫn thờ ngọn khói cành sương một mình!
(MĐMK, câu 113 - 118)

Thi nhân thật vốn thuộc nòi tình! Vừa mới thoáng thấy bóng giai nhân mà đã vội thầm yêu trộm nhớ, đến nỗi nước mắt ướt cả vạt áo, và chưa chi mà đã vội trách người sao nỡ hững hờ!
Tình yêu nơi người nghệ sĩ cũng có nét đặc biệt. Tình yêu phải có chút oái oăm, trở ngại, bắt họ phải vượt qua, phải khắc phục thì tình yêu mới có chất vị tình yêu. Với tính lãng mạn, đôi khi nghệ sĩ chạy theo tình yêu – dù biết là ngang trái – để chỉ cần nắm lấy một ảo ảnh, và lấy ảo ảnh đó làm nguồng sống cho riêng mình! Đã biết mối tình là vô vọng mà vẫn cứ muốn ôm vào nỗi đắng cay, niềm chua xót, để tạo thi vị cho riêng mình! Tâm trạng đó đố ai có thể giải thích được? Hình như tình yêu có làm rơi nước mắt thì mới thực là tình yêu của nghệ sĩ, và hồn thơ cũng do đó mà thêm dồi dào. Vậy thì, tình mộng mới đúng là nguồn năng sáng tạo phong phú của nghệ sĩ. Không ai cho rằng Lưu, Nguyễn là hai chàng nghệ sĩ, vì tình duyên đã đến với họ quá dễ dàng, quá tầm thường; trong khi đó thì người nghệ sĩ lại mơ ước được có cuộc tình của Lưu, Nguyễn, vì thực tế nghệ sĩ không có một cuộc tình như vậy. Nhưng giả sử khi nghệ sĩ đạt được mối tình xuôi thuận, dễ dàng như Lưu, Nguyễn thì họ liền mất ngay ý thức nghệ sĩ, vì sự xuôi thuận, dễ dàng ấy khó mà gây được sự rung động; – mà không rung động thì làm sao sáng tác!
Nguyễn Huy Hổ vừa mới vào động tiên đã bị ngay “tiếng sét ái tình”, nhưng lại là mối tình trắc trở. Vừa mới trông thấy bóng dáng giai nhân liền đã si tình, vậy mà nàng liền trở gót quay đi, khiến cho ông lòng càng đau, tình càng si. Nhưng dù sao thì thi nhân cũng chưa đến nỗi tuyệt vọng, vì giai nhân tuy quay gót nhưng tấm lòng thì đã bộc bạch rõ ràng:

Lén vào kề trước Côn-đình, (20)
Vách mai còn dán rành rành tiên mai: (21)
“Lứa ngọc cùng ai đó,
Trăng kia với khách này.
Một cành xuân đã sớm,
Mấy đóa tuyết nào bay.
Vẻ sạch mưa càng dãi, (22)
Lòng thơm gió nỡ lay.
Bướm con đừng thóc mách, (23)
Cho hái có nhường tay.” (24)
(MĐMK, câu 119 - 128)

Một bài thơ ngụ tình. Người thơ hội ngộ người thơ chính ở điểm này. Nghệ sĩ và giai nhân đã gặp nhau bằng hồn thơ. Giai nhân đã gói trọn tình ý mình trong vần thơ và gửi lại khách thơ. Giai nhân tự ví mình là đóa mai trong trắng như tuyết, vẻ sạch như sau cơn mưa, tâm hồn thanh cao chưa hề vẩn đục, chỉ làm bạn với trăng, với khách thưởng hoa. Và đóa hoa mai cao quí như ngọc này đã chọn cho mình một khách thưởng hoa rồi, những con bướm kia đừng đi thóc mách cho ai biết ở đây có hoa quí nhé!
Ý thơ kín đáo, tình thơ nồng nàn, giai nhân gói trọn tình ý gửi lại cho ai đây? Tại sao nàng lại đề thơ đúng vào lúc người thơ vừa đi tới? Há chẳng phải là nàng đã chủ ý chờ chàng đó sao? Nếu không có duyên lành kì ngộ thì làm sao được gặp gỡ nơi đây? Và nếu không là tri âm thì làm sao được đọc thơ này?

Câu thần, chữ thánh, người tiên,
Hay đâu là chẳng sẵn nguyền trăn năm. (25)
Phím hoàng đợi khách tri âm, (26)
Nên treo cân Lệ, ai cầm giá Côn. (27)
(MĐMK, câu 133 - 136)

Sự kì ngộ giữa tài tử và giai nhân vừa có tính cách ngẫu nhiên vì không hẹn mà gặp, lại vừa như là đã có một sự rắp tâm an bài.Tiên nữ viết bài thơ và dán nơi vách đình hẳn là có ý đợi chờ tri âm. Tình ý bài thơ nói lên một cách kín đáo cái tình cảm rạt rào của giai nhân như đã sẵn sàng trao trọn lòng mình cho khách tri âm. Vậy tiên nữ đề thơ đã có ý đợi chờ và để lại cho Nguyễn Huy Hổ chứ đâu phải vô cớ viết chơi! Và đã là chỗ tri âm như đã “sẵn nguyền trăn năm”, thi nhân đã hiểu được tình ý của giai nhân thì đâu còn rụt rè gì nữa, cho nên liền họa thơ đáp lại:

Trót đà tới Mẫu-đơn đình, (28)
Thơm chăng cũng bẻ một cành làm duyên,
Tục điêu cẵng bộ vần tiên, (29)
Liễu trì trước lá hoa tiên thế nào? (30)
Ngòi dao vừa ráo luật Đào, (31)
Với vần thơ trước sắp vào một phong:
“Dao-trì in vẻ ngọc, (32)
Đúc lại lá tiên này.
Nản gió hoa vừa náu, (33)
Nài hương nguyệt muốn bay. (34)
Chiếc đình còn phảng phất,
Cái bướm bỗng thày lay. (35)
Chẳng những xuân kia chọn,
Thần tiên cũng chắp tay.”
(MĐMK, câu 143 - 156)

Tác giả cũng tự cho mình là tiên tử, vì chỉ có người tiên mới gặp được người tiên. Nếu hoa mai thanh khiết kia chỉ muốn làm bạn với trăng thì trăng đây cũng chỉ vì hoa mai mà xuất hiện; nhưng vừa mới nghe hơi gió mà hoa đã sợ trốn mất rồi, chỉ lưu lại chút hương thừa ở trước đình. Đóa hoa kia đã có sắc đẹp tuyệt trần mà thơ lại hay quán thế, chả trách chi chúa xuân đã chọn hoa mai là hoa của mùa xuân, mà cả đến bậc thần tiên cũng chắp tay bái phục!
Bài thơ họa có ý ca tụng giai nhân, và trong thâm tình nửa chiều như đáp lại lòng trông chờ của tri âm, nửa chiều như trách móc giai nhân sao không cho diện kiến.
Hay chăng đây cũng là một kỉ niệm đẹp, cho nên thi nhân đã lấy bài thơ của giai nhân bỏ vào ống thơ cùng với bài họa của mình, tỏ ra có chiều âu yếm một bảo vật trên đời, một tang chứng của mối tình... như vừa được kết hợp. Rồi chỉ vì say cảm hồn thơ mà thi nhân tình càng lúc càng si, tâm trạng dật dờ như say như tỉnh:

Người tiên dẫu cách mấy trùng,
Dấu tiên cẵng phó thi đồng chắt chiu. (36)
Bỗng dưng trăng dật gió dìu, (37)
Làm sao lui tới cho đeo đẳng này.
Cuộc mê càng mải miệt thay,
Dập dờn chiếc bóng chay vay trót giờ. (38)
Một đình, một khách, một thơ,
Thôi thầm thì hỏi, lại mơ mẩn chào.
(MĐMK, câu 159 - 164)

Nhưng rồi thi nhân cũng sực tỉnh cơn mê, vì không lẽ đã có duyên đến được động tiên lại phải chịu tình trạng bẽ bàng như vậy sao! Cho nên chàng quyết định đi tìm người ngọc:

Hiên đâu kéo dãy hoa đào,
Đánh liều cả quyết bước vào thử xem.
(MĐMK, câu 165 - 166)

Tới đây chúng ta sẽ thấy tác giả có một cá tính trước sau vẫn nổi bật: đó là lúc nào cũng chú ý đến cảnh đẹp. Vì rất chú ý đến cảnh đẹp cho nên hễ gặp cảnh đẹp là diễn tả một cách tỉ mỉ – trong khi đối với giai nhân thì chỉ nói lên một vài nét đan thanh. Ở đây, mặc dù vẫn rất nhớ nhung tiên nữ, dù quá si mê đến nỗi đã đánh liều vào tận tiên cung tìm kiếm, vậy mà gặp cảnh đẹp thi nhân cũng không thể nào bỏ qua được! Trong phút chốc, thi nhân tạm quên đi hình bóng giai nhân mà để hết tâm hồn vào cảnh tiên đang bày ra trước mắt:

Thướt tha tơ liễu buông rèm,
Trà non uốn điệu, dương mềm khoe tươi,
Nhụy xuân rước gió như cười,
Chòm thanh khóm dật khác vời chân du, (39)
Có cây, có đá lô xô, (40)
Có lầu túc điểu, có hồ du ngư. (41)
Giữa trời một cuộc tiên cư, (42)
Đình đài mấy tóp, đồ thư mấy từng, (43)
Hoa say hạc ngủ mơ chừng,
Một rằng Bích-động, hai rằng Thanh-tiêu, (44)
Một hiên Huy-phượng cheo leo, (45)
Thấp đưa gió trúc, cao reo sóng tùng. (46)
(MĐMK, câu 167 - 178)

Thi nhân đã trải qua mấy lần say tỉnh từ lúc mới đến động tiên. Trước tiên là say vì cảnh đẹp trên con đường dẫn đến Thưởng-mai đình. Đang say cảnh thì chợt tỉnh ra khi trông thấy xa xa có bóng dáng giai nhân. Giai nhân trở gót thì mơ tưởng theo mà tâm thần mê mẩn. Sau đó lại tỉnh ra để đọc bài thơ giai nhân lưu lại trên vách. Càng đọc thơ lại càng cảm khái về cuộc kì ngộ tri âm. Cái không khí “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đã làm cho thi nhân càng mến vì tài lại càng say vì tình. Sau phút mê mẩn tâm thần ấy thì lại tỉnh ra và quyết đi tìm giai nhân. Nhưng giai nhân chưa gặp thì đã thấy ngay cảnh đẹp nơi tiên cung mà liền say vì cảnh. Và đến đây, trong khi tác giả đang say sưa trong cảnh đẹp, chợt bị ả tiểu hoàn đánh thức dẫn về thực tế:

Tiểu hoàn lẩn bóng hiên trung, (47)
Vén cành biếc, hái hoa hồng trước lang. (48)
Bóng người chợt thấy dung quang, (49)
Lanh chanh bước tới sỗ sàng hỏi ngay: (50)
“Người đâu quan khách đâu đây?
Lạ lùng xông xáo chốn này là sao!” (51)
(MĐMK, câu 179 - 184)

Chúng ta nghe trong lời nói của tiểu hoàn chứa đầy vẻ xấc xược, hỗn láo của những kẻ tôi đòi, ỷ vào thế lực của chủ nhân mà hống hách với người ngoài. Nhưng ở đây là tiên cảnh, dù có là nô tì thì tiểu hoàn vẫn là hạng “tiên đồng ngọc nữ”, tại sao lại có thái độ rất phàm tục như thế? Chẳng qua trong một lúc giao động, tác giả chợt bị tràn ngập trong chốc lát cái hình ảnh thô bỉ của xã hội đương thời. Cái hình ảnh ấy vẫn xảy ra nhan nhản ở thời tao loạn, và người dân cô thế chỉ biết nhịn nhục chịu đựng trong tủi hờn. Và chính ở đây, tác giả vừa có dịp giải tỏa mối ẩn ức ấy bằng con đường văn nghệ vậy.
Thái độ của kẻ tiểu nhân là như thế, nhưng đã là người quân tử, nhất là người nghệ sĩ quân tử thì đâu có để ý chấp nê. Cho nên thi nhân vẫn ngọt ngào:

Nhủ rằng: “Chớ đổ nhau nao! (52)
Qua đình Mai thấy thơ nào bỏ rơi,
Tài này Lí, Đỗ một hai, (53)
Xuân in cảo liễu tuyết tươi nét tùng, (54)
Nhời đâu thần khế đạo đồng, (55)
Hạnh đường bao ná, nhủ cùng được hay!” (56)
(MĐMK, câu 185 - 190)

Trước thái độ cao ngạo của tiểu hoàn, thi nhân vẫn khiêm nhường từ tốn, hết lời ca tụng chủ nhân; và cũng không quên tỏ ý cho tiểu hoàn biết rằng khách và chủ nhân đẳng cấp ngang hàng, lại là chỗ tâm đầu ý hợp. Nhưng tiểu hoàn đã không chú ý đến thái độ đó của khách mà lại giật lấy ống thơ của khách chạy biến vào trong nhà:

Hoàn rằng: “Mơ mẩn ngán thay!” (57)
Vội vàng giật lấy tiên mây trở vào. (58)
Tuyệt mù nào thấy đâu nào,
Cành bay phấn điệp hoa xào cánh thơm. (59)
(MĐMK, câu 191 - 194)

Tiểu hoàn xuất hiện tưởng là sẽ đem đến cho thi nhân niềm hi vọng tương kiến giai nhân, nhưng lại một phen nữa thất vọng ê chề, khiến thi nhân dạ càng ngẩn ngơ, lòng càng đoài đoạn:

Mảnh riêng càng nát như tươm, (60)
Càng ngơ ngẩn bóng, càng nâm nỉ tình. (61)
(MĐMK, câu 195 - 196)

Tình cảnh đã đến thế nhưng thi nhân vẫn không hoàn toàn tuyệt vọng, vì nghĩ rằng, nơi này đâu phải ai cũng có diễm phúc tới được! Nay thi nhân đã được diễm phúc ấy thì không lẽ chỉ đến đây để bị trêu chọc thôi hay sao?

“Chắc chi con trẻ đành hanh, (62)
Tin sương có lọt trước mành cho chăng? (63)
Tấc gang cách mấy mươi từng,
Không dưng hầu dễ gió Đằng cợt ai.
Chớ rằng lá thắm dòng khơi, (64)
Một thơ kéo được tơ trời mà hay!
Kiếp xưa cũng thế nào đây?
Họa hoằn chăng chẳng là tay vuông tròn. (65)
Mảnh tiên tạc lấy sắt son, (66)
Tấc lòng đem hỏi nước non mượn bàn.”
(MĐMK, câu 197 - 206)

Cho nên thi nhân vẫn có ý ngóng trông tin tức, và vừa lúc ấy thì tiểu hoàn lại xuất hiện:

Bàn mê những ngóng tin nhàn, (67)
Nhởn nhơ sực thấy bóng hoàn tận nơi.
(MĐMK, câu 207 - 208)

Từ khi bước chân đến non tiên và tình cờ được trông thấy bóng giai nhân, tác giả vẫn một lòng mơ ước được cùng giai nhân hội diện. Sau khi tiểu hoàn giật ống thơ chạy vào nhà trong, tác giả lại càng hi vọng hơn nữa ở sự hội diện đó. Giờ đây tiểu hoàn lại xuất hiện, nhưng không với cái vẻ xấc xược như lúc nãy mà thái độ trở nên nhí nhảnh mừng vui:

Tăn măn nói nói cười cười (68)
(MĐMK, câu 209)

thì thi nhân những tưởng là bài thơ họa của mình đã được lọt vào mắt xanh của giai nhân; và tiểu hoàn trở ra đây chắc là để dẫn mình vào gặp mặt giai nhân:

Rằng: “Vâng nghiêm lệnh rước người về sanh.” (69)
(MĐMK, câu 210)

Mang hi vọng đó, thi nhân đã theo chân tiểu hoàn trong niềm vui phơi phới, vừa đi vừa tỏ vẻ khoan khoái, xem ngắm cảnh này vật nọ, như để dấu đi cái trạng thái bồi hồi, khấp khởi trong tâm:

Cảnh tình một bước một thanh, (70)
Tắt chừng thư các rảo quanh trì đường. (71)
Ngoài sanh giá lục xây vàng, (72)
Bình đan xuân vẽ đài gương bóng lồng; (73)
Trong sanh mở cánh phù dung, (74)
Mắt trần luống những lạnh lùng vẻ ngân. (75)
(MĐMK, câu 211 - 216)

Những tưởng chủ nhân là nàng tiên nữ nọ, nhưng bây giờ thì thật ngỡ ngàng! “Nghiêm lệnh” không phải là chính nàng mà lại là vị phu nhân mẹ nàng! Bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu mơ tưởng trong đầu bỗng chốc tiêu tan mất cả! Trong cái không khí thâm nghiêm của tiên cung, với dáng vẻ uy nghi của vị phu nhân, tác giả cảm thấy mình chỉ là thân phận nhỏ bé, và chỉ biết khúm núm rụt rè khi bị hạch hỏi:

Ỷ trên thấy một phu nhân, (76)
Bước vào tự lễ phân tân trước tòa. (77)
Dạy rằng: “Quê phúc gần xa? (78)
Ấy ai thóc mách nên mà biết đây?”
Dứt lời, rén rén thưa bày:
“Khi xưa dòng dõi, khi nay phong trần. (79)
Mảng vui nước trí non nhân, (80)
Đăng lâm trước hẹn với xuân một lời, (81)
Cho nên trẹo nẻo lạc vời. (82)
Phúc-giang, Phượng-lĩnh là nơi quê nhà. (83)
Thày lay vâng chịu trót đà,
Hạnh nào lượng bể bao la muôn nhờ.” (84)
(MĐMK, câu 217 - 228)

Tuy là khúm núm rụt rè, nhưng trong lời nói, tác giả vẫn giữ được sự bình tĩnh, tự trọng. Tác giả vẫn không quên mình vốn là kẻ sĩ, vừa hãnh diện với dòng dõi khoa bảng, lại vừa bằng lòng với cuộc sống phong trần hiện tại; và nhất là lúc nào tác giả cũng tự hào về tâm hồn mang nặng nghệ sĩ tính của mình.
Sách Luận Ngữ nói: “Người TRÍ thích ở những vùng có nước; người NHÂN thích ở những vùng có núi. Người TRÍ thì động; người NHÂN thì tĩnh. Người TRÍ luôn luôn an vui; người NHÂN thường sống lâu.” (85)
Tác giả tự hào rằng mình là người gồm đủ cả trí lẫn nhân, cho nên chỉ thích ngao du ở những miền núi non sông nước. Trí và nhân là hai đức tính cao đẹp của một sĩ phu chính nhân quân tử, mà Nguyễn Huy Hổ đã tự coi đó là cá tính của mình. Về mặt huyết thống thì ông cũng luôn luôn hãnh diện về gia tộc nội ngoại của mình. Tổ phụ đều là các bậc danh nho, văn tài lỗi lạc, công danh rạng rỡ. Niềm kiêu hãnh đó ông đã bộc bạch qua lời tâm sự của vị phu nhânchúng ta có thể coi đó như là lời tự thuật của mẹ ông:

Nghe thôi lẳng lặng trót giờ,
Ngọc khoan khoan mới xa đưa dịu dàng, (86)
Rằng: “Gia quân với nghiêm đường, (87)
Chữ luân xưa cũng mối giường một hai, (88)
Đền Thương cùng nếm vạc mai, (89)
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô. (90)
(MĐMK, câu 229 - 234)

Các bậc tổ phụ cả hai bên nội ngoại của Nguyễn Huy Hổ đã từng phò tá các vua Lê thời trung-hưng (1532-1788), được sắp vào hàng đại thần. Bây giờ, trước cảnh đổi thay thăng trầm của cuộc thế, tác giả đâu còn lòng dạ nào ham tưởng lợi danh, đành chỉ biết vui thú đời ẩn sĩ với mẹ nơi quê nhà:

“Nấy sương vẹn bước vân cù, (91)
Dẫn nhàn riêng chiếm thú hồ sơn đây. (92)
Cơ trời dâu bể vần xây,
Trần-kiều biết mặt Chu này là ai. (93)
Lửa binh rấp thủa chông gai, (94)
Áo xiêm đổi thói, cân đai đau lòng. (95)
Nặng nguyền hưu thích dữ đồng, (96)
Theo chầu liệt thánh năm dòng mười dư. (97)
Bận bùng còn chút ngây thơ, (98)
Điền thôn quen lấy cầm thư đỡ phiền,
Dù chăng cảnh bụt làng tiên,
Với trần nghĩ đã diễn miền nước mây. (99)
(MĐMK, câu 235-246)

Với đoạn thơ trên Nguyễn Huy Hổ đã bộc lộ cho chúng ta thấy, trong ông có hai con người: con người xã hội với mộng “kẻ sĩ” mà tác giả ấp ủ trong lòng từ lâu; và con người cá nhân với nghệ sĩ tính mà tác giả đang vui sống hiện giờ. Nhưng ở đây, trong giờ phút này, chưa phải là lúc để cho con người xã hội tự do phát khởi, cho nên tác giả đã tự kềm chế nó lại, để cho con người cá nhân tiếp tục hiện diện bằng cách trở lại mối duyên tình với tiên nữ:

“Tiền nhân túc trái sao đây, (100)
Không dưng ngươi biết chốn này là đâu!
Mới rồi dạo tới thư lâu,
Nhẹ nhàng vừa thấy con hầu nói qua,
Khách nào la lướt yên hà, (101)
Một mình thơ thẩn dò la hạnh đường.
Lại đưa hai bức thi chương,
Khác chiều nên bảo đón chàng vào chơi. (102)
Lời quê trẻ nó dông dài,
Thêm hoa may lại gặp tài văn nhân, (103)
Xem trong xướng họa mấy vần,
Lấy mai mà vẽ lòng xuân cần quyền. (104)
Hay đâu là nợ là duyên,
Là thân trước trẻ, là nguyền xưa ngươi. (105)
Khen cho cẩm tú sắc tài, (106)
Lạ cho con Tạo lựa người ghê thay.
Kiếp trần dây dướng dường này, (107)
Lửa hương chờ đợi tới tay anh hùng. (108)
(MĐMK, câu 247 - 264)

Theo lời phu nhân thì bà rất hài lòng về cuộc nhân duyên giữa chàng và con gái bà. Bà cũng tin rằng, khi Nguyễn Huy Hổ đã tới được nơi đây, chắc hẳn là do duyên trời định. Vả lại, đọc hai bài thơ xướng họa của hai người thì bà càng thấy rõ chỗ tâm đầu ý hợp; trai tài gái sắc quả là vừa lứa xứng đôi.
Nghe mấy lời ấy chắc là lòng thi nhân xúc động bồi hồi, mừng vui khấp khởi, tưởng rằng cuộc tình như thế là được vẹn toàn, nguyện ước đến đây đã được trăm phần thành đạt. Nhưng không, nhân duyên tuy đã buộc, lời ưng thuận tuy đã được nói ra, vậy mà cuộc sum họp chưa thể cho thỏa mãn được! Chàng phải trở về lo lập công danh sự nghiệp cho xứng đáng kẻ làm trai, bấy giờ đôi lứa mới được kết hợp sum vầy:

“Ấy nhân duyên, ấy tao phùng, (109)
Dẫu đâu sắc sắc không không, nghĩ gì. (110)
Lọ là nhạn cá đi về, (111)
Lứa đôi chăng lại một kì tái lai. (112)
Nền thi lễ cẵng dùi mài, (113)
Tiếng khôi đừng thẹn với mai mới hào, (114)
Duyên lành hẳn đợi giá cao,
Đất bằng sấm đã, thơ đào lại ca. (115)
(MĐMK, câu 265 - 272)

Từ khi lạc bước đến động tiên, chàng chỉ một lần thoáng thấy bóng giai nhân nơi đình Thưởng-mai – lúc nàng vừa đề xong bài thơ trên vách. Từ đó, trải qua mấy lúc kiếm tìm, đã nuôi bao niềm hi vọng, cho đến bây giờ được dịp diện kiến phu nhân mà bóng hồng vẫn bặt tăm, lối vào động đào vẫn khóa chặt. Tình duyên thì chấp thuận nhưng cuộc hội ngộ thì không cho; và hi vọng cuối cùng vẫn chỉ là một lời hứa của người bề trên:

“Xe duyên đành có trăng già,
Mặc dù nhân quả chớ ra quan hoài. (116)
Hồn mai còn nhớ đình mai,
Cảnh quen hẳn chẳng lạ người quen đâu.
Còn non còn nước còn lâu,
Còn câu thơ ấy là câu sấm rồi.”
(MĐMK, câu 273 - 278)

Cuộc mộng tình của tác giả chỉ có vậy. Thật cao khiết, thật thanh tao! Và giấc mộng cũng được chấm dứt nơi đó:

Đương khi từ tạ khúc nôi, (117)
Giang thôn đâu động tiếng còi mục nhi. (118)
Trong thuyền sực tỉnh đòi khi,
Tấc riêng dồn dã khôn suy tin ngờ. (119)
(MĐMK, câu 279 - 282)

Giấc mộng của Nguyễn Huy Hổ đã diễn tiến theo thứ tự trước sau, có tình tiết mạch lạc, thành hẳn một câu chuyện tròn đầy ý nghĩa. Nếu xét theo quan điểm của một số người thì giấc mộng đó có vẻ giả tạo, vì người ta không bao giờ tự tạo ra mộng, mà chỉ “bị” mộng. Hay nói khác đi, chúng ta chỉ là “dụng cụ” của mộng; theo đó, nếu một câu chuyện mộng có đầu đuôi mạch lạc, có ý nghĩa rõ ràng, thì đó chỉ là một chuyện bịa đặt, hay ít ra cũng là do người kể chuyện thêm thắt vào cho có ý nghĩa. Nhưng những kinh nghiệm về mộng cũng cho chúng ta thấy, mộng có thể gồm nhiều loại:
1) Trước hết, mộng là “mộng mị”, tức là giấc mộng bình thường trong lúc ngủ mà bất cứ người nào cũng có. Trong trường hợp này, ý thức không còn ở tư thế chủ động, mà chỉ có những hoài niệm sống lại một cách tự do. Ý thức lúc đó chỉ là thứ “ý thức trong mộng”, không có sức suy tư bén nhạy như lúc thức; mà mọi sinh hoạt tâm thần đều do tiềm thức trỗi dậy tăng gia áp lực chi phối. Vì vậy nên hình ảnh của mộng mị rất lộn xộn (tạp mộng), không thứ tự, vô nghĩa.
Bergson(120) quan niệm rằng, chiêm bao được cấu thành do hai yếu tố: kí ức (hoài niệm) và cảm giác. Hoài niệm của chúng ta có rất nhiều trong lúc thức, nhưng có những hoài niệm nhỏ nhặt, tầm thường quá, nên chúng ta không để ý đến; tuy vậy, chúng không tiêu mất mà vẫn tiềm tàng ở đáy trí nhớ. Rồi trong khi ngủ, các giác quan của chúng ta vẫn còn cảm giáccảm giác do từ ngoài mà cũng có thể do ở trong thân ta. Khi kí ức ráp được với cảm giác –mặc dù ráp không đúng– thì sinh ra mộng. Kí ức lúc ta thức tỉnh thì được lựa chọn, nhưng lúc ngủ rồi thì hiện ra một cách xô bồ, lộn xộn, cho nên các hình ảnh trong mộng hầu hết là không trật tự, đầu Ngô mình Sở. Ông nói:

“Yếu tính của mộng là không ráp đúng cảm giác với hoài niệm, nhưng còn để lại một chút gì lỏng lẻo, trục trặc, cho nên một cảm giác trong mộng có thể gợi ra rất nhiều hoài niệm khác nhau. Chẳng hạn một vết xanh rải rắc điểm trắng trong thị giác trường có thể cụ thể hóa hoài niệm một vườn cỏ xanh có trồng hoa, hoài niệm một bàn bi-a với mấy hòn bi, hay là nhiều hoài niệm khác nữa. Tất cả muốn sống lại trong cảm giác ấy, tất cả đuổi theo nó. Đôi khi chúng lần lượt kế tiếp nhau nhập vào cảm giác; vườn cỏ biến thành bàn bi-a, và chúng ta chứng kiến những sự biến đổi kì quái. Có khi chúng cùng nhau nhập cả vào cảm giác: lúc đó vườn cỏ là bàn bi-a, một sự phi lí mà người mộng có lẽ sẽ tìm cách trừ khử bằng một lí luận, nhưng lí luận lại làm cho mộng thêm phi lí......” (121)

2) Thứ đến, có thứ mộng gọi là “mộng triệu” (tức là điềm mộng). Người ta tin tưởng rằng, trong những trường hợp đặc biệt, giấc mộng có thể báo trước cho người nằm mộng một việc sẽ xảy ra trong tương lai cho chính người nằm mộng, – hay cho thân nhân, bạn bè họ; như câu chuyện sau đây kể rằng:

“Bà X, một đêm nằm mơ thấy một con ác quỉ đến bảo bà phải chọn giữa hai người: chồng bà hay con bà, một người phải chết. Bà phân vân đau khổ, nhìn chồng rồi lại nhìn con, bà hông muốn cho ai phải chết cả. Nhưng trước áp lực dữ tợn của con quỉ, bà đành phải đặt tình mẹ con nặng hơn nghĩa vợ chồng: bà chọn chồng chết. Bà liền kinh hoàng thức dậy, thân thể ướt đẫm mồ hôi, vẫn thấy chồng và con đang ngủ ngon giấc bên cạnh.
Sáng hôm sau và suốt luôn cả mấy ngày, bà vẫn thấy chồng đi làm bình thường, sức khỏe vẫn dồi dào, con bà vẫn mạnh khỏe. Bà yên tâm, cho rằng điềm chiêm bao chỉ là mộng ảo do máu huyết sinh ra. Bà giữ kín câu chuyện, chỉ kể cho một người duy nhất là cô em gái của bà biết mà thôi.
Được đúng một tuần từ đêm nằm mộng, chồng bà đi làm về bị mưa ướt sũng và phát sinh bệnh sưng phổi. Mặc dù cứu chữa tận tâm, nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng; sau một tuần thì ông X từ trần.” (122)

Nhà phân tâm học Jung, trong khi tìm hiểu về giấc mơ cũng cho rằng, mộng có lúc như là một thông điệp để báo trước cho người nằm mộng biết một sự việc sắp xảy ra, và điều đó không có vẻ gì là tà thuật cả. Ông nói:

“...... Giấc mơ có thể báo trước một vài tình trạng mãi về sau mới xảy ra. Không cần phải phép lạ hay tiên tri. Trong đời sống của ta rất nhiều sự khủng hoảng đã qua một lịch trình tiến triển rất dài ở ngoài tầm ý thức của ta. Chúng ta tiến dần tới nó từng bước một mà không nhận thấy những mối hiểm nguy chồng chất. Nhưng điều gì ý thức ta không lí hội được, tiềm thức ta nhận thấy, nó có thể thông báo cho ta biết bằng giấc mơ.”(123)

3) Cũng có thứ mộng gọi là “mộng cách cảm”, mà người nằm mộng thấy một biến cố quan trọng như tai nạn hay chết chóc xảy ra ở một nơi xa xôi cho thân nhân, bạn bè họ. Người ta kể lại câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1857:

“Một viên thiếu tá người Anh tòng quân tại Ấn-độ. Bà vợ của ông ta ở Luân-đôn, một đêm nằm mộng thấy rõ ràng chồng bà đang đứng trước mặt, bị trọng thương ở ngực, mình dính đầy máu, bảo bà: “Mình ơi! Tôi chết!” Bà kinh hoàng tỉnh giấc, kể giấc mộng với bà con, rồi chịu tang chồng. Mấy ngày sau bà được công văn của bộ Chiến-tranh báo cho biết là chồng bà đã từ trần, nhưng trong tờ công văn lại ghi sai ngày chết. Bà yêu cầu bộ đính chính. Sau nhiều ngày điều tra, tờ phúc trình chính xác cho biết chồng bà bị trọng thương ở ngực trong một trận giao tranh, và đã tử trận đúng vào ngày giờ bà đã nằm mộng thấy việc ấy.”(124)

Những chuyện mộng cách cảm như vậy đã xảy ra không ít; và trong rất nhiều trường hợp, người ta đã nhờ những giấc mộng đó mà tìm ra thủ phạm giết người hay tìm ra xác người chết đã bị chôn giấu kín đáo.
4) Có loại mộng gọi là “mộng thần linh”, mà người ta cảm thấy như mình được thần linh mặc khải để hoàn thành một công trình phát kiến hay sáng tạo. Đó là trường hợp đặc biệt mà các khoa học gia hay văn nghệ sĩ thường được kinh nghiệm, như Bergson đã đề cập đến:

“Cố nhiên, người ta đã kể lại một số trường hợp tác phẩm nghệ thuật, văn chương hay khoa học được sáng tác trong một giấc mộng. Tôi chỉ xin nhắc lại đây một trường hợpmọi người đều biết đến. Tartini, một nhạc sĩ thế kỉ 18, cố gắng sáng tác một nhạc khúc, nhưng thần nhạc lạnh lùng, không đáp ứng. Ông ngủ đi, và lúc đó quỉ đã đích thân hiện đến, nắm lấy chiếc vĩ cầm và đánh lên khúc nhạc ông ta đang ước ao sáng tác. Khúc cầm nhạc ấy, khi tỉnh dậy, ông đã chép lại thuộc lòng, và đã lưu lại cho chúng ta với tên “Khúc Cầm Nhạc Quỉ” (Sonate du Diable).” (125)

Sự tin tưởng vào mộng thần linh này rất được phổ biến ở các xã hội cổ Tây-phương cũng như Đông-phương. Thời cổ Hi-lạp người ta cho rằng, mỗi ngành nghệ thuật đều có một vị nữ thần chủ tể, và thơ là lời truyền chỉ của thiên thần do thi nhân nói lại. Các văn gia Trung-hoa cũng thường tin tưởng như vậy, cho nên họ thường nói: “Hạ bút như hữu thần trợ” (mỗi lần đặt bút xuống viết là như có thần linh giúp đỡ). Tương truyền, Giang Yêm một đêm nằm mộng thấy một người xưng là Quách Phác(126) hiện về bảo: “Tôi đã cho ông dùng bút của tôi trong nhiều năm qua, nay xin ông trả bút ấy lại tôi.” Ông liền tìm thấy trong người có cây bút ngũ sắc, bèn trả lại cho Quách Phác. Từ đó về sau, ông không bao giờ làm được những bài thơ hay như trước nữa. (127)
5) Mộng còn là “mộng ảo”, là quan niệm của Đông-phương cho rằng cuộc đời không có gì là trường tồn, mọi vật kể cả con người đều do các nhân duyên giả hợp mà thành, rồi tan biến đi như giấc mộng. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng lớn, và chiêm bao là những giấc mộng bé trong giấc mộng lớn. Tào Tuyết Cần(128) thuở nhỏ sống trong một gia đình hào phú phong lưu, coi bạc vàng như cỏ rác, nhưng về sau lại trở nên bần cùng đến độ không đủ gạo nấu cơm. Do đó, ông đã cảm khái về sự thăng trầm, mộng ảo của cuộc đời mà viết nên tuyệt phẩm Hồng Lâu Mộng. Và cảm thức này cũng là đề tài cho bao nhiêu nghệ sĩ nước ta như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) (129), Cao Bá Quát (1801-1854), Tản Đà (1888-1939) v.v...
6) Và sau cùng, mộng cũng có khi là “mộng mơ”, là trạng thái tâm hồn xa rời thực tại để tự do vân du nơi phương trời vô định. Trạng thái mộng này xảy ra ở bất cứ một người nào, nhưng đối với nghệ sĩ thì nó trở thành nguồn sáng tạo phong phú. J. Supervielle (1884-1960) nói:

“Thơ đến với tôi từ một giấc mộng lẩn quất miên man. Mộng đó tôi thích đưa về một hướng, trừ những ngày thấy hứng thì tôi có cảm tưởng rằng nó liệu đi một mình......
Mơ mộng tức là quên thể chất của bản thân, là một cách hỗn hợp ngoại giới lẫn nội tâm. Có lẽ tính chất vô-sở-bất-tại của thi nhân nào đem hồn vũ trụ vào thơ, chẳng có nguyên do gì khác.
Bao giờ tôi cũng mơ ít nhiều khi nhìn một vật gì, chính ngay lúc tôi thấy nó và khi càng thấy rõ dần......
Khi nào tôi về thôn quê, phong cảnh biến ngay vào cảnh nội tâm, không biết nó theo lối nào mà lén từ ngoài vào trong, tôi tiến bước như đi trong thế giới tinh thần của chính mình tôi.
Đôi khi người ta ngạc nhiên vì thấy tôi vui thích lạ lùng trước cảnh đời, sở dĩ như vậy là tại tôi thường mơ mộng liên miên, mà trí nhớ của tôi lại lu mờ. Cả hai nguyên nhân cùng đưa tôi từ sự lạ này sang sự lạ khác, và còn khiến cho tôi thấy gì cũng ngạc nhiên; tôi tự bảo: “Ô kìa, có cây, có biển, có đàn bà. Mà cũng có những người rất đẹp.”
Nhưng nếu tôi mơ màng, thì ở lãnh vực thơ, tôi vẫn ngả về một hướng rất đích xác, một tính cách vừa chính xác vừa hư ảo.” (130)

Xã hội văn minh ngày càng đưa đời sống con người rời xa nội tâm chân thật. Chúng ta càng cố gắng dùng lí trí để hợp lí hóa mọi vấn đề thì càng bỏ rơi khía cạnh tình cảm. Trong công việc dùng lí trí để hợp lí hóa ấy, chúng ta chỉ biết sống bằng những khái niệm trừu tượng, bằng những phản ứng ước lệ, nghĩa là một nếp sống giả tạo, không dám nói ra tiếng nói đích thực của lònh mình, – vì mặc cảm, vì sợ bất lợi, sợ khen chê v.v... Rõ ràng là có một sự ngăn cách giữa ý thứctiềm thức trong mỗi chúng ta. Ôi, thiên nhiên thật diễm tuyệt! Nhưng chúng ta từ lâu đã không còn đem tâm tình tham dự vào nếp sống linh động của thiên nhiên; mối liên lạc giữa con ngườithiên nhiên bị đứt đoạn từ khi nếp sống duy lí với tri thức luận được lan tràn. Và bây giờ thì chỉ còn có MỘNG – MỘNG THỨC lẫn MỘNG NGỦ – là giữ vai trò quân bình đời sống tin thần, là chiếc cầu nối liền giữa ý thứctiềm thức. Jung nói:

“Lương tâm càng bị ảnh hưởng bởi thành kiến, lầm lỗi, ám ảnh, ý muốn vô vị, cái hố ngăn cách sẵn có lại càng mở rộng đến thành tình trạng phân tán có tính cách suy nhược thần kinh, đưa đến một đời sống ít nhiều giả tạo, xa hẳn những bản năng bình thường, xa hẳn thiên nhiênchân lí.
Chức vụ đại quát của mộng mị là tìm cách lập lại quân bình tâm lí nhờ những vật liệu của giấc mơ. Giấc mơ có khả năng huyền diệu lập lại được sự quân bình của toàn thể cơ cấu tâm thần. Như thế tôi gọi là trách vụ bổ túc (hay đền bù) của giấc mơ trong tổ chức tâm thần của ta.” (131)

Mộng lập lại thế quân bình giữa ý thứctiềm thức nghĩa là nó giúp chúng ta tìm vào và mở rộng bản ngã chân thật. Chỉ trong lúc mộng chúng ta mới nghe được tiếng nói chân thành của tiềm thức về những ước mơ thầm kín. Khi nào lí trí không hoạt động trong cơ cấu tâm thần thì khi ấy chúng ta có mộng, và chỉ trong khi mộng trí tưởng tượng mới hoạt động mạnh mẽ, – mà trí tưởng tượng lại chính là cội nguồn của sáng tác văn nghệ.
Bergson cho rằng nghệ sĩ là người không hay lo lắng về vật chất, không hay để ý đến thực tế, – họ là người đãng trí! Trạng thái đãng trí ấy là trạng thái mộng. Vậy mộng là chất liệu sáng tạo của nghệ sĩ. Nghệ sĩ không thể thiếu mộng mà có thể sáng tác được. Nghệ sĩ và mộng không thể rời nhau, như quan niệm của Reverdy:

“Phải rồi, đời nhà thơ là một giấc mộng liên miên bất tuyệt; y mơ màng về sự có thật. Giấc mơ của y là một giả thiết về cuộc đời, cũng như giả thiết của nhà bác học là một giấc mơ có tính chất khoa học.
...
Bẩm sinh phải biết mơ mộng cho mãnh liệt; nhờ sức đó mà luyện cho mạnh mẽ hồn thơ. Đối với nhà thơ, mơ mộng là một đường mạch khoáng sản, từ nơi đó, cần khai thác ra những thỏi vàng. Phải xuống thấp tận hang hầm cõi mơ để tìm được những quặng vàng đẹp nhất.” (132)

Vậy ở đây, với Nguyễn Huy Hổ, chúng ta thấy rõ giấc mộng lên tiên của ông đã chứng tỏ cái khả năng quân bình hóa giữa ý thứctiềm thức, một sự hòa điệu giữa con người với cõi siêu nhiên vô hạn, được biểu lộ qua mối tình tiên-tục. Mặc dù Nguyễn Huy Hổ cũng tự nhận thức rằng mình chưa gột sạch bụi trần, tâm hồn chưa được thanh tao đúng mức nên sự hòa điệu không thể nào đạt được như ý, nhưng cuộc tình đã kết thúc bằng một lời hứa hẹn – có nghĩa là chưa kết thúc. Điều đó nói lên cái ý sâu xa của ông là ông sẽ cố gắng hơn nữa trong việc di dưỡng tính tình để tâm hồn thanh tao đúng mức, hầu có thể nhập điệu hoàn toàn vào cõi siêu nhiên, lại sẽ tiếp nối một giấc mộng tiên lâu dài đến vô tận...
Vậy mộng ở đây không phải là thái độ mê loạn của con bệnh thần kinh; mộng cũng không phải chỉ là sự biểu lộ của dục tình bị dồn nén như Freud đã nói; mà với sự khám phá của Bergson, của Jung, của Reverdy, với thức quan của dân tộc Đông- phương nhìn sâu vào miền sâu thẳm của tâm linh con người, mộng chính là nguồn sáng tạo nghệ thuật do ở nhiệm vụ quân bình hóa nếp sống duy lí với tình cảm chân thật, nối liền sinh hoạt ý thức với sinh hoạt tiềm thức, đem lại sự hòa điệu toàn diện cho toàn thể đời sống tinh thần. Và hơn thế nữa, mộng còn có trách vụ quan trọng là nối lại mối liên lạc giữa con ngườivũ trụ, phát triển cái “thiên địa chi tâm” hằng có nơi mỗi người.


CHÚ THÍCH

1) Sigmund Freud là người Áo gốc Do-thái, có tư chất thông minh, rất được gia đình cưng quí. Ông rất giỏi về các khoa sinh lí học, não cân học, và chuyên nghiên cứu về bệnh thần kinh, dùng phương pháp phân tâm học để trị bệnh. Học thuyết của ông bành trướng thật mạnh mẽ và đã qui tụ được rất nhiều môn đệ. Ông sáng tác nhiều tác phẩm giá trị trong lãnh vực phân tâm học và được phổ biến khắp hoàn cầu. Người ta dùng học thuyết của ông để áp dụng vào đủ mọi ngành: triết học, nghệ thuật, văn chương, tâm lí học, xã hội học v.v...
2) Sigmund Freud, Phân Tâm Học Nhập Môn, Nguyễn Xuân Hiếu dịch (Sài-gòn: Khai Trí, 1970), trang 152.
3) Carl Gustav Jung, người Thụy-sĩ, tốt nghiệp y khoa và chuyên về bệnh thần kinh. Ông để rất nhiều thì giờ nghiên cứu tâm lí học, thần thoại học và ngôn ngữ học. Ông là một nhà phân tâm học nổi danh, nhưng chống lại phương pháp của Freud, đến nỗi Freud muốn chọn ông là người kế nghiệp nhưng rồi hai người phải xa nhau.
4) Carl Gustav Jung, Thăm Dò Tiềm Thức, Vũ Đình Lưu dịch (Sài-gòn: Hoàng Đông Phương, 1967), trang 16-18.
5) Trích dịch từ sách Văn Nghệ Tâm Lí Học (Đài-loan: Khai Minh thư điếm, 1958), trang 200.
6) Túc điểu, Du ngư: Xin xem chú thích số 41 ở sau.
7) Đồ thư: Xin xem chú thích số 43 ở sau.
8) Bốn báu: bốn thứ văn phòng phẩm người xưa thường dùng: giấy, bút, mực, và nghiên mực.
9) Cánh mây: giấy hoa tiên, loại giấy có vẽ mây hay những hình hoa thật mờ nhạt, thường dùng để chép thơ. - Ngòi sương: cây bút.
10) Xông: cái chái nhà, ở đây chỉ cho cái mái của đình Thưởng-mai; – giáo sư Nghiêm Toản chú thích là lướt qua; “xông mai” là lướt qua khóm mai.
11) Vẻ lan: dáng vẻ người con gái đẹp; ở đây tức là người đẹp. - Chán: đã thỏa lòng.
12) Ngọc chuốt: ngọc đã được đẽo gọt. - Giá thanh: trong trắng như băng.
13) Báu Triệu: hạt ngọc nước Triệu. Vua Huệ-văn nước Triệu được viên ngọc bích quí giá của Biện Hòa nước Sở. Vua nước Tần là Chiêu vương nghe tin, xin đem 15 thành để đổi lấy viên ngọc mà không được. - Châu Tần: hạt ngọc nước Tần. Tần Mục công có một người con gái. Lúc nàng này mới sinh, có một người đem dâng vua một viên ngọc phác (còn nguyên trong đá, chưa dũa). Vua sai thợ dũa đi, thành một viên ngọc màu xanh biếc, đẹp vô cùng. Khi bé gái đầy tuổi tôi, trong cung bày đủ thứ đồ vật, thì bé chọn ngay viên ngọc ấy, rồi ngắm nghía mãi ra vẻ rất thích thú. Bởi vậy, bé được đặt tên là Lộng Ngọc.
14) Vời: chừng, dường.
15) Ghẽ: rẽ.
16) Cành dao: cành ngọc, chỉ cho người đẹp.
17) Chùm quẹn chồi thâu: cây lá quyện lấy, thu lấy mùi hương của người đẹp.
18) Nguồn phong: các khe, suối đều bị bít lối. - Động khóa: cửa động bị khóa chặt. Câu này ý nói: chốn này cách biệt hẳn một nơi, khó ai có thể vào được. – Bốn chữ “nguồn phong động khóa” này, trong ấn bản của nhà Sông Nhị (1951) chép là: “nguyên phong đồng tỏa”, và giáo sư Nghiêm Toản chú thích là: “niêm phong y nguyên bằng khóa đồng.” Vì phiên âm sai nên chú thích cũng sai theo.
19) Bào tình: Chữ “bào” nghĩa lá áo; “bào tình” có ý nói, nước mắt vì tình rơi làm ướt áo. - Giọt Tương: nước mắt nhỏ xuống sông Tương, ý chỉ sự thương khóc người tình. Sông Tương phá nguyên trong địa phận tỉnh Quảng-tây (Trung-hoa), chảy theo hướng Đông-Bắc, ngang qua Trường-sa, rồi vào hồ Động-đình (một trong “ngũ hồ” danh tiếng của Trung-hoa), thuộc đia phận tỉnh Hồ-nam. Trước khi chảy vào hồ Động-đình, sông Tương nhập một với sông Tiêu (một con sông ngắn của tỉnh Hồ-nam) tại phía Tây Bắc huyện Linh-lăng, cho nên khúc sông này được gọi là sông Tiêu-Tương. Vùng này khi xưa là quận Thương-ngô, thuộc Giao-chỉ. Tương truyền, ngày xưa vua Thuấn (2255-2208 tr. Tây lịch) đi du lãm đến vùng này thì mất. Hai bà vợ của vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến sông Tiêu-Tương, cả hai đều ngồi bên bờ sông mà khóc, nước mắt chảy vào những bụi tre. Về sau, tre mọc ở bờ sông Tương đều có lấm chấm, trông giống như đồi mồi. Người ta thường dùng những tiếng “Tiêu-Tương”, “sông Tương”, “giọt Tương”, “mạch Tương” để diễn tả nỗi nhớ nhung của vợ chồng hay tình nhân khi phải xa cách nhau.
20) Côn-đình: đình Côn-lôn, chỉ nơi tiên ở.
21) Tiên mai: tờ giấy hoa tiên có vẽ mai.
22) Câu này có nghĩa là hoa đã sạch mà sau cơn mưa lại càng sạch hơn.
23) Thóc mách: tò mò tìm hiểu chuyện riêng của người để nói lại cho người khác nghe.
24) Dường: mức độ đã được qui định.
25) Nguyền: lời hẹn ước.
26) Phím hoàng: phím đàn gẩy khúc “Phượng Cầu Hoàng” của Tư-mã Tương Như (đời Hán) để quyến rũ nàng Trác Văn Quân. “Phím hoàng” hay “phím loan” là những mĩ từ dùng chỉ cho cây đàn. - Tri âm: nghe tiếng đàn mà hiểu được tâm sự của người gảy đàn (xem chữ “Bá Nha” ở chú thích số 4, chương 5); nghĩa bóngbạn thân, hiểu rõ tính tình nhau.
27) Cân Lệ: cân hạt châu lấy ở sông Lệ (một phụ lưu của sông Trường-giang), – hạt châu ở sông Lệ rất nặng. - Giá Côn: ngọc ở núi Côn là ngọc quí hiếm có, phải đợi được giá thật cao mới bán. – Câu này ý nói đang chờ đợi người ý hợp tâm đầu, như hạt châu sông Lệ vẫn còn treo, chưa có ai cân; như hạt ngọc núi Côn vẫn còn giữ kín, chưa cho ai đánh giá.
28) Mẫu-đơn đình: cái đình trong vườn hoa mẫu đơn. Xưa vua Đường Minh Hoàng có xây một cái đình trong vườn hoa mẫu đơn để cùng Dương quí phi bách bộ thưởng hoa. Vừa thấy mặt Dương quí Phi, vua Đường vội hớn hở khen rằng: “Mặt khanh đẹp như hoa mẫu đơn này vậy.” – “Mẫu Đơn Đình” cũng là tên một truyện truyền kì do Thang Hiển Tổ đời Minh (1386-1661) soạn. Truyện kể rằng: Con gái của Đỗ Bảo (thái thú Nam-an) là Đỗ Lệ Nương, nằm mộng thấy thấy cùng với thư sinh Liễu Mộng Mai gặp nhau ở đình Mẫu-đơn. Tỉnh dậy, vì quá nhớ nhung chàng thư sinh, nàng sinh bệnh tương tư mà chết. Nhưng sau đó may mắn nàng được sống lại, rồi lại được cùng Liễu Mộng Mai nên duyên vợ chồng.
29) Tục điêu: nối điêu, tức nối đuôi con điêu; nghĩa bóng là họa vần. “Điêu” là một loại chồn sống gần Bắc-cực, đuôi lớn, lông dầy, da dùng may áo mặc rất ấm. Dưới triều đình nhà Hán (Trung-quốc), các quan trung thường thị đều lấy đuôi con điêu gắn lên chóp mũ. Đến cuối đời Tấn, Triệu Vương Luân cướp ngôi, phong quan chức cho bà con tôi tớ rất nhiều, mỗi khi triều hội thấy đầy người đội mũ đuôi điêu, người đời bèn truyền nhau câu: “Điêu bất túc, cẩu vĩ tục”, nghĩa là, nếu đuôi điêu không đủ thì hãy nối bằng đuôi chó. Do chuyện này, những nhà thơ tính tình khiêm cung, khi họa thơ một người khác thì hay dùng chữ “nối điêu”, ý nói, dù mình tài hèn trí kém nhưng cũng xin nối vần mà họa theo. - Cẵng: hãy, hẵng, sẽ, để rồi sẽ hay. - Bộ: bước theo, nối bước; “bộ vần” là theo đúng vần của bài thơ trước mà họa theo. - Vần tiên: thơ hay tuyệt. – Đây là câu thứ 145 của tập thơ. Trong bản in cũ của nhà Sông Nhị (1951), câu này viết là: “Tục điêu cẵng bộ vận tiên”, và giáo sư Nghiêm Toản đã chú thích chữ “bộ vận” là: “dùng vần người khác để làm thơ; họa lại thơ của người ta mà theo đúng vần.” – “Vận” là tiếng Hán-Việt; “vần” là tiếng Nôm. Dùng chữ “vần” trong trường hợp này (vần tiên) thì đúng hơn, vì phù hợp với cách nói tiếng Việt.
30) Liễu trì: cây liễu ở bờ ao. Nam Sử chép rằng, Tạ Huệ Liên (397-433) mới 10 tuổi đã nổi tiếng làm văn hay, người anh họ là Tạ Linh Vận (385-433) phục tài, thường nói: “Mỗi khi làm thơ, chỉ cần đứng trước Huệ Liên là liền có tứ thơ hay.” Một hôm, nhân muốn làm thơ, nhưng nghĩ suốt ngày mà cũng không viết được câu nào – vì không tìm được tứ. Ông mỏi mệt nằm ngủ, chợt mộng thấy Huệ Liên, tức thì làm được câu thơ “Trì đường xuân thủy liễu”, ý nói về cây liễu đứng bên bờ ao rủ bóng trên nước trong xanh vào mùa xuân. Ông tỉnh dậy, nhớ lại câu thơ ấy, liền làm tiếp được nguyên một bài. Vậy chữ “liễu trì” có nghĩa bóng là tứ thơ. - Hoa tiên: giấy có vẽ hoa dùng để viết thư hay đề thơ. – Câu này có ý nói, hãy để tờ giấy hoa tiên trước mắt để gợi tứ thơ.
31) Ngòi dao: ngòi bút quí, bút ngọc. – Giáo sư Nghiêm Toản chú thích là: “do chữ đao bút. Người đời xưa lấy dao làm bút để gạch vào thanh tre. Đây tức là ngòi bút.” - Luật Đào: thể thơ ngũ ngôn luật. Ông Đào Tiềm rất thích làm thơ bằng thể này.
32) Dao-trì: ao ngọc, nơi thiên cung của bà Tây Vương Mẫu (chúa của tất cả tiên nữ).
33) Náu: ẩn núp, trốn.
34) Câu này có nghĩa là trăng cố tìm hương nên muốn bay đến tìm.
35) Thày lay: làm tài khôn, ưa xen vào những công việc không phải của mình.
36) Cẵng phó: hãy giao phó cho. - Thi đồng: ống đựng thơ. - Chắt chiu: giữ gìn một cách yêu dấu.
37) Trăng dật gió dìu: trai gái nẩy sinh tình cảm quyến luyến nhau.
38) Dập dờn: chập chờn. - Chay vay: chơi vơi, trơ trọi.
39) Chòm thanh, khóm dật: cảnh vật tĩnh mịch và đẹp một cách thanh nhã. - Chân du: đi chơi ở cảnh tiên. – Chữ “chân” ở đây là chỉ cho những người tu tiên đắc đạo.
40) Lô xô: trồi lên sụt xuống không đồng đều.
41) Túc điểu: chim đậu. - Du ngư: cá lội.
42) Cuộc tiên cư: chỗ, tòa lầu, đền đài nơi tiên ở.
43) Tóp: một khu, một đám, một nhóm. - Đồ thư: tranh vẽ và sách vở, ở đây có nghĩa là thư viện.
44) Bích-động: động Bích-đào, là một động tiên, nơi Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương kết làm chồng vợ. - Thanh tiêu: nơi trong sạch, thanh vắng, chỗ ở của thần tiên.
45) Huy-phượng: vẫy chim phượng.
46) Gió trúc: gió thổi qua khóm trúc. - Sóng tùng: tiếng thông reo như sóng vỗ.
47) Hiên trung: ở trong mái hiên.
48) Lang: chái nhà, hàng ba, bao lơn (hành lang).
49) Dung quang: vẻ mặt.
50) Lanh chanh: lóc chóc, láu táu.
51) Xông xáo: đi bừa vào, không cần biết có ai.
52) Nhủ: nói, bảo cho biết. - Đổ: vu khống, gán cho người những điều quấy mà người ta không hề làm.
53) Lí, Đỗ: Lí Bạch và Đỗ Phủ, hai nhà thơ nổi tiếng của Trung-hoa. – Lí Bạch, xin xem lại chú thích số 4, chương 6. Đỗ Phủ (712-770) tự là Tử Mĩ, tuy thi rớt tiến sĩ nhưng vẫn được vua Đường Huyền-tông (712-756) cho làm quan thị chế ở Tập-hiền viện. Sau loạn An Lộc Sơn (?-757), ông được vua Đường Túc-tông (756-762) phong làm hữu thập di, nhưng không bao lâu thì ông xin từ quan, về ở ẩn. Thơ ông phần nhiều phản ảnh những tao loạn trong xã hội và nỗi đau khổ của dân chúng. Ông được coi là một thi bá đời Đường, sánh ngang với Lí Bạch, và thường được gọi chung là Lí-Đỗ.
54) Cảo liễu: bản thảo mới viết xong, nét đẹp thanh kì như liễu mùa xuân. - Nét tùng: chữ viết rắn rỏi như cây tùng đứng giữa trời tuyết.
55) Nhời: lời nói. - Thần khế: tinh thần hợp nhau. - Đạo đồng: ý tưởng, quan niệm giống nhau.
56) Hạnh đường: bà chủ nhà. - Bao ná (bao nả): bao nhiêu, ra sao, bao giờ, chừng nào. - Nhủ cùng được hay: nói cho đây được biết.
57) Mơ mẩn: mơ tưởng, mơ mộng, si ngốc.
58) Tiên mây: tờ giấy có vẽ mây, dùng viết thư hay chép thơ.
59) Phấn điệp: phấn ở cánh con bướm. - Hoa xào: người đi đụng vào hoa gây ra tiếng xào xạc.
60) Mảnh riêng: tấm lòng. - Tươm: tan nát, rách nát.
61) Nâm nỉ: buồn da diết muốn ứa nước mắt.
62) Con trẻ (hóa nhi): tức là ông trời; cũng gọi là tạo hóa, con tạo, hay hóa công. - Đành hanh: cay nghiệt, đáo để.
63) Tin sương: tin tức, tin báo cho biết trước. Thấy chim nhạn bay ra ở nơi nào thì biết nơi đó có sương xuống và trời sắp trở lạnh.
64) Lá thắm dòng khơi: Đời Đường Hi-tông (874-889), có nàng cung nữ tên Hàn Thúy Tần, nhân lúc buồn, viết một bài thơ trên chiếc lá đỏ, thả xuống dòng suối cho trôi ra ngoài. Có chàng văn nhân tên Vu Hựu tình cờ vớt được chiếc lá ấy, đọc xong bài thơ lấy làm cảm khái, đem cất đi, rồi viết đáp lại một bài thơ cũng trên một chiếc lá, đem thả trên nguồn suối cho trôi vào trong cung. Hàn Thúy Tần lại bắt được chiếc lá có đề thơ của Vu Hựu. Nàng cất đi. Về sau, nhân lúc nhà vua thải phi tần cho về quê quán làm ăn, Hàn Thúy Tần về nhà anh nàng là Hàn Vinh và gặp Vu Hựu ở đó. Hàn Vinh mai mối cho hai người thành vợ chồng. Hai người bèn đem hai chiếc lá có đề thơ ra xem lại thì mới hay là của nhau. Hàn thị cảm kích nói: “Mới hay lá thắm khéo làm mai”.
65) Vuông tròn: trời đất. Người xưa cho rằng, trời thì tròn, đất thì vuông; cho nên “vuông tròn” là tượng trưng cho trời đất. Sự tích “bánh dày, bánh chưng” cũng nói lên ý nghĩa này: bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời, bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất. “Vuông tròn” còn có nghĩa là sự sum họp, sự trọn vẹn, sự kết duyên.
66) Mảnh tiên: nghĩa giống như chữ “tiên mây” ở trên.
67) Bàn mê: bàn hoàn, hồi hộp, bồi hồi. - Tin nhàn (tin nhạn): tin tức. Đời Hán, Tô Vũ đi sứ Hung-nô, bị chúa Hung-nô đày ra Bắc-hải chăn dê đến 19 năm. Ông viết thư buộc vào chân nhạn rồi thả cho bay về Trung-nguyên. Vua Hán được thư mới biết được tin tức, bèn sai sứ đoàn sang buộc chúa Hung-nô phải thả Tô Vũ về Hán.
68) Tăn măn: dáng vẻ nhí nhảnh, nghịch ngợm.
69) Nghiêm lệnh: lệnh của bề trên. - Sanh (sảnh): nhà quan, công đường, phòng khách.
70) Cảnh tình: cảm giác trước cảnh vật.
71) Tắt chừng thư các: đi tắt ngang qua phòng sách. - Trì đường: bờ ao.
72) Giá lục xây vàng: cái giá màu xanh lục lại có viền vàng.
73) Bình đan xuân vẽ: tấm bình phong màu đỏ có vẽ cảnh xuân đẹp đẽ.
74) Cánh phù dung: cánh cửa.
75) Vẻ ngân: vẻ mặt sáng như bạc. Người ta thường dùng những tiếng “vẻ lan”, “vẻ ngân”, “vẻ ngọc”, “vẻ xuân” để chỉ cho người đẹp.
76) Ỷ: cái ghế.
77) Tự lễ phân tân: chia ngôi chủ khách.
78) Quê phúc: quê quán.
79) Dòng dõi: con nhà khoa bảng, quyền thế. - Phong trần: vất vả, cực khổ.
80) Nước trí non nhân: người có trí và người có nhân. Sách Luận Ngữ nói: “Người trí thích những nơi có nước; người nhân thích những nơi có núi.”
81) Đăng lâm: “đăng” là lên (núi); “lâm” là tới (nước). Hai chữ này hợp ý với hai chữ “non” (nhân), “nước” (trí) ở trên.
82) Trẹo nẻo lạc vời: đi lạc đường. Chữ “trẹo nẻo”, ấn bản năm 1951 của nhả Sông Nhị chép là “liều nẻo”, và chú thích là “đi liều”. Thật ra, chữ “trẹo” có nghĩa là lệch hướng, đúng với ý tứ của câu này.
83) Phúc-giang, Phượng-lĩnh: tên con sông và ngọn núi ở gần làng Trường-lưu, quê hương của Nguyễn Huy Hổ.
84) Hạnh: may mắn.
85) Trí giả nhạo thủy; nhân giả nhạo sơn. Trí giả động; nhân giả tĩnh. Trí giả lạc; nhân giả thọ. (Sách Luận Ngữ, thiên “Ung Dã”)
86) Ngọc: tiếng nói trong như ngọc. - Khoan khoan: thong thả, ôn nhu, từ hòa.
87) Gia quân với nghiêm đường: chồng và cha tôi.
88) Luân: lẽ thường, thứ bậc, lẽ phảimọi người thường noi theo. - Mối giường: giềng mối, trật tự, thứ bậc, những nguyên tắc căn bản của luân lí xã hội.
89) Đền Thương: cung điện vua nhà Thương (1783-1122 trước TL.); ở đây chỉ cho triều đình nhà Lê. - Vạc mai: cái vạc nấu canh mơ, nghĩa bóng là làm quan lớn. Khi vua Cao-tông (đời nhà Thương) cử Phó Duyệt làm tể tướng có nói rằng, việc nước mà không có ông Phó Duyệt thì cũng giống như nấu canh mà không có chất mặn của muối và chất chua của mơ.
90) Y, Phó: Y Doãn và Phó Duyệt, là hai vị đại thần đời nhà Thương (1562-1066 tr. TL.), vừa tài giỏi hơn người, vừa thanh liêm chính trực. Y Doãn cày ruộng ở đất Hữu-sằn, vua Thành Thang mời đến ba lần mới chịu ra giúp, đánh dẹp vua Kiệt tàn bạo của nhà Hạ (2205-1783 tr. TL.), dựng nên cơ nghiệp nhà Thương, được phong chức tể tướng. - Tôn, Ngô: Tôn Tẫn và Ngô Khởi, hai vị tướng tài rất giỏi dùng binh của thời Đông Châu (770-307 tr. TL.). Tôn Tẫn người nước Tề, cùng với Bàng Quyên đồng học binh pháp với Quỉ Cốc Tử. Sau Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, vì ghen tài Tôn Tẫn nên lập kế hãm hại, chặt chân Tôn Tẫn. Vua Tề tìm cách đón Tôn Tẫn về tôn làm thầy, phong chức tướng quốc. Tôn Tẫn liền lập kế giết được Bàng Quyên, từ đó nổi tiếng khắp thiên hạ. Ngô Khởi người nước Vệ, học trò của Tăng Tử, rất có mưu lược, lại là một võ tướng bách chiến bách thắng, từng làm quan ở nước Lỗ và nước Sở.
91) Nấy sương: ngần ấy năm tháng. - Vân cù: đường mây, tức là làm quan.
92) Hồ sơn: cảnh nước non, sông núi.
93) Trần-kiều: nơi Triệu Khuông Dẫn (927-976) làm cuộc binh biến, lật đổ nhà Hậu Chu (951-960) và tự lập làm vua, dựng nên cơ nghiệp nhà Tống (960-1279). - Chu: tức vua Cung đế (959-960) nhà Hậu-Chu, bị Triệu Khuông Dẫn lật đổ. Câu này ý nói: Vua Tống cướp ngôi nhà Hậu-Chu, nhiều triều thần nhà Hậu-Chu không chịu bái phục.
94) Rấp: mắc vào, tấp vào.
95) Áo xiêm đổi thói: thói đời thay đổi như người ta thay áo, ý nói những cựu thần của triều trước lại khuất thân phục vụ cho triều mới. - Cân đai: những người làm quan.
96) Hưu thích dữ đồng: vui cùng vui, lo cùng lo.
97) Liệt thánh: chỉ cho các vua Lê thời trung-hưng (1532-1788). - Năm dòng mười dư: Dòng họ hai bên nội ngoại của Nguyễn Huy Hổ tiếp nối nhau làm quan trải qua hơn mười đời vua dưới thời Lê Trung-hưng, – từ vua Thế-tông (1573-1599) đến vua Chiêu Thống (1787-1788). Trong hơn mười đời vua Lê này, không phải chỉ có một dòng “đích” truyền nối nhau, mà đã xen lẫn nhiều dòng “đích” và “thứ” khác nhau, – kể ra có đến năm dòng.
98) Bận bùng: vướng víu. Câu này ý nói đang còn bận bịu với con thơ.
99) Diễn: xa cách.
100) Tiền nhân túc trái: duyên nợ đời trước.
101) La lướt: đi lung tung, đi qua lại một cách tự do tự tại.
102) Khác chiều: có vẻ khác thường.
103) Thêm hoa: làm cho đẹp thêm, hay thêm.
104) Cần quyền: khẩn khoản, ân cần, nhấn mạnh vào một việc.
105) Thân trước trẻ: kiếp trước của con trẻ. - Nguyền xưa ngươi: lời nguyện ước xưa của ngươi.
106) Cẩm tú sắc tài: trai tài gái sắc đẹp đôi như gấm dệt hoa thêu.
107) Dây dướng: ràng buộc dây dưa, vướng vít không dứt.
108) Lửa hương (hương lửa): tình nghĩa nồng nàn đầm ấm của vợ chồng. Ngày xưa, mỗi khi trái gái thề nguyền trong việc nhân duyên phối ngẫu, đều dùng hương thơm và lửa ấm để cúng vái trời đất.
109) Nhân duyên: Người đời thường dùng từ “nhân duyên” để chỉ cho cái manh mối đưa đến việc kết hợp thành vợ chồng, khác với ý nghĩa chữ “nhân duyên” được dùng trong Phật học. - Tao phùng: tình cờ gặp gỡ.
110) Sắc sắc không không: mọi vật vừa là thật mà cũng vừa là hư, có đó rồi không đó.
111) Câu này có nghĩa: chẳng cần phải thư đi tin lại làm gì. - Nhạn, tức là “tin nhạn” (xin xem lại chuyện Tô Vũ trong chú thích số 67 ở trên). Cá, tức là “tin cá”. Ngày xưa có người đàn bà, nhớ chồng đi xa, viết thư thăm chồng mà không biết gửi nhờ ai đem đi, và cũng không biết gửi đi đâu; bèn cho một con cá gáy nuốt thư vào bụng rồi thả xuống sông. Một hôm, vô tình người chồng câu được con cá gáy, mổ bụng ra thì thấy có lá thư của vợ.
112) Chăng lại: thế nào chẳng có. - Tái lai: trở lại lần nữa.
113) Thi Lễ: kinh Thi va kinh Lễ, ở đây chỉ chung cho tất cả sách vở thuộc Khổng giáo.
114) Khôi: khôi nguyên, đỗ đầu kì thi.
115) “Đất bằng nổi sấm” là chỉ cho sự thi đậu. Câu này có nghĩa: khi đã thi đậu rồi thì lại hát bài hát “Đào Yêu”, – tức bài thơ trong Kinh Thi, nói về người con gái về nhà chồng.
116) Quan hoài: nhớ mong, nghĩ ngợi. Câu này ý nói, việc “nhân duyên” đã có an bài, đừng lo nghĩ gì cả.
117) Khúc nôi: tình cảnh, nỗi niềm.
118) Giang thôn: thôn xóm ven bờ sông. - Mục nhi (mục đồng): trẻ chăn trâu bò ở nông thôn.
119) Tấc riêng: lòng dạ. - Dồn dã: thổn thức. - Khôn suy tin ngờ: không suy luận gì về sự việc để bảo rằng tin hay không tin.
120) Henri Louis Bergson sinh năm 1859 tại Paris. Khi còn học ở trung học thì nổi tiếng về toán học, nhưng khi lên học cao đẳng sư phạm thì lại chuyên về triết học. Ông đỗ thạc sĩ triết học năm 1881 và đi dạy học. Năm 1918 được đắc cử vào viện Hàn-lâm Pháp-quốc. Năm 1928 ông được trao tặng giải thưởng Nobel về văn chương. Ông mất năm 1941 tại Paris, thọ 83 tuổi.
121) Henri Louis Bergson, Năng Lực Tinh Thần, LM Cao Văn Luận dịch (Huế: Đại Học Huế, 162), trang 79.
122) Lược kể theo Phan Mật, Tiềm Thức Người Khách Lạ (Huế, 1964), trang 38.
123) Carl Gustav Jung, Sđd, trang 80-81.
124) Lược kể theo Phan Mật, Sđd, trang 35-36.
125) Henri Louis Bergson, Sđd, trang 70.
126) Giang Yêm (444-505) và Quách Phác (276-324) đều là thi nhân thời Lục-triều (221-621), Trung-quốc. Quách Phác ra đời trước Giang Yêm 168 năm.
127) Theo sách Văn Nghệ Tâm Lí Học (đã dẫn), trang 207.
128) Tào Triêm (1724-1763) tự là Tuyết-Cần, một tiểu thuyết gia đời Thanh (1644-1911), Trung-quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng.
129) Nguyễn Gia Thiều: người làng Liễu-ngạn, huyện Siêu-loại, tỉnh Bắc-ninh, con của Đạt Văn hầu và Quỳnh Liên công chúa. Từ nhỏ đã thông minh khác người, tài kiêm văn võ, giỏi gồm thiên văn, địa lí, thông suốt cả Phật, Lão, Nho. 19 tuổi đã được phong làm hiệu úy, cai quản binh mã, tước Ôn Như hầu. Dù vậy, ông không mấy hứng thú làm quan, chỉ thích sống đời khoáng dật, ngâm thơ vịnh cảnh. Năm 1788, khi Tây-sơn ra lấy Bắc-hà, ông về sống ẩn dật cho đến lúc chết. Ông là tác giả của Cung Oán Ngâm Khúc, một trong những tác phẩm nổi tiếng của nền văn học cổ điển Việt-nam.
130) Xin xem Đoàn Thêm, Quan NiệmSáng Tác Thơ (Huế: Viện Đại Học Huế, 1962), trang 183-184.
131) Carl Gustav Jung, Sđd, trang 77-78.
132) Xin xem Đoàn Thêm, Sđd, trang 185-186.

 

Chương 9: Giai Nhân Trong Mộng

 

Trong chương trước chúng ta đã theo dõi từng diễn tiến của giấc mộng Mai Đình, và thấy rằng, nhân vật nổi bật từ trước đến sau vẫn là thiếu nữ đề thơ. Mặc dù tác giả có trực tiếp nói chuyện với tiểu hoàn, có diện kiến và đối thoại khá lâu với vị phu nhân, nhưng cả hai nhân vật này đều đóng vai trò phụ thuộc. Trong khi đó, nàng thiếu nữ kia, tuy tác giả mới vừa kịp nhìn thoáng qua rồi mất hút, nhưng vẫn luôn luôn ám ảnh tác giả từ đầu đến cuối câu chuyện mộng. Vậy, chắc hẳn giai nhân đã giữ một vai trò gì thật quan trọng trong giấc mộng của thi nhân?

Trong bài “Tựa” ở đầu tác phẩm, Nguyễn Huy Hổ viết: “Duy tri phù xuân du chi lạc vi khả túy, tằng bất giác phù túy nhi hữu phiên phiên nhiên chi thụy, thụy nhi hữu phiên phiên nhiên, cừ cừ nhiên chi mộng giả da!” (Ta chỉ biết rằng đi chơi xuân vui thích nên có thể say, nào có biết đâu say mà lại ngủ phơi phới, và trong giấc ngủ lại có mộng phơi phới, chập chờn!)
Theo ý tứ ấy thì giấc mộng của tác giảngẫu nhiên chăng? Và giả sử như giấc mộng ấy đúng là ngẫu nhiên thì chúng ta phải tìm hiểu, tại sao vai trò của giai nhân lại nổi bật? Tại sao tiềm thức tác giả lúc đó đã không chọn hình ảnh nào khác mà lại chọn hình ảnh giai nhân?
Bàn về nguyên nhân tạo ra mộng, Bergson nói:

“...... Vậy lúc chúng ta ngủ, thực ra có những ‘đôm đốm con mắt’ làm đối tượng cho tri giác, và các đôm đốm ấy đã tạo ra giấc mộng.
Phải chăng chỉ có những đôm đốm ấy tạo ra giấc mộng? Chỉ xét về thị giác mà thôi, chúng ta có thể nói rằng, bên cạnh các cảm giác thị quan mà nguồn gốc nằm bên trong, cũng có những cảm giác thị quan khác mà căn do lại ở bên ngoài. Mặc dù đã nhắm lại, con mắt vẫn còn phân biệt được ánh sáng với bóng tối, và còn nhận được, đến một mức độ nào, bản tính của ánh sáng. Vậy mà những cảm giác do một ánh sáng hiện thực gây ra là nguồn gốc của nhiều giấc mộng. Một cây sáp đột ngột thắp lên, có thể làm cho một người đang ngủ không mê lắm, thấy nhiều quái ảnh mà trung tâmý tưởng cháy nhà......
Những giấc mộng do một ánh sáng liên tục dịu dàng như ánh sáng mặt trăng thì lại khác ít nhiều. Krauss thuật lại rằng, một đêm lúc tỉnh dậy, ông nhận thấy là ông đang giơ hai tay lên về phía cái mà ông đã mơ là một thiếu nữ, nghĩa là về phía mặt trăng mà ánh sáng đang phủ cả mình ông. Trường hợp này không phải là hiếm. Hình như ánh sáng mặt trăng, êm dịu tỏa lên con mắt người đang ngủ, thường có thể gợi ra những hình ảnh trinh nữ như thế.” (1)

Nguyễn Huy Hổ đi thuyền trong đêm trăng và nằm ngủ dưới trăng, vậy chúng ta có thể hiểu theo Bergson mà cho rằng, chính ánh sáng trăng mát dịu kia đã tạo ra hình ảnh giai nhân trong giấc mộng của tác giả. Nhưng lối giải thích đó có vẻ cạn cợt ở bề ngoài, mang tính chất sinh lí hơn là tâm lí. Chúng ta cần đi sâu vào khía cạnh tâm lí của giấc mơ mới thấu đáo được ý nghĩa của nó.
Freud cho rằng, hầu hết những kí hiệu trong giấc mơ đều là những kí hiệu của đời sống tình dục. Tất cả mọi hình ảnh trong giấc mơ đều tượng trưng hoặc cho các bộ phận sinh dục, hoặc cho các hành động tình dục. Và những kí hiệu tượng trưng này có ý nghĩa chung cho tất cả mọi người chứ không riêng cho một người nào. Ông nói:

“...... Nhưng dù những điều mình biết hãy còn ít ỏi, chúng ta vẫn phải đưa ra những kết luận, và những kết luận này sẽ làm chúng ta suy nghĩ.
Trước hết chúng tasự kiện là người nằm mơ có một lối diễn tả tượng trưng mà anh ta không biết đến và cũng không công nhận khi thức dậy......
Thứ hai, những liên quan tượng trưng này không thuộc riêng về người nằm mơ và không biểu thị riêng cho công việc tiến hành trong giấc mơ......
Thứ ba, các bạn chắc ngạc nhiên khi thấy trong các phạm vi khác, những liên quan tượng trưng này không hoàn toàn thuộc về tình dục, trong khi trong giấc mơ thì lại hoàn toàn thuộc về tình dục thôi......” (2)

Freud đã đưa ra rất nhiều thí dụ để chứng tỏ rằng mọi hình ảnh trong giấc mơ đều tượng trưng hoặc cho cơ quan sinh dục đàn ông, hoặc cho cơ quan sinh dục đàn bà. Và nếu chấp nhận lí thuyết ấy thì chúng ta có thể kết luận giấc mộng của Nguyễn Huy Hổ chỉ là một sự thỏa mãn tình dục. Lối giải thích này đã đi gần với bản năng tính dục nhưng thật xa vời với sáng tạo văn nghệ. Cho nên Jung đã không đồng ý với Freud về điểm này:

“...... Bởi vậy cho nên tôi đi đến sự giả thiết rằng giấc mơ có thể hàm chứa một bức thông điệp không phải là biểu tượng dục tình. Xin đưa ra một thí dụ:
Một người nằm mơ thấy mình cầm chìa khóa đút vào ổ khóa, cầm một cái gậy gộc, hay dùng một cái vồ để phá cửa. Mỗi đồ vật ấy đều có thể cho là một biểu tượng dục tình. Nhưng tiềm thức tại sao lại chọn hình ảnh này chứ không phải hình ảnh khác, điều đó cũng có tầm quan trọng lớn lao và ta cần phải chú ý. Vấn đề thực sự là tìm hiểu tại sao lại là cái chìa khóa chứ không phải cái gậy hay cái vồ. Cũng có khi người ta khám phá ra rằng giấc mơ không ám chỉ một hành động giao cấu mà ám chỉ một trạng thái tâm lí khác.
Cách suy luận như thế đưa tôi đến kết luận, chỉ có những hình ảnhý tưởng thuộc thành phần giấc mơ là được dùng để giải thích giấc mơ ấy. Một giấc mơ cũng có những giới hạn của nó. Nó có hình thức của nó để chỉ cho biết cái gì liên hệ đến nó, cái gì ở xa nó.” (3)

Vậy thì hình ảnh của một giấc mơ không mang một ý nghĩa nhất định và phổ quát, mà chỉ có ý nghĩa riêng cho cá nhân người nằm mơ, và như thế, Jung đã chú trọng đến phần riêng tư của cá nhân.
Tìm hiểu một khía cạnh nào đó của đời sống một cá nhân, chúng ta không thể nào bỏ qua nhân cách của cá nhân đó – dù chỉ là tìm hiểu một giấc mơ. Nhưng có một điều quan trọng mà chúng ta cần phải nhấn mạnh: Trong mỗi cá nhân, bên cạnh cái riêng tư vẫn có cái chung cùng; và theo quan niệm của Đạo gia cũng như của nghệ sĩ Đông phương thì con người cần phải đào sâuvô tư hóa cái riêng tư cá nhân để đạt được cái chung cùng phổ quát. Và chính văn nghệ đã triệt để khai thác đặc tính này mà văn nghệ mới trở thành hoàn toànvăn nghệ.
Vậy muốn tìm hiểu ý nghĩa giấc mộng giai nhân của Nguyễn Huy Hổ, trước hết chúng ta không thể bỏ qua nhân cách riêng của ông; và sau đó, chúng ta cũng không thể không nhìn đến cái tính chất chung cùng của con người nghệ sĩ ở nơi ông được.
Bàn về ngụ ý của Nguyễn Huy Hổ khi viết Mai Đình Mộng Kí, giáo sư Hoàng Xuân Hãn có đặt câu hỏi: “Về nội dung, mộng Mai-đình có thực không?” Và giáo sư đã tự trả lời:

“Có lẽ mộng có thực, nhưng chuyện tình duyên đây là chuyện mượn. Hồi đầu nhà Nguyễn, con cháu các cựu thần nhà Lê đều giữ lòng “nhớ Lê”. Trong nhóm công tử công tôn hai làng Tiên-điền và Trường-lưu, đã có nhiều người lánh lẩn để khỏi phải làm quan và đã tỏ lòng mình trong những thi ca. Nguyễn Hành đã có tập Minh Quyên, Nguyễn Du có tập Đoạn Trường Tân Thanh. Bài Mai Đình Mộng Kí này cũng cùng một ý ấy. Chỉ xem qua ta đã thấy nhiều câu thổ lộ tâm tình (câu 231-246). Vả lại, đối với các cụ nhà nho xưa, mộng người con gái đẹp là mộng thánh nhân: “Vọng mĩ nhân hề! Tây nhất phương.” Nguyễn Huy Hổ ngược lên phương Tây mà có mộng mĩ nhân, chính là ngụ ý ấy.” (4)

Vậy theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì tâm sự “hoài Lê” đã là nguồn khở hứng của Nguyễn Huy Hổ để viết Mai Đình Mộng Kí. Ý kiến ấy xét ra có một phần hợp lí nhưng không phải là đúng hoàn toàn.
Nếu nhìn vào hoàn cảnh lịch sửtình hình văn học trong giai đoạn Lê-mạt - Nguyễn-sơ, chúng ta thấy rằng, hầu hết sĩ phu Bắc-hà sống trong khoảng mấy mươi năm đầu triều Nguyễn – dù đã hợp tác hay bất hợp tác với triều đại Tây-sơn (1778-1802) trước đó – đều là những cựu thần nhà Lê, hay ít ra cũng thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc của triều Lê. Với thái độ chính trị khôn khéo, vua Gia Long (1802-1820) đã triệu dụng họ ra hợp tác với tân triều. Một số người thì đặt nặng tinh thần quốc gia dân tộc hơn, nên đã hăng hái ra hợp tác. Có vị thì vẫn xem quốc gia là trọng, nhưng đồng thời tình cảm cũng như ân nghĩa đối với nhà Lê vẫn sâu đậm, không thể nào quên được, nên họ đã hợp tác với tân triều một cách miễn cưỡng, chua xót. Trong khi đó, một số người khác đã từng khoanh tay bất lực trước hoàn cảnh đổi thay bi đát, đến khi tân triều được thiết lập thì đối với họ là chuyện đã rồi, họ đã không dự phần tạo nên mà cũng không thể chối bỏ, thôi đành ôm tâm trạng chán chường mà sống đời ẩn dật, mượn men nồng mà say trong mộng để quên đi những nỗi oái oăm, phiền lụy của cuộc đời trước mắt.
Nguyễn Huy Hổ cũng thuộc dòng dõi cựu thần nhà Lê, lại là cháu rể của vua Lê Hiển-tông (1740-1786), thì mối thâm tình của ông đối với nhà Lê thật là hiển nhiên. Nhưng đó chỉ là một thứ tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, không có vẻ gì là cố chấp hay cuồng tín đến nỗi phải có thái độ thù nghịch đối với tân triều. Chúng ta có thể xếp ông vào loại sĩ phu thứ ba như vừa phân tích ở trên. Ông đã không dự phần tạo nên thời cuộc mà cũng không thể chối bỏ thời cuộc. Ông chấp nhận thời cuộc nhưng không muốn thi thố công danh sự nghiệp trong thời cuộc đó. Ông quay lưng lại với thời cuộc để sống đời ẩn dật, mượn rượu tìm say, mượn say tìm mộng, nhân mộng vào thơ, nương thơ vào chỗ vô cùng...
Ông sống ẩn dật nhưng không có nghĩa là phản kháng tân triều với ý đồ làm nên một cuộc cách mạng lật đổ, bằng chứng là ông là ông đã trải qua một đời sống thật là êm đềm, thanh thoát; và về sau, khi thấy cần thiết, ông vẫn chấp nhận lời triệu dụng của vua Minh Mạng, dù để giữ cái chức linh đài lang khiêm tốn ở tòa Khâm-thiên-giám.
Vậy thì, khi bơi thuyền ngược dòng sông Lam mà mộng thấy giai nhân không hẳn là Nguyễn Huy Hổ đã có ý mơ tưởng đến hình ảnh vua Lê, vì như chúng ta đã thấy, hình ảnh những ông vua thời Lê-mạt chỉ là những hình ảnh bạc nhược, lu mờ dưới sự khống chế của các chúa Trịnh, với quốc gia đã vô tích sự, với dân tộc đôi khi lại còn gây trọng tội như hành động “cõng rắn cắn gà nhà” của vua Lê Chiêu Thống chẳng hạn. Những hình ảnh như vậy chẳng có gì hấp dẫn để người ta mơ tưởng; có gì đâu để đáng được gọi là “thánh nhân”! Trong tâm thức của một sĩ phu đương thời, nếu Nguyễn Huy Hổ có chán đời thì cũng chỉ là cái tâm trạng chán chường của kẻ đang “trải qua một cuộc bể dâu”, để rồi ngậm ngùi với “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Và nếu đã chán chường cái xã hội hiện tại thì người ta hẳn hẳn phải mơ tưởng về một xã hội tốt đẹp khác, – mà chắc chắn không phải là cái xã hội thời Lê-mạt!
Nguyễn Huy Hổ, ngoài cái tâm thức của một sĩ phu đương thời, ông còn mang phong cách của một thi nhân. Cho nên, với tâm hồn nghệ sĩ, với óc tưởng tượng dồi dào, ông đã khơi dậy trong ước mơ biết bao nhiêu hình ảnh đẹp! Chúng ta có thể nói rằng, Nguyễn Huy Hổ sống đời ẩn dật không phải vì hờn dỗi cuộc đời, không phải để thách đố thời cuộc, mà thực sự chỉ vì để thể hiện cái phong cách chính đáng của một nghệ sĩ thuần túy. Việc ông đi chơi trên dòng sông Lam giữa đêm trăng sáng chỉ là một trong những cuộc ngoạn du sơn thủy của nghệ sĩ trong cuộc sống hành lạc, cũng như Tô Đông Pha ngày xưa bơi thuyền trên sông Xích-bích trong đêm trăng tròn tháng Bảy. Và như chúng ta đã biết, việc ngao du sơn thủy đối với nghệ sĩ là công việc cần thiết để tu dưỡng tính tình.
Nguyễn Huy Hổ đối với thiên nhiên đã tỏ ra thâm tình thắm thiết. Ông tả cảnh thật nhiều và thật tỉ mỉ. Điều đó càng chứng tỏ rằng nghệ sĩ đã có một công phu gạn lọc nội tâm để tâm hồn được vô tư, trong sạch mà hòa điệu vào thiên nhiên, thể nhập vào vũ trụ.
Ông đã mơ thấy cảnh tiên. Giấc mơ ấy đã nói lên cái ý nghĩa là ông đã thỏa mãn trong niềm khao khát được sống ở một thế giới đẹp lí tưởng, khác hẳn với thế giới trần tục đầy những vật dục đê hèn, đầy những chướng tai gai mắt. Hơn nữa, trong tâm thức nghệ sĩ, chúng ta còn thấy niềm ước vọng của con người muốn nối kết đời sống tạm bợ, hữu hạn này với đời sống hạnh phúc vĩnh cửu nơi thế giới thần tiên. Vậy, giấc mộng “mĩ nhân” của Nguyễn Huy Hổ có thể được coi là một giấc mộng điển hình nói lên một cách thâm trầm niềm mơ ước đó.
Từ tâm hồn và nhân cách đó của Nguyễn Huy Hổ, chúng ta có thể nói được rằng, hình ảnh giai nhân đã ám ảnh tác giả trong suốt giấc mộng không phải là hình ảnh của vua Lê mà nó chỉ tượng trưng cho một ông vua lí tưởng nào đó mà tác giả đang mơ ước, cũng như cảnh tiên là tượng trưng cho một xã hội thanh bình, an vui, hạnh phúc mà nghệ sĩ đang mong chờ.
Những ông vua Lê thời mạt vận đã không còn là hình ảnh lí tưởng cho giới sĩ phu trí thức đương thời mong mỏi, còn các vua Gia Long, Minh Mạng triều Nguyễn thì ít nhất là trên một vài phương diện nào đó, vẫn tỏ ra là những người lãnh đạo hẹp hòi, cố chấp, đầy hận thù, thiếu độ lượng, mà những thái độ tỏ lộ ra ở bề ngoài chỉ là những thủ đoạn chính trị nhằm bảo vệ ngai vàng và dòng họ. Trong thời buổi đó, tìm được một vị minh quânđộ lượng của một bậc chính nhân quân tử thật là khó khăn. Bởi vậy, người ta đã phải quay vào tìm người lí tưởng ở trong mộng. Dù giấc mộng chỉ là một hình ảnh thoáng qua, nhưng ít ra nó cũng đã làm thỏa mãn niềm khao khát của thi nhân và cũng đã nói lên được cái tâm thức của giới sĩ phu đương thời.
Giai nhân trong mộng cũng có thể là hình ảnh tượng trưng cho cái ĐẸP tuyệt đối của nghệ sĩ mà thi nhân Nguyễn Huy Hổ đang nhằm tới.Tô Đông Pha cùng bạn bơi thuyền trên sông Xích-bích, lòng hớn hở phơi phới mà hát lên rằng:

Quế trạo hề lan tương
Kích không minh hề tố lưu quang
Diểu diểu hề dư hoài
Vọng mĩ nhân hề thiên nhất phương
(Bồng bềnh thuyền quế chèo lan,
Mặt sông lấp lánh, ánh trăng lưng trời.
Nhớ nhung lòng dạ bồi hồi,
Ngóng trông người đẹp phương trời xa xăm. – HC dịch)

thì hình ảnh “mĩ nhân” ở đây cũng chính là cái đẹp lí tưởng mà Tô Đông Pha đang sống với nó một cách hồn nhiên sung sướng. Có người cho rằng, Tô Tử dùng chữ “mĩ nhân” để ám chỉ vua Tống đương thời hay ít ra là cũng để nhớ những người bạn quân tử ở triều đình; nhưng chúng tôi sợ rằng giải thích như vậy sẽ lạc mất ý nghĩa bài phú và xa vời với tâm hồn Tô Tử trong giờ phút phiêu diêu xuất trần đó.
Nguyễn Huy Hổ ở đây cũng có cùng cái phong cách như Tô Tử. Ông cũng mang tâm hồn nghệ sĩ, quên hết thế sự thăng trầm, lòng hoàn toàn vô tư thanh thoát để trọn vẹn thưởng thức nét đẹp của thiên nhiên với trăng sáng vằng vặc, đồi núi nhấp nhô, nước sông bàng bạc, với không khí huyền diệu của không gian tịch mịch êm đềm. Nét đẹp đó đã gây xúc cảm sâu xa trong tâm hồn ông; và trong tâm thức nghệ sĩ, có thể đó là cái đẹp lí tưởng mà lòng trần tục không làm sao xúc cảm được. Phong cảnh thiên nhiên thì luôn luôn bày ra trước mắt mọi người, ai cũng có thể nhìn thấy, nhưng nó chỉ trở nên ĐẸP trong tâm hồn nghệ sĩ. Đẹp là một cảm thức vô tư, là hình tướng của trực giác nghệ sĩ trong lúc lòng hoàn toàn trong trẻo, không xen lẫn dục niệm; và trong giấc mơ của Nguyễn Huy Hổ, nó đã được biểu hiện qua một hình ảnh tượng trưng là giai nhân.
Đến đây chúng ta có thể đi sâu hơn vào bản chất nghệ sĩ của Nguyễn Huy Hổ để tìm hiểu ý nghĩa tượng trưng qua hình ảnh giai nhân trong giấc mộng Mai Đình.
Nếu chúng ta hiểu rằng, hình ảnh Đạm Tiên trong giấc mộng của Thúy Kiều không ai khác hơn là chính hình ảnh hiện thân của Thúy Kiều, do nội tâm nàng biến hiện ra để tự phân biệt có hai nàng Kiều trong con người ấy: một nàng Kiều là hiện thân của tính trời tốt đẹp hồn nhiên, và một nàng Kiều là hiện thân của dục vọng mới vừa khởi niệm khi gặp Kim Trọng:

Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Nửa chiều phong vận nửa chiều thanh tân,
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lững thững như gần như xa.
Rước mừng đón hỏi dò la,
Đào-nguyên lạc lối sao mà đến đây?
Thưa rằng thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên!
Nguyễn Du
(Đoạn Trường Tân Thanh)

thì ở đây chúng ta cũng có thể hiểu rằng, giai nhân trong giấc mộng Mai Đình không ai khác hơn là hình ảnh của chính Nguyễn Huy Hổ do nội tâm ông biến hiện ra để tự mình đối tượng hóa thành một tiên nữ nơi chốn Đào-nguyên.
Tâm trạng thường xuyên của nghệ sĩ là không bao giờ bằng lòng với thực tại, cho nên mới phải đi tìm hạnh phúc ở trong mộng; – đẹp như mộng! Trong tâm thức Nguyễn Huy Hổ, chúng ta thấy ông đã biểu lộ nét cao ngạo của một nghệ sĩ cho rằng, về thi tài không ai có thể đối địch với mình, còn về chí hướng thì càng không có kẻ tri âm:

Câu thần, chữ thánh, người tiên,
Hay đâu là chẳng sẵn nguyền trăm năm.
Phím hoàng đợi khách tri âm,
Nên treo cân Lệ, ai cầm giá Côn.
Nghĩ mình giong ruổi nước non,
Niềm kinh quốc, nỗi hương thôn bấy chầy. (5)
Thốt chi bướm lũ ong bầy,
Đàn Tao nào mấy đua tay cắm vè. (6)
(MĐMK, câu 133 - 140)

Bởi vậy ông đã phải tìm tri âm trong mộng. Và tri âm trong mộng rốt cuộc chỉ là nội tâm ông tự phân hóa ra thành một đàng là chủ thể và một đàng là khách thể; một đàng là bản ngã và một đàng là đối tượng; một đàng là diễn giả và một đàng là khán giả. Cụ Nguyễn Công Trứ cũng từng có cái “thấy” như vậy:

Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát.
(Chữ Nhàn)

Trạng thái tâm lí tự phân hóa này chúng ta cũng đã từng thấy diễn ra nơi nghệ sĩ Tô Đông Pha khi ông đi chơi trên sông Xích-bích lần thứ hai trở về, mà ông đã tài tình ghi lại trong bài phú “Hậu Xích Bích”:

“...... Sông chảy róc rách, bờ đứt hàng ngàn thước. Núi cao trăng nhỏ; nước rút xuống, đá lộ ra. Ngày tháng cách chẳng bao lâu mà quang cảnh núi sông đã không còn nhận ra được nữa! Tôi mới vén áo leo núi, bước qua đá nhọn lởm chởm, rẽ quả cây chằng chịt mà đi. Đá trông như hình thù hổ báo, cành là cổ thụ dáng như con rồng có sừng. Ngửng đầu lên thì tưởng như tay với được tổ chim, cúi mặt xuống thì tưởng chừng nhìn thẳng thâm cung của thủy thần Hà Bá. Vì vậy mà hai người khách đã không theo nổi. Bỗng nhiên nổi lên một tiếng hú dài, cỏ cây rung chuyển, vang dội núi hang, nổi gió dậy sóng. Tôi cũng lặng người, lòng thấy nao nao, vừa buồn vừa sợ, không muốn ở lại lâu hơn nữa.
Tôi bèn quay về thuyền, chèo ra giữa dòng, rồi thả nó tự do trôi đi, muốn ngừng chỗ nào cũng được. Lúc đó vào khoảng nửa đêm, bốn bề tịch mịch. Chợt một con hạc từ hướng Đông lại, bay ngang qua sông, cánh xòe rộng như bánh xe, xiêm đen áo trắng, vút kêu lên một tiếng dài, lướt ngang qua thuyền tôi rồi bay về hướng Tây.
Lát sau khách từ biệt, tôi cũng về nhà ngủ, mộng thấy một đạo sĩ, áo lông phất phới, đến phía dưới đình Lâm-cao, xá tôi mà hỏi rằng: ‘Đi chơi Xích-bích có vui không?’ Tôi hỏi tên họ thì đạo sĩ chỉ cười không trả lời. ‘Ô hô! A ha! Tôi biết rồi! Hồi đêm, con hạc bay qua thuyền tôi mà kêu đó, có phải là ngài chăng?’ Đạo sĩ ngẩng mặt nhìn tôi cười. Tôi giật mình tỉnh dậy, mở cửa ngó ra sân thì không trông thấy đạo sĩ đâu nữa.” (7) (HC dịch)

Tô Đông Pha đi chơi trên sông mà có con hạc bay vút qua thuyền, kêu một tiếng dài rồi bay thẳng, ngụ ý gì thế? Hạc đối với người Trung-hoa là tượng trưng cho sự sống lâu, cho nên tuổi thọ của con người cũng được gọi là “tuổi hạc”. Tô Đông Pha trong thời gian bị trích ở Hoàng-châu (1080-1084) thường luyện phép dưỡng sinh của Đạo giáo, lại cũng thực tập phép tham thiền của Phật giáo để luyện cho tâm hồn đạt tới trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, lúc nào cũng cảm thấy sảng khoái nhẹ nhàng. Bây giờ lại trông thấy hạc là ngụ ý rằng ông đã nhập diệu vào được cái vô hạn của trời đất. Trước đó ông cũng đã nghe tiếng hú dài từ xa vọng lại như một sự tỉnh giác để ông quay về với “tính trời”, gạt bỏ tâm vọng động để nhập vào cái vô cùng của đại ngã. Và đạo sĩ trong mộng cũng chính là tự tính biến hiện để ông được nhận chân cái “chân diện mục” của mình.
Trước Tô Đông Pha, Trang Tử cũng đã từng xem bướm bay lượn tung tăng rồi mộng thấy mình hóa bướm cũng tung tăng bay lượn một cách thích thú:

“Xưa Trang Chu mộng làm bướm, bay lượn vù vù hớn hở như bướm, tự lấy làm thích thú lắm, chẳng còn biết mình là Chu nữa. Chợt tỉnh ra thì thấy vẫn lù lù là Chu! Chẳng biết là Chu đã mộng làm bướm hay bướm đã mộng làm Chu! Nhưng Chu với bướm hẳn là có sự phân biệt, vì thế mà gọi là ‘vật hóa’.” (8) (HC dịch)

Cái chân hạnh phúc của Trang Tử là được sống cuộc đời hoàn toàn tự do, giải thoát:

“Ông Liệt Tử cưỡi gió bay đi, thật êm ái nhẹ nhàng; đi một mạch mười lăm hôm mới trở về. Những người đạt được tiên phúc như thế thật hiếm có ở đời! Nhưng ông Liệt Tử tuy nương gió mà đi, khỏi phải đi bộ, vậy mà vẫn phải chờ có gió mới có thể bay đi được; chứ nếu như có người biết thuận theo cái đạo tự nhiên của trời đất, cùng thông được cái biến hóa của lục khí (âm, dương, gió, mưa, tối, sáng) mà rong chơi trong cõi vô cùng, thì họ đâu còn phải chờ đợi cái gì nữa!” (9) (HC dịch)

Trang Tử đã đạt được cái hạnh phúc tuyệt đối đó, và đã ngụ ý ấy trong hình ảnh tượng trưng là con bướm bay lượn thung dung, tự tại vô ngại; hay nói khác hơn, bướm chính là cái “ngã” tự do giải thoát tự biến hiện ra. Nếu lấy cái tâm “biến” mà nhìn thì Chu và Bướm có phân biệt, ngã và vật là hai; nếu lấy cái tâm “bất biến” mà nhìn thì Chu và Bướm chỉ là một – trong thế giới “vạn vật đồng nhất thể”.
Như thế, chúng ta thấy rõ, đã có một dòng mĩ cảm kinh nghiệm truyền từ Trang Tử đến Tô Đông Pha, và bây giờ thì đến Nguyễn Huy Hổ. Trong giấc mộng Mai Đình, giai nhân là HỒN THƠ mà thi nhân Nguyễn Huy Hổ đang đi tìm; giai nhân là nét đẹp lí tưởng mà nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ đang mơ ước. Cuộc tình giữa nghệ sĩ và giai nhân trong mộng chỉ là một sự hòa điệu giữa tiểu ngãđại ngã, một sự nối kết giữa con người với siêu nhiên, giữa hữu hạn và vô hạn. Nhưng mối tình đã không kết hợp được là bởi vì chính thi nhân tự thấy rằng, dù sao thì tâm hồn mình vẫn chưa được thanh tao trọn vẹn, dục niệm tế vi vẫn còn tạo một lớp mỏng mây mờ, khiến cho tự tính giác ngộ chưa hoàn toàn tỏ lộ. Cho nên tác giả đành tự đứng ngắm cái “bản lai chân diện mục” của chính mình cứ phảng phất ở xa xa, muốn tới gần mà chưa thể nào tới được:

Nguồn phong động khóa trùng trùng,
Khách thơ thêm những mơ mòng hồn thơ.
(MĐMK, câu 113 - 114)

Vậy thì, muốn thấy rõ cái “bản lai chân diện mục” của mình, muốn đạt được tự tính giác ngộ thì phải cố gắng bỏ thêm nhiều công phu tu dưỡng tính tình, phải “gạn đục khơi trong” tích cực hơn nữa:

Lọ là nhạn cá đi về,
Lứa đôi chăng lại một kì tái lai.
Nền thi lễ cẵng dùi mài,
Tiếng khôi đừng thẹn với mai mới hào.
Duyên lành hẳn đợi giá cao,
Đất bằng sấm đã thơ đào lại ca.
(MĐMK, câu 267 - 272)

Tóm tắt lại, tâm sự “hoài Lê” dĩ nhiên là có ẩn tàng trong thâm tâm Nguyễn Huy Hổ cũng như trong giới sĩ phu đương thời, nhưng bảo rằng tâm sự ấy đã là nguồn hứng giúp Nguyễn Huy Hổ viết nên tác phẩm Mai Đình Mộng Kí thì không đúng; và giấc mộng giai nhân của Nguyễn Huy Hổ lại càng không phải là giấc mộng thánh nhân – tức vua Lê – như giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã nói. Đoạn thơ 16 câu mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã đề cập đến:

Rằng gia nhân với nghiêm đường,
Chữ luân xưa cũng mối giường một hai.
Đền Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y phó, cũng ngoài Tôn Ngô,
Nấy sương vẹn bước vân cù,
Dẫn nhàn riêng chiếm thú hồ sơn đây.
Cơ trời dâu bể vần xoay,
Trần-kiều biết mặt Chu này là ai.
Lửa binh rấp thủa chông gai,
Áo xiêm đổi thói cân đai đau lòng.
Nặng nguyền hưu thích dữ đồng,
Theo chầu liệt thánh năm dòng mười dư.
Bận bùng còn chút ngây thơ,
Điền thôn quen lấy cầm thư đỡ phiền.
Dù chăng cảnh bụt làng tiên,
Với trần nghĩ đã diễn miền nước mây.
(MĐMK, câu 231 - 246)

chúng ta thấy Nguyễn Huy Hổ đã gửi vào đó nỗi lòng hoài niệm Lê triều thì ít, mà cốt ý đề cao dòng dõi thế gia vọng tộc của tổ tiên (cả hai bên nội ngoại) mình thì nhiều. Có thể nói, đó chỉ là cái mộng “kẻ sĩ” mà tác giả đã ấp ủ trong lòng từ lâu, không có cơ hội thố lộ, bây giờ bất chợt xuất hiện và đã được tác giả nhân tiện ghi luôn vào giấc mộng.
Điều chúng ta cần để ý là bên cạnh cái tâm hồn nghệ sĩ, tác giả còn mang nặng cái tâm thức nhà nho. Con người nghệ sĩ là con người cá nhân; con người nho sĩ là con người xã hội. Vậy Nguyễn Huy Hổ đã tỏ lộ cái tâm thức nhà nho của ông như thế nào?


CHÚ THÍCH:

1) Henri Louis Bergson, Năng Lực Tinh Thần, LM Cao Văn Luận dịch (Huế: Đại Học Huế, 1962), trang 66-67.
2) Sigmund Freud, Phân Tâm Học Nhập Môn, Nguyễn Xuân Hiếu dịch (Sài-gòn: Khai-Trí, 1970), trang 196-198.
3) Carl Gustav Jung, Thăm Dò Tiềm Thức, Vũ Đình Lưu dịch (Sài-gòn: Hoàng Đông Phương, 1967), trang 36-37.
4) Hoàng Xuân Hãn biên tập và trích dẫn, Nghiêm Toản chú thích, Mai Đình Mộng Ký (Sài-gòn: Trường Thi, in lần thứ ba), trang 12.
5) Kinh quốc: Lo nghĩ đến quốc gia.
6) Đàn tao (hay tao đàn): Nơi tụ họp của văn nhân, thi sĩ để bình văn, ngâm vịnh. - Cắm vè: Cắm mốc, làm chuẩn cho mọi người noi theo.
7) Trích dịch từ sách Khảo Chính Cổ Văn Quan Chỉ, quyển IV, trang 80-81.
8) Trích dịch từ sách Trang Tử Tập Giải, thiên “Tề Vật Luận”, Diệp Tuệ Hiểu hiệu đính và dịch ra văn bạch thoại (Hương-cảng: Thật Dụng thư cục, 1961), trang 32.
9) Trích dịch từ sách Trang Tử Tập Giải (đã dẫn trên), thiên “Tiêu Dao Du”, trang 8.

 

Chương 10: Tâm Thức Nhà Nho

 

Từ các chương trước chúng ta đã theo dõi diễn tiến tâm lí của Nguyễn Huy Hổ như là một nghệ sĩ thuần túy, nhưng chúng ta cũng không nên quên rằng tác giả còn là một nhà nho thực tế. Vậy việc tìm hiểu con người Nguyễn Huy Hổ qua tâm thức một nho sĩ là điều không thể bỏ sót được.
Như chúng ta đã biết, lí tưởng của nhà nho là hành động giúp đời – theo đúng nghĩa của bốn chữ “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời), mà chúng ta có thể lấy quan niệm của cụ Nguyễn Công Trứ làm
điển hình:

Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân
Thượng vị đức, hạ vị dân
Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác
trung hiếu mới đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây
Phải hăm hở ra tài kinh tế
......
(Phận Sự Làm Trai)

Chữ “công danh” ở đây không phải là thứ danh vị hão huyền, “hữu danh vô thực” của hạng người vô đức bất tài ăn hại xã hội, hay của hạng người tham lam danh lợi, nhờ may mắn hoặc luồn cúi mà chiếm được quyền cao chức trọng, rồi tham ô nhũng lạm, hối mại quyền thế, làm băng hoại xã hội. Chữ “công danh” theo quan niệm của nhà nho chân chính là “công nghiệp và danh dự” của một người quân tử. Nho sĩ phải là người có sự nghiệp hiển hách, có công trạng hơn người, lại phải có tư cách thanh cao, có liêm sỉ đạo đức. Một nhà nho thức thời tức là người biết tùy lúc đem sự nghiệpđạo đức ra phụng sự xã hội với nguyện vọng làm cho thiên hạ được an bình mà không mong cầu tư lợi cho cá nhân. Vì vậy, công danh đã là một trong ba yếu tố quan trọng trong đời sống nhà nho mà Nguyễn Huy Hổ đã nêu lên từ đầu tác phẩm:

Duyên tế ngộ, hội công danh,
Là hai, với nghĩa chung tình là ba.
(MĐMK, câu 5 - 6)

Nguyễn Huy Hổ do từ mĩ cảm thuần túy của nghệ sĩ trước cảnh đẹp rượu say mà viết nên tác phẩm Mai Đình Mộng Kí. Vậy mà ông đã đề cập đến hai chữ “công danh” ngay từ phần nhập đề của tác phẩm, chứng tỏ rằng cái tâm thức nhà nho của ông vẫn bồng bột trong lòng, và nó đã trở thành một trong các nguồn hứng khởi giúp ông sáng tác. Điều đó không có gì lạ. Ông vốn thuộc dòng dõi nho gia, hai bên nội ngoại từ bao đời đều là những nho thần có sự nghiệp hiển hách, có danh dự sáng lòa, làm cho quê hương ông trở nên nổi tiếng một vùng Nghệ-Tĩnh:

Phúc-giang, Phượng-lĩnh là nơi quê nhà.
(MĐMK, câu 226)

Phúc-giang là sông phúc đức; Phượng-lĩnh là núi linh thiêng, đẹp đẽ như chim phượng-hoàng. Sông núi ở đây là sông núi miền Nghệ-Tĩnh, tức Lam-giang và Hồng-lĩnh, là quê hương địa linh nhân kiệt Việt-nam, rạng danh nhờ nhân tài của hai họ Nguyễn ở hai làng Trường-lưu và Tiên-điền. Và quê hương đó, gia tộc kia đã là niềm kiêu hãnh trong tâm hồn người thanh niên Nguyễn Huy Hổ:

Rằng gia quân với nghiêm đường,
Chữ luân xưa cũng mối giường một hai.
Đền Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y phó, cũng ngoài Tôn Ngô.
Nấy sương vẹn bước vân cù,
Dẫn nhàn riêng chiếm thú hồ sơn đây.
Cơ trời dâu bể vần xoay,
Trần-kiều biết mặt Chu này là ai.
Lửa binh rắp thủa chông gai,
Áo xiêm đổi thói cân đai đau lòng.
Nặng nguyền hưu thích dữ đồng,
Theo chầu liệt thánh năm dòng mười dư.
(MĐMK, câu 231 - 242)

Ông sống sung sướng trong niềm kiêu hãnh về quê hương và gia tộc đó. Danh dự của quê hương, gia tộc cũng là danh dự của chính ông. Ông là người có tài đức nhưng không thi thố với đời, nói trắng ra là đã không chịu đi thi để đạt mộng công hầu khanh tướng, chỉ vì ông quá ngán ngẩm cái hoàn cảnh nhiễu nhương, tao loạn đương thời. Có lẽ ông cũng tự biết rằng, với tình thế ấy, dù là kẻ có lòng, nhưng một mình ông làm sao kéo lại được một tình trạng suy sụp như vậy! Cho nên ông đành ôm mộng mà ẩn thân nơi miền hương đãng. Vả chăng đó cũng là sự thức thời của một nhà nho thông đạt.
Bên cạnh tâm thức nhà nho ông còn mang nặng tâm hồn nghệ sĩ; và với phong độ của một nhà nho nghệ sĩ, ông đã sống hạnh phúc trong tinh thần “tri thiên lạc mệnh” suốt mấy mươi năm. Ông lợi dụng thời gian này để tu dưỡng tính tình, đợi một dịp “đắc thời” nào đó, ông sẽ có thể nhập thế phục vụ xã hội, như chương trình sau đây của nhà nho Nguyễn Công Trứ:

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
(Kẻ Sĩ)

Cái ý nghĩa “rồng mây gặp hội” đó, đối với Nguyễn Công Trứ – và với cả các nhà nho chân chính khác nữa – là, muốn thi thố tài năng để phục vụ xã hội thì việc quan yếu là phải đỗ đạt. Chính quyền xưa nay đều lấy việc thi cử để tuyển dụng nhân tài. Người ta luôn luôn căn cứ vào kết quả của các cuộc thi cử để đo cái tài “kinh luân” của kẻ sĩ, từ đó họ sẽ được trao cho những nhiệm vụ đúng với khả năng. Cho nên mọi thành công của họ trong xã hội đều bắt đầu bằng việc thi đỗ. Nguyễn Huy Hổ, mặc dù ẩn thân trong nếp sống nghệ sĩ, nhưng với tâm thức nhà nho, ông vẫn hằng quan tâm đến ý nghĩa “rồng mây gặp hội” đó:
Nền thi lễ cẵng dùi mài,
Tiếng khôi đừng thẹn với mai mới hào.
Duyên lành hẳn đợi giá cao,
Đất bằng sấm đã thơ đào lại ca.
(MĐMK, câu 269 - 272)

Phải thi đỗ thì mới có cơ hội phục vụ cho lí tưởng nhà nho, và cũng phải thi đỗ thì việc phục vụ ấy mới mang lại hiệu năng tốt đẹp.
Vậy thì, với tâm thức nhà nho, Nguyễn Huy Hổ cũng quan niệm con người sinh ra là phải hành động. Lí tưởng hành động của nhà nho là thực hiện cái địa vị chân chính của mình trong vũ trụ. Người ta sinh ra không phải là một cá thể độc lập, mà là sinh ra giữa bao mối dây liên hệ trong tập thể nhân loại. Vì có những mối dây liên hệ đó mà nhà nho tự coi mình có những món nợ cần phải trả: nợ nhà, nợ nước, nợ nhân sinh, vũ trụ. Khi nào những món nợ ấy được trả xong, lúc ấy nhà nho mới tự hào là đã đạt được trọn vẹn chữ “công danh”; và chỉ khi nào đã đạt được trọn vẹn ý nghĩa đó, nhà nho mới đáng mặt “anh hùng” giữa trần thế:

Kiếp trần dây dướng dường này,
Lửa hương chờ đợi đến tay anh hùng.
(MĐMK, câu 263 - 264)

Chữ “lửa hương” là chỉ cho hạnh phúc đầm ấn của vợ chồng. Ở đây, chúng ta có thể coi đó là thứ hạnh phúc chân thật, vẹn toàn, là phần thưởng quí giá chỉ dành riêng cho bậc anh hùng – là kẻ đã thực hiện đầy đủ địa vị chân chính của mình trong xã hội, đã thành công trọn vẹn trong sứ mạng “kinh bang tế thế”. Lúc đó kẻ sĩ mới thảnh thơi thả tâm hồn vào cuộc sống xuất trần xuất thế, hưởng lấy cái hạnh phúc trọn vẹn mà trời đất đã dành cho:

Hồn mai còn nhớ đình Mai,
Cảnh quen hẳn chẳng lạ người quen đâu,
Còn non còn nước còn lâu,
Còn câu thơ ấy là câu sấm rồi.
(MĐMK, câu 275 - 278)

Ở nơi con người Nguyễn Huy Hổ, mặc dù chúng ta không được thấy rõ cuộc đời hành động tích cực để thực hiện lí tưởng nhà nho như Nguyễn Công Trứ đã thực hiện, nhưng trong lòng, chúng ta vẫn thấy ông có mang hoài bão đó. Trong thâm tâm, ông vẫn hằng ôm ấp một lí tưởng phụng sự, và đã bộc lộ tâm sự ấy trong tác phẩm như ta đã thấy. Cuối cùng ông cũng đã thể hiện được hoài bão đó trong đời sống bằng một hành động cụ thể là ra nhận một công việc ở tòa Khâm-thiên-giám do lệnh triệu dụng của vua Minh Mạng, khi ông đã 40 tuổi. Đó là một đặc điểmchúng ta có thể nói rằng, Nguyễn Huy Hổ đã sống đúng theo nếp sống lí tưởng của các sĩ phu trí thức thông đạt lẽ xuất xử, biết tùy thời cơ mà tiến thoái kịp lúc; khác với thái độ cố chấp cực đoan của một số người: hoặc vì quá hăng say chạy theo hai chữ công danh đến nỗi phải bị thân bại danh liệt trong đọa đày dục vọng; hoặc vì quá bi quan yếm thế mà mang nỗi đau đớn chán chường để sống trọn đời mai một nơi hốc núi rừng sâu, chỉ biết thở than trách móc mà không giúp ích gì được cho nhân quần xã hội.
Tóm lại, ở nơi đây, nơi tâm thức nhà nho, chúng ta có thể hiểu thêm một khía cạnh nữa về hình ảnh giai nhân trong giấc mộng Mai Đình bằng cách đặt lại một lần nữa vấn đề: “Tại sao Nguyễn Huy Hổ đã không gặp được giai nhân?”
Như chúng tôi đã một lần nói rằng, hình ảnh giai nhân là tượng trưng cho cái đẹp lí tưởng của nghệ sĩ cần phải đạt được. Nhưng người nghệ sĩ Nguyễn Huy Hổ đã không gặp được giai nhân – nghĩa là đã không đạt được cái đẹp lí tưởng, là bởi vì ông chưa được giải thoát, tâm hồn chưa được thanh tao đúng mức, mà vẫn còn vướng mắc trần tục. Ông còn vướng mắc trần tục là vì với tâm thức nhà nho, ông không thể nào sống thoát tục khi chưa làm xong phận sự nam nhi đối với xã hội nhân sinh; điều đó gần như là kỉ luật khắt khe của các nhà nho chân chính. Hơn nữa, lúc này (năm Kỉ-Tị, 1809) ông mới có 26 tuổi, là thời kì hoạt động tích cực của tuổi trẻ, cho nên việc ông sớm sống ẩn dật là việc không ai có thể chấp nhận, – mà chính ông, ông cũng không chấp nhận điều đó nơi ông được. Ông phải tích cực hoạt động, phải thực hiện hai chữ công danh để chu toàn nợ nam nhi giữa trần thế. Khi nào công đã thành danh đã toại, ông mới có quyền lui về đời sống nghệ sĩ thuần túy, để lại đi tìm giai nhân cùng nối lại lời nguyền “lửa hương” trong cõi thoát trần.

 

Chương 11: Giác và Mê

 

Vậy là giấc mộng đã chấm dứt khi mối duyên tình giữa nghệ sĩ và giai nhân chưa thành tựu. Nhưng dù sao thì mối nhân duyên ấy vẫn không bị cắt đứt, vì mẹ nàng đã hứa hẹn sẽ tác hợp cho hai người khi nào chàng đã thực hiện xong phận sự làm trai. Không biết làm sao hơn, ông đành từ tạ ra về, và đến đó thì vừa tỉnh mộng:

Đương khi từ tạ khúc nôi,
Giang thôn đâu động tiếng còi mục nhi.
Trong thuyền sực tỉnh đòi khi,
Tấc riêng dồn dã khôn suy tin ngờ,
Nào đình, nào khách, nào thơ,
Bấy giờ hồ điệp, bây giờ Trang sinh.
(MĐMK, câu 279 - 284)

Cái khoảnh khắc ở lúc vừa tỉnh mộng là lúc người ta đang ở trong trạng thái tâm lí nửa tỉnh nửa mê giữa thực và mộng. Lúc đó, những hình ảnh mộng chưa tan hẳn, nhưng đồng thời những hình ảnh thực cũng bắt đầu hiện ra trước mắt. Nguyễn Huy Hổ lúc đó, với thính giác trong mộng, ông vừa nghe những lời nói cuối cùng của vị phu nhân khuê các, mà đồng thời, với thính giác thức tỉnh, ông cũng vừa nghe được tiếng còi mục đồng nổi lên trong buổi sớm mai. Cho nên lúc vừa mở mắt ra, ông vẫn đang ở trạng thái nửa tin nửa ngờ, nửa hư nửa thực; có lẽ ông còn đang đảo mắt nhìn quanh để xem lại nào đình, nào giai nhân, nào bài thơ xướng họa đang còn đâu đây...
Nhưng rồi cái khoảnh khắc ấy cũng qua đi, ông đã hoàn toàn tỉnh hẳn, lúc đó mới biết rõ là mình vừa đã trải qua một giấc mộng, và hẳn là có sự phân biệt giữa thực và mộng, và hẳn là có sự phân biệt giữa MỘNG và THỰC:

Bấy giờ hồ điệp, bây giờ Trang sinh.
(MĐMK, câu 284)

Trong lúc mộng thì hình ảnh cứ tuần tự diễn ra, Nguyễn Huy Hổ vừa là diễn giả vừa là khán giả, hoàn toàn say mê trong cảnh với trạng thái vô tư lự. Bây giờ tỉnh mộng ông mới trở lại sống với ý thức bình thường, với bao nỗi suy tư lo lắng, tính cách vô tư lúc mộng đã không còn nữa.
Ông đã suy tư ngay về chính thân phận mình mà ông cho là đã không may mắn nên mới sinh nhằm thời buổi loạn lạc, trong hoàn cảnh oái oăm:

Cũng trong hai chữ chung tình,
Sao người thường bấy, mà mình quái thay!
Tài tình xem lại xưa nay,
Kiếp người may với chẳng may cũng nhiều.
(MĐMK, câu 285 - 288)

Chữ “chung tình” tác giả dùng ở đây được hiểu như là mối ân tình sâu đậm giữa dòng họ ông đối với nhà Lê. Mối ân tình giữa gia đình ông với nhà Lê thì cũng giống như những gia đình cựu thần khác đối với nhà Lê, có gì khác nhau đâu? Nhưng ở đây ông đã đặt thành vấn đề để suy nghĩ, vì có sự oái oăm nào đó cho trường hợp của ông. Có lẽ ông đã nghĩ đến những vị cựu thần nhà Lê khác không gặp hoàn cảnh ngang trái như ông: hoặc họ đã thuộc hẳn về quá khứ, trọn vẹn được phục vụ dưới triều Lê, bây giờ đã là lúc nghỉ ngơi, dưỡng già, không có gì dính dáng tới triều Nguyễn; hoặc có người quá cố chấp, cứ khư khư ôm niềm hoài Lê mà dứt khoát không nghĩ đến việc lập công danh dưới tân triều; hoặc có người thì hăng hái ra hợp tác với tân triều, không cần suy nghĩ gì cả. Cả ba hạng người trên đều có hoàn cảnh nhất định, thái độ dứt khoát, cho nên không cảm thấy thắc mắc, khó nghĩ trong hành động của họ. Riêng Nguyễn Huy Hổ thì không thản nhiên như họ được.
Chúng ta thấy tình trạng tâm lí của ông đang bị bất ổn bởi nhiều lí do ngang trái:
Trước hết, vì mang tâm trạng chán chường trước sự thế đổi thay, cho nên ông chỉ muốn sống đời ẩn dật. Ông đã không dự các khoa thi để khỏi phải thi thố tài năng với đời. Nhưng đồng thời, với lí tưởng hành động của truyền thống nho gia, ông lại không có quyền hưởng nhàn khi nợ nam nhi chưa trả xong. Vậy chúng ta thấy rõ là có hai khuynh hướng xuất thếnhập thế đang dằn co trong tâm hồn ông lúc bấy giờ.
Thứ nữa, ông đã sinh ra và trưởng thành trong khoảng Lê-mạt - Nguyễn-sơ. Dù cho hình ảnh những ông vua Lê thời mạt vận không tốt đẹp gì để cho tầng lớp sĩ phu luyến tiếc, nhưng Nguyễn Huy Hổ cũng không thể quên được ân đức nhà Lê, vì chính ông cũng đã rất hãnh diện về dòng dõi của mình đã từng được vinh hiển, rạng rỡ dưới triều Lê. Vậy, với luân lí nhà nho bảo rằng “trung thần bất sự nhị quân”, thì Nguyễn Huy Hổ có thể cộng tác với tân triều không? Nếu cộng tác thì sợ mang tiếng là “bất trung” với chúa cũ; mà không cộng tác thì không chu toàn được lí tưởng hành động của nhà nho. Bề nào cũng thật khó xử! Đó là thế “tấn thối lưỡng nan” đang dằn vặt trong tâm hồn Nguyễn Huy Hổ:

Cuộc đời mây nổi nước triều,
Tình bao nhiêu, nợ bấy nhiêu, hay gì.
(MĐMK, câu 289 - 290)

“Tình” đây là tình nhà Lê, và “nợ” đây là nợ nam nhi tang bồng hồ thỉ. Cả hai bên – tình và nợ – đều nặng nề mà chắc chắn là ông phải gánh vác cả trên vai.
Sự giằng co giữa “tình” và “nợ” đó, có lẽ đã làm cho ông mỏi mệt, và ông muốn quên nó đi chăng? Có thể là ông muốn gạt bỏ cái tâm trạng đó đi để tìm sự yên tĩnh cho trí óc, nhưng ác hại thay, nó đã không thể nào bị gạt ra khỏi con người ông được, mà đã lắng đọng vào tiềm thức để rồi lại hiện ra rõ ràng trong giấc mộng Mai Đình.
Nội dung giấc mộng đã truyền đạt cho ông một thông điệp thật minh bạch: “Ông có quyền sống ẩn dật với cái đẹp lí tưởng của nghệ sĩ, nhưng ngay bây giờ thì chưa thể được, vì chưa trả xong nợ đời. Ông phải nhập thế hành động để thực hiện trọn vẹn phận sự làm trai. Khi nào công thành danh toại mới được quyền an nhàn vô sự.”
Vậy là, điều ông muốn quên đi đã không thể quên được. Bằng giấc mộng Mai Đình, tiềm thức của chính ông đã báo cho ông biết trước, trong tương lai sắp đến ông phải làm gì, – cũng như Đạm Tiên đã báo cho Thúy Kiều biết trước cuộc đời bạc mệnh mà nàng sẽ phải chịu đọa đày suốt 15 năm sau đêm nằm mộng.
Vì thế, giấc chiêm bao đã làm cho Nguyễn Huy Hổ bàng hoàng:

Lấy điều mộng ảo mà suy,
Một thì là giác, hai thì là mê;
Mê chăng một phút đi về,
Giác thì duyên ấy còn ghê sau này.
(MĐMK, câu 291 - 294)

Có lẽ trong thâm tâm Nguyễn Huy Hổ vẫn còn e dè với việc lập công danh, cho nên trong giờ phút này ông vẫn còn cố lẩn tránh bức thông điệp của tiềm thức mà ông vừa nhận được qua giấc mơ. Ông không muốn tin hẳn đó là giấc mộng “giác”, mà chẳng qua chỉ là một giấc mộng “mê”. Nếu là “giác” thì mộng là “mộng triệu”, và nếu là “mê” thì mộng ấy chỉ là “mộng mị”. Mộng mị chỉ là một thứ tạp mộng mà bình thường ai cũng có. Nó vô nghĩa, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống; chẳng qua nằm ngủ thì có mộng, thức dậy thì hết mộng, chỉ có thế thôi:

Mê chăng một phút đi về.
(MĐMK, câu 293)

Nhưng nếu mộng ấy là mộng triệu thì ý nghĩa thật quan trọng. Mộng triệu là mộng tiên tri, mộng của người giác. Người giác là người có trí tuệ quán thông, thấu suốt mọi việcquá khứ, hiện tại, vị lai; trái lại là người mê, chỉ thấy biết sự việc một cách hạn hẹp và sai sự thật.
Vậy nếu quả thật giấc mộng Mai Đình là giấc mộng “giác” thì chắc chắntiềm thức ông đã báo cho ông biết trước việc mai sau ông phải lập công danh, phải nhập thế hành động. Nội dung giấc mộng đúng thật là một bức thông điệp. Và trong phút chốc ông cảm thấy giật mình vì nghĩ đến con đường trước mặt thật khó khăn, nặng nề:

Giác thì duyên ấy còn ghê sau này.
(MĐMK, câu 294)

Thôi thì cứ tạm nhận bức thông điệp của giấc mơ là như vậy, để rồi còn xem thời cơ sẽ như thế nào mà dần dần giải quyết những mâu thuẫn nội tại cho êm đẹp:

Thấy đây còn biết từ đây,
Bao giờ sao nữa lại hay bấy giờ.
(MĐMK, câu 295-296)

Giấc mộng Mai Đình diễn ra năm Nguyễn Huy Hổ 26 tuổi (1809), và mãi đến khoảng 40 tuỗi (tức khoảng 15 năm sau) ông mới nhận một chức quan nhỏ do vua Minh Mạng ban cho. Thực ra chúng ta không được biết rõ là ông có thi cử và đỗ đạt gì không, chỉ biết rằng, vua Minh Mạng triệu dụng ông vì mến tài chuộng đức của ông. Vả lại, nếu đọc bộ Minh Mạng Chính Yếu (mục “Cầu Hiền”) thì chúng ta biết được chủ trương của vị vua này là cố thu dụng hết các vị hiền tài ra giúp nước, không phân biệt họ là người Nam hay người Bắc, phải hay không phải cựu thần nhà Lê. Có lẽ vì sách lược đó hợp với lòng người nên Nguyễn Huy Hổ đã không thể nào từ chối hợp tác với triều Nguyễn được.
Vậy là ông đã ôm ấp giấc mộng Mai Đình trong 15 năm trời. Trong thời gian đó chắc ông đã nghiền ngẫm hai chữ GIÁC - MÊ. Bây giờ công danh đã lọt vào tay, tự thân đã chính thức nhập thế hành động, ông mới quả quyết rằng, giấc mộng ngày xưa chính là một giấc mộng GIÁC, vì bức thông điệp của giấc mộng nay đã thành sự thật. Rồi nhân vì cảm khái trước sự việc đó mà ông đã viết nên bài tựa cho tập Mai Đình Mộng Kí với câu mở đầu:

“Dư văn chi, hữu đại giác giả phương hữu đại mộng. Vi tai ngôn hồ! Vi tai ngôn hồ!”
(Tôi nghe nói rằng, người có giác lớn mới có mộng lớn. Lời nói ấy thật là mầu nhiệm! – HC dịch)
(MĐMK, bài “Tựa”)

Kiếp sống con người chỉ như một giấc mộng dài. Trong giấc mộng ấy, nếu con người không biết tu dưỡng để trở về chân tính, không biết thanh tao hóa tâm hồn để phải bị đọa đày trong dục vọng khổ đau thì đó là người MÊ, bằng ngược lại thì là người GIÁC. Cho nên, cũng đồng thời sống trong cõi mộng này, nhưng nếu người nào thông đạt được mọi việc, từ việc lớn như lẽ chung thỉ của vũ trụ, đến việc nhỏ như sự sống chết của chúng sinh, hay xa xôi như sự đổi thay, thịnh suy, thành bại từ xưa nay của cuộc đời, thì người đó đúng là bậc giác ngộ. Cho nên bậc giác ngộ không phải đến từ ngoài cuộc sống nhân sinh, mà chính là những kẻ sống ngay trong cuộc đời mộng ảo hay cũng gọi là trần giới này:

“Phù, đại nhi thiên địa chi chung thỉ, tiểu nhi nhân vật chi sinh tử, viễn nhi cổ kim chi thế biến, mộng chi giác dã. Phù như thị, tắc sở vị mộng ảo giả, trần giới giả, nghịch lữ giả, hành khách giả, tư nhân dã, khả dữ ngôn mộng dã dĩ hĩ.”
(Ôi! Lớn như việc chung thỉ của trời đất, nhỏ như việc sinh tử của mọi loài, xa như sự thay đổi xưa nay của cuộc đời, đều là giác trong mộng vậy. Thế thì chỉ có những gì gọi là mộng ảo, là trần giới, là nghịch lữ, là hành khách (1), mới có thể cùng nói chuyện mộng được mà thôi. – HC dịch)
(MĐMK, bài “Tựa”)

Trang Tử gọi người có trí hiểu biết quán thông như vậy là bậc chân nhân. Và “chân nhân” là gì? Trang Tử nói:

“Bậc chân nhân đời xưa không tham sống, không sợ chết. Cho nên lúc ra khỏi trần thế thì không hân hoan, mà lúc vào trần thế thì không chống đối; thản nhiên mà đến, rồi thản nhiên mà đi. Họ không quên cái lúc bắt đầu, nhưng cũng không mong cầu cái lúc sau cùng. Họ vui vẻ chấp nhận sự sinh ra đời, nhưng lại cũng biết quên cái chết để trở về với trời đất. Cho nên bậc chân nhân không dùng cái tâm hẹp hòi của mình để làm trái lẽ Đạo, và không dùng cái ta giả tạo nơi mình mà làm trở ngại thiên tính. Nhờ vậy mà bậc chân nhân lúc nào tâm cũng vô tư, dáng vẻ trầm lặng, gương mặt bình thản; lòng lạnh như mùa thu mà cũng ấm như mùa xuân. Mừng giận đều vô tâm như sự chuyển vận của bốn mùa; cho nên cùng hòa điệu với muôn vật, không biết đâu là cùng.”(2) (HC dịch)

Nhà Phật gọi hạng người này là bậc giác ngộ. Bậc giác ngộ không phải từ bên ngoài vũ trụ mà vào cuộc đời. Họ có mặt từ cuộc đời, ở ngay trong cuộc đời, và nhờ có công năng tu tập chuyên cần, bền bỉ, họ đã chuyển hóa tâm mê thành tâm ngộ, gạn lọc tâm vọng động để sống thường trực với tâm tĩnh lặng. Những bậc đã đạt được tâm tĩnh lặng – tức là tâm Thiền – thì mặc dù vẫn sống, vẫn sinh hoạt trong cõi trần nhưng tâm hồn thì không nhiễm bụi trần, không bị chi phối bởi dục vọng. Họ vẫn ăn uống, vẫn ngủ nghỉ, vẫn đi lại, vẫn làm việc đời, nhưng lúc nào tâm cũng định tĩnh, không xa rời tâm thiền.
Bởi vậy, các bậc gọi là chân nhân (theo Đạo giáo), hay gọi là giác giả (theo Phật giáo), tuy sống trong cõi đời mộng ảo mà tâm thì quán thông quá khứ, hiện tại, vị lai; cho nên nói về tri giác thì họ là bậc đại giác, mà nói về trực giác thì họ là kẻ đại mộng.
Đó là nói một cách tuyệt đối, nhưng họ cũng như mọi người, đều đang sống trong vũ trụ tương đối. Cái tuyệt đối là phần tâm linh tối cao của riêng họ, nhưng khi đã cùng sống chung, cùng sinh hoạt chung trong xã hội tương đối thì họ cũng biết hòa mình trong cái tương đối, – vì họ không thể tách rời cái tương đối để có được cái tuyệt đối. Trong ý nghĩa đó, Nguyễn Huy Hổ đã thu hẹp từ cái
“đại giác, đại mộng” để nói đến cái “tiểu giác, tiểu mộng” của mình:

“Mai Đình Kí kí mộng dã. Mộng chi tiểu giả dã. Tiểu tiểu mộng tất hữu tiểu tiểu giác. Dư thường vị chúng nhân mộng dã, chí nhân giác dã. Y! Dung cự tri ngô chi sở vị mộng giả, vi phi mộng da? Dung cự tri ngô chi sở vị phi mộng giả, vi mộng da? Thử Mai Đình chi kí sở dĩ tác dã.”
(MĐMK, bài “Tựa”)

(Bài Mai Đình Kí này là để chép mộng – một giấc mộng nho nhỏ. Ta thường cho rằng, kẻ tầm thường thì mộng mà bậc thánh nhân thì giác. Nhưng có biết đâu rằng, kẻ ta cho là mộng lại không mộng, mà kẻ ta cho là không mộng lại mộng ư! Vì vậy mà bài kí “Mai Đình” này đã được viết ra. – HC dịch)

Vậy thì sống giữa cõi trần, với con mắt phàm phu, với tri giác hạn hẹp và sai lạc, người ta nhìn sự việc, làm sao biết được đâu là thực, đâu là mộng? Có nhiều trường hợp ta cho là thực lại hóa ra là mộng; trong khi đó, nhiều trường hợp là mộng mà ta lại cho là thực. Như trường hợp giấc mộng của Nguyễn Huy Hổ chẳng hạn, đó thực là mộng hay không phải mộng? Nếu không phải mộng thì tại sao cảnh tượng ấy chỉ đến một cách tình cờ trong giấc ngủ? Nếu thực là mộng thì tại sao nó đã trở thành một bức thông điệp báo trước cuộc đời tương lai của ông? Giác hay mộng, đối với ông vẫn ở trong vòng tương đối, chính ông cũng còn mơ hồ, không xác định được. Bởi vì ông chưa phải là bậc chân nhân để có được chân tri, cũng không đạt được tâm thiền như các vị thiền sư để có được tuệ giác, cho nên ở đây ông chỉ đặt sự liên hệ hỗ tương giữa GIÁC và MỘNG: nếu biết được mộng của ông lớn hay nhỏ thì có thể biết được giác của ông lớn hay nhỏ; và ông kết luận: Giác hay mộng chỉ có bậc “đại giác” mới xác định được:

“Hu ta hồ! Phương kì Phù-thạch quan đăng thời, sơ bất tri kì hữu thủy nguyệt chi du chi thời, hựu yên tri kì hữu Mai Đình chi mộng! Kì mộng dã da? Kì phi mộng dã da? Duy đại giác giả kì chính chư!”
(MĐMK, bài “Tựa”)
(Ôi! Lúc đi xem đèn ở bến Phù-thạch thì đâu có biết trước là sẽ có cuộc đi chơi ở nơi trên nước dưới trăng; lại càng không ngờ là sẽ có giấc mộng Mai Đình! Đó là mộng ư? Đó không phải là mộng ư? Chỉ có bậc đại giác mới biết được. – HC dịch)

Chúng ta biết rằng, giấc mộng Mai Đình xảy ra từ năn 1809, lúc đó ông 26 tuổi; và ông viết bài “Tựa” này sau khi đã ra làm quan – nghĩa là sau 40 tuổi. Vậy ông đã ôm ấp giấc mộng hàng hơn 15 năm; và trong tâm thức, ông đã có sự nhất trí trong suốt hơn 15 năm đó. Cả hình ảnh lẫn ý nghĩa giấc mộng đối với ông thật vô cùng quan trọng, gần như là một tiêu đề suy gẫm cho cuộc đời ông.
Những hình ảnh trong giấc mộng khi xưa vẫn sống động trong tâm hồn ông, khiến nên bây giờ, sau hơn 15 năm, chúng vẫn còn khả năng làm ông rung cảm mãnh liệt để diễn tả thật linh động khi ông viết bài “Tựa”:

“Kỉ Tị xuân, nhân nhật hậu, dư hữu Nam-đường chi du, khánh ngô huynh Chung-sơn học xá thành dã. Đồ trở dĩ vũ, lữ vu Phù-thạch phố chi nghị quyến. Quyến vị chi mệnh chu yên.
Nhật tương tịch, tố lưu Tây thượng. Thanh phong từ lai, thái không vô vân, minh nguyệt tại thiên. Mệnh đồng tử cử tửu tương chúc. Xuân sơn chi yểm ái, xuân thủy chi lục li, xuân quang xuân sắc chi nghi xuân.
Duy tri phù xuân du chi lạc vi khả túy, tằng bất giác phù túy nhi hữu phiên phiên nhiên chi thụy, thụy nhi hữu phiên phiên nhiên, cừ cừ nhiên chi mộng giả da! Kì lai dã nhược vô, kì khứ dã nhược hư. Đãi dữ phong lai sơ trúc, nhạn độ hàn đàm, đồng thị nhất ban, vô hạn lí thú! Mai-đình chi nương tử, thần tứ phiêu nhiên. Thư các chi phu nhân, từ khí lẫm nhiên. Nhược nãi diễm như đào lí, kiên như tùng bách, nồng như thuần dao, đạm như sương tuyết, thiên thái vạn trạng, phi bút trác sở năng tận họa. Dư diệc bất giác kì thần quái chi như tư!”
(Mùa xuân năm Kỉ-Tị, sau ngày khai hạ,(3) tôi đi chơi Nam-đường để mừng anh tôi vừa dựng xong ngôi học xá ở núi Chung-sơn.(4) Giữa đường gặp trời mưa, tôi phải trú lại nhà người bà con ở phố Phù-thạch.(5) Rồi người bà con ấy lại thuê thuyền cho tôi đi.
Trời gần tối. Tôi ngược dòng sông đi lên hướng Tây. Gió mát thổi nhẹ, nền trời xanh không gợn chút mây, trăng sáng vằng vặc. Tôi bảo trẻ rót rượu cùng uống. Núi xuân mờ mờ, nước xuân lóng lánh, cả trăng cùng cảnh xuân đều thích hợp với lòng người.
Ôi, chỉ biết rằng cái thú vui đi chơi xuân có thể làm cho tôi say, nào có biết say mà lại ngủ phơi phới, và ngủ phơi phới mà lại có mộng chập chờn đâu! Đi cũng như không mà lại cũng như không, gần như cùng điệu với gió luồn qua khóm trúc thưa, hay nhạn bay qua đầm lạnh, thật lí thú vô ngần! Người con gái ở đình Mai thì thần tứ nhẹ nhàng, vị phu nhân trong thư các thì phong thái trang nghiêm. Họ diễm lệ như đào lí, rắn rỏi như bách tùng, nồng đượm như rượu ngon, thanh đạm như sương tuyết; thiên hình vạn trạng, không thể dùng bút mà diễn tả cho tận tường được. Chính tôi cũng chẳng biết lúc bấy giờ thần trí của mình ra sao! – HC dịch)

Cuộc đi chơi xuân cùng với hình ảnh giấc mộng năm xưa, hiện tại vẫn làm cho ông say sưa. Từ cơn gió thoảng, ánh trăng trong, cái lung linh của sóng nước, đến hình ảnh diễm kiều của giai nhân, phong thái nghiêm túc của phu nhân, vẫn còn gây xúc cảm nơi ông như chính ông đang sống thực trong khung cảnh đó. Ý nghĩa giấc mộng cũng đã thành đầu đề suy tư, và ông đã nghiền ngẫm qua bao năm trường để mong vỡ lẽ hai chữ GIÁC - MÊ, làm chỉ tiêu cho cuộc đời hành động.
Thế thì Giấc Mộng Đình Mai chắc chắn không phải chỉ là một cơn “mộng mị” đáng bỏ qua như bao nhiêu giấc mộng bình thường khác trong cuộc sống; mà trái lại, đó là một giấc mộng “tiên tri”, một giấc mộng “giác” mà nội dung là cả một bức thông điệp để ông phải suy gẫm trong suốt cuộc đời, hầu tìm một ý nghĩa đích thực liên quan đến chương trình hành động – nhập thếxuất thế – của một nhà nho chân chính theo quan niệm của giới sĩ phu trí thức đương thời. Và trình độ “giác” ở đây cũng hạn hẹp vào vòng công danh xã hội chứ không phải đã đến chỗ VÔ VI hay GIẢI THOÁT.


CHÚ THÍCH

1) Trần giới: hạt bụi và hạt cải (ý nói là rất nhỏ). - Nghịch lữ: nhà trọ, khách trọ (ý nói, chỉ ở một thời gian ngắn rồi đi). - Hành khách: người đi đường, đi xe, đi tàu (ý nói, luôn luôn di chuyển, không ở yên một chỗ).
2) Trích dịch từ sách Trang Tử, thiên “Đại Tông Sư”, Diệp Tuệ Hiểu hiệu đính và dịch ra văn bạch thoại (Hương-cảng: Thật Dụng thư cục, 1961), trang 87.
3) Khai-hạ: ngày Mồng 7 tháng Giêng âm lịch. (Xin xem lại chú thích số 14, chương 4.)
4) Chung-sơn: tên núi, ở làng Chung-cự, huyện Nam-đàn (tức xưa là Nam-đường), tỉnh Nghệ-an.
5) Phù-thạch: phố Phù-thạch ở bờ Nam sông Lam, bến sông ở đó có đá nổi, nên có tên là Phù-thạch.

 

Chương 12: Kết Luận

 

quá tin tưởng vào khả năng khoa học, các triết gia Tây-phương luôn luôn nhìn sự vật bằng con mắt “hợp lí hóa”. Cái gì họ cũng muốn hệ thống hóa với toàn những khái niệm trừu tượng. Cho đến cái “BIẾT” họ cũng cố gắng hệ thống hóa để lập thành khoa “tri thức luận”. Do đó, càng ngày họ càng xa rời thực tại, bỏ quên sự sống. Rốt cuộc, cái BIẾT của triết học Tây-phương đã không thể làm con người thỏa mãn về sự thực đời sống. Cho nên một câu hỏi quan trọng đã được đặt ra: “Vậy thì còn cái BIẾT nào khác?” Và chúng ta không ngần ngại trả lời: Có một lối BIẾT khác với lối biết suy luận của triết gia, đó là lối biết trực giác của NGHỆ SĨ.

Đứng trước sự vật, nghệ sĩ không trừu tượng hóa, không suy luận, không tìm cách hợp lí hóa sự vật, mà họ đào sâu vào cái tri giác đặc thù; vừa đào sâu vừa đẽo gọt, gạn lọc đến độ hoàn toàn vô tư thì họ sẽ đạt được cái tâm hồn phổ quát của một con người phổ quát: đó là con người toàn diện. Hay nói cách khác, nghệ sĩ đã đạt được cái tâm hồn chung bằng sự hiểu biết chính cái bản ngã của mình, chứ không bằng sự tìm kiếm cái gì chưa từng có trong đời sống.

Vậy việc nghiên cứu nguồn cảm hứng của nghệ sĩ, cách cảm hứng ra sao, cũng như theo dõi quá trình biểu diễn của cảm hứng ấy trong tâm hồn và trong tác phẩm của nghệ sĩ là công việc mà nhà phê bình phải cố gắng đạt được. Có như vậy thì sự trình bày cái nguồn xuất phát của văn nghệ mới chân thậtlinh động.

Khi đã đạt được cái tâm hồn chung thì nghệ sĩ mới đạt được mục đích của văn nghệkích thíchtruyền thông tư tưởng, tình cảm của mình sang tâm hồn người khác. Và muốn được như vậy thì nguồn cảm hứng của nghệ sĩ phải thật thâm sâu. Muốn có cảm hứng thì con người phải biết rung động. Và cái gì có thể làm cho tâm hồn ta rung động? Đó là cái ĐẸP!
ĐẸP, hay MĨ CẢM, là thứ tình cảm của con người phát sinh ra khi đứng trước một sự vật khả giác. Nhưng không phải bất cứ sự vật khả giác nào cũng có thể gây ra mĩ cảm. Tất cả những sự vật có tính cách ích dụng cho đời sống đều là những sự vật khả giác, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa vụ lợi, chỉ gây cho con người cái tâm vọng động, làm thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản năng con người. Chúng không phải là đối tượng của mĩ cảm. Chúng chỉ trở thành ĐẸP khi nào chúng có thể làm cho ta yêu quí, say mê, và ta muốn truyền thông cho người khác cùng thưởng thức, lĩnh hội. Vậy một sự vật ĐẸP còn tùy theo tâm lí chủ quan của con người; hay nói cách khác, tâm lí chủ quan phải có mĩ cảm kinh nghiệm thì mới có nguồn cảm hứng cho sáng tạo văn nghệ.
Cho nên, tất cả những biểu hiện của đời sống đều là dục vọng, nhưng ở nghệ sĩ thì dục vọng đã được thăng hoa, vô tư hóa để trở thành nguồn cảm hứng văn nghệ. Tất cả thi ca đều bắt nguồn từ con người. Từ cái TA nhỏ bé đến VŨ TRỤ vô biên, tất cả đều có thể trở nên đề tài trữ tình của nghệ sĩ; – chỉ khác nhau ở chỗ: tùy theo mức độ vô tư hóa của dục vọng cao hay thấp mà phẩm chất văn nghệ trở nên thanh hay trọc. Do đó, chúng ta có thể tìm hiểu chính nội dung bộc lộ của tác phẩm để biết được tâm hồn của tác giả trong hay đục thế nào, đã giải thoát hay vẫn còn vướng bận trần ai...
Theo phương pháp đó, trong các chương trên, chúng tôi đã trình bày những biểu diễn tâm lí của Nguyễn Huy Hổ qua thi phẩm Mai Đình Mộng Kí, và bây giờ chúng tôi xin hệ thống lại ở nơi đây bằng một cái nhìn tổng quát:
Nơi con người Nguyễn Huy Hổ, chúng ta thấy có sự xung đột nội tại giữa hai khuynh hướng trái ngược: một đàng là tâm thức nhà nho muốn hướng ông đến lí tưởng phụng sự xã hội, trả nợ công danh; và đàng khác là tâm hồn nghệ sĩ muốn đưa ông lánh tục để tìm về với cái đẹp thiên nhiên của nghệ thuật.
Với tâm hồn nghệ sĩ, ông muốn xa lánh mọi sự ràng buộc, quên đi mọi thị phi của cuộc đời thế tục để được hưởng cái hạnh phúc giải thoát nơi ĐẠO mà Trang Tử đã vạch ra, như ở thiên “Đại Tông Sư”:

“Nam Bá Tử Quì hỏi Nhữ Võ:
– Tuổi ông đã lớn, nhưng vì sao sắc diện ông vẫn như trẻ thơ vậy?
Nhữ Võ đáp:
– Là vì ta đã đạt được Đạo.
Nam Bá Tử Quì hỏi:
– Đạo có thể học được không?
Nhữ Võ đáp:
– Ồ! Sao lại không được! Nhưng ông đâu phải hạng người ấy! Kìa như ông Bốc Lương Ỷ là người có cái tài của bậc thánh nhân, nhưng lại không có cái đạo của bậc thánh nhân. Tôi thì có cái đạo của bậc thánh nhân nhưng lại không có cái tài của bậc thánh nhân. Tôi muốn đem cái đạo ấy mà giáo hóa ông ta, may ra ông ấy có thể thành bậc thánh nhân chăng. Nếu thế, đã có sẵn cái tài của bậc thánh nhân mà lại đem cái đạo của bậc thánh nhân dạy cho ông ta, thì sự thành công tất sẽ dễ dàng vậy. Nhưng trong khi dạy, tôi phải giữ ông ấy ở luôn bên cạnh để dạy cho thật cặn kẽ. Qua ba ngày thì tâm ông ấy trở nên hư tĩnh, xem thiên hạ như hư không. Sau khi có thể xem được thiên hạ như hư không, tôi lại phải giữ ông ấy bên cạnh luôn bảy ngày thì ông ấy có thể quên hết ngoại vật. Sau khi đã quên hết ngoại vật, tôi lại phải giữ ông ấy bên cạnh luôn chín ngày thì ông ấy có thể quên được hình thể của chính mình. Khi đã quên được hình thể của chính mình thì tinh thần mới thông suốt như không khí yên tĩnh lúc bình minh. Tinh thần có được thông suốt như không khí yên tĩnh lúc bình minh thì mới có thể thấy rõ được cái ĐẠO thuần nhất, tuyệt đối. Đã giác ngộ được cái ĐẠO thuần nhất rồi thì tâm không còn phân biệt có xưa và có nay. Đã không còn phân biệt có xưa có nay thì mới tiến vào cõi không-sống-không-chết.” (1) (HC dịch)

Đấy là sự giải thoát trọn vẹn, là sự sống thuần túy kinh nghiệm mà nghệ sĩ muốn đạt đến thì phải trải qua một công phu tu luyện căn cứ vào thực nghiệm tâm linh chứ không phải bằng tri thức thuần lí. Giai đoạn bắt đầu của cuộc thực nghiệm này là nghệ sĩ phải sống nơi yên tĩnh, xa lánh bụi trần, từ bỏ mọi dục vọng ràng buộc để dễ dàng cho việc thanh tao hóa tâm hồn. Nguyễn Huy Hổ đã theo con đường này, tự giữ mình ở nơi thanh tĩnh, sống ngoài xã hội phồn hoa, thường ngao du sơn thủy để hướng tâm hồn vào nơi cao rộng của thiên nhiên, để hòa đồng cái ta tương đối, hạn hẹp, vào cái ta tuyệt đối, vô cùng.
Nhưng ông có thành công trong con đường giải thoát này không?
Như ở trên chúng ta đã thấy, bên cạnh tâm hồn nghệ sĩ, Nguyễn Huy Hổ còn mang nặng tâm thức nhà nho. Hai khuynh hướng ấy đã là hai thế lực xung đột nội tâm nơi con người ông thuở thiếu thời. Ông thuộc dòng dõi nho gia thì ông ôm ấp lí tưởng hành động – hay mộng công danh – là lẽ tất nhiên. Nhưng một đàng vì chán ngán trước tình hình tao loạn, cuộc thế đổi thay; một đàng vì muốn giữ cái tiết tháo “trung thần bất sự nhị quân”, nên ông đã lẩn tránh công danh mà vui sống cuộc đời ẩn dật; rồi nhân cuộc sống ẩn dật ấy mà muốn quên hẳn cuộc đời, bỏ thiên hạ ra ngoài tâm trí để tìm vào sống trong lẽ ĐẠO thuần nhất như con đường Trang Tử đã vạch ra ở trên.
Mặc dù vậy, cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng vẫn tiềm tàng trong miền sâu thẳm của tiềm thức ông. Cuộc bơi thuyền trên dòng sông Lam trong đêm trăng sáng mùa xuân, giữa bốn bề thiên nhiên yên tĩnh được coi là một dịp nội tỉnh tâm linh, để ông có thể tự đo lường mức độ thanh tao của chính tâm hồn mình. Và kết quả của cuộc nội tỉnh ấy đã cho ông thấy gì?
Cuộc xung đột nội tại vẫn ẩn tàng nơi tiềm thức ông, bây giờ tự đối tượng hóa thành Giấc Mộng Đình Mai. Trong giấc mộng ông được thấy giai nhân. Giữa giai nhân và ông thì “tình trong như đã” qua lời thơ xướng họa, nhưng sự thực thì vẫn còn ngăn cách nghìn trùng!
Giai nhân trong mộng là tượng trưng cho cái đẹp tuyệt đối, cho lí tưởng giải thoát của nghệ sĩ, là hiện thân của “tính trời hồn nhiên”. Ông không được gặp giai nhân tức là ông chưa đủ tư cách hay chưa được phép sống với cái đẹp tuyệt đối hay lí tưởng giải thoát đó. Mà như thế là bởi vì tâm hồn ông chưa được hoàn toàn thanh tao mà vẫn còn vương vấn dục vọng trần gian. Và dục vọng trần gian ở đây là gì? Đó là công danhsự nghiệp nam nhi – tức là con người xã hội của Nguyễn Huy Hổ. Tâm thức nhà nho đã thể hiện qua vai trò vị phu nhân trong mộng mà ông đã cho là “cứng như bách tùng, lạc như sương tuyết”; cho nên mỗi lời nói ra của phu nhân là có giá trị của một lệnh truyền.
Sự xung đột nội tại đến đó là ngả ngũ – và tâm thức nhà nho đã thắng; có nghĩa là ông phải vào đời trả nợ tang bồng, phải thực hiện mộng công danh, phải thành công trong lí tưởng phụng sự xã hội.
Nhưng nếu nhìn sâu hơn nữa vào hoài bão của Nguyễn Huy Hổ, chúng ta sẽ thấy thêm rằng, sự thắng thế của khuynh hướng nhập thế không có nghĩa, đó là một sự thắng thế tuyệt đối của một cá tính cực đoan; vì ông cũng đã quan niệm rằng, nhập thế chỉ là một giai đoạn tất yếu và tất nhiên của một cuộc sống chính đáng, có ý nghĩa. Ông quan niệm sự nhập thế không phải vì tham cầu danh lợi để đắm mình trong bả vinh hoa phú quí; mà hành động nhập thế ấy chỉ có nghĩa là một cuộc tôi luyện bản thân bằng việc tự đày đọa mình trong chốn phong trần – vì càng bị phong trần thì càng dễ trở nên bậc “lão tài” (Nhân bất phong sương vị lão tài).(2) Lấy việc từng trải phong sương để tôi luyện bản thân và coi việc phụng sự xã hội là món nợ mình phải trả, nhà nho đã đem lại cho mình một giá trị cao quí. Rồi khi công danh đã thành tựu, món nợ nam nhi đã trả xong, nhà nho mới có quyền rời xa xã hội phồn hoa để trở về sống với nghệ thuật. Tâm hồn của hành giả lúc đó đã nhẹ nhàng thanh thoát, và nghệ thuật mới thực là thế giới huyền diệu của nghệ sĩ:

Nhà nước yên mà sĩ được ung dung
Bấy gờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Nguyễn Công Trứ

Tóm lại, chúng ta thấy ở con người Nguyễn Huy Hổ, trước tiên có một sự xung đột nội tâm giữa hai khuynh hướng xuất thếnhập thế, bắt nguồn từ Đạo giáoNho giáo. Sự xung đột ấy có vẻ gay go đến nỗi ông không thể giải quyết bằng tri thức, mà phải nhờ đến tiềm thức. Tiềm thức ông đã đưa ra trong giấc mộng một bức thông điệp, một lệnh truyền bao hàm cả một chương trình hành động cho tương lai. Chương trình hành động đó được soi sáng bằng con đường “trung đạo” – tức là tâm Thiền – của đạo Phật, đã dung hòa được cả hai khuynh hướng nhập thếxuất thế ở trên. Sự giải quyết thật ổn thỏa, tạo nên một đời sống quân bình, vô tư; và khi thực hiện được chương trình đó, Nguyễn Huy Hổ sẽ nâng mình lên thành một con người toàn diện, đúng với mẫu mực của một kẻ sĩ chân chính, dung hợp được giữa cái SỐNG CHUNG với cái SỐNG RIÊNG, giữa HỮU VIVÔ VI, giữa CON NGƯỜI TƯƠNG ĐỐI với VŨ TRỤ TUYỆT ĐỐI.
Mai Đình Mộng Kí đã biểu lộ cái quan niệm của Nguyễn Huy Hổ muốn mượn HỒN THƠ để hòa giải giữa hiện thựcsiêu nhiên, giữa tự do và bổn phận.
Khởi hứng từtừ lẽ xuất xử, cảm hứng trước cảnh đẹp rượu say, và biểu diễn thành GIẤC MỘNG ĐÌNH MAI, đó là cả cái tiến trình sáng tạo văn nghệ của Nguyễn Huy Hổ trong thi phẩm Mai Đình Mộng Kí.


CHÚ THÍCH

1) Trích dịch từ sách Tang Tử, thiên “Đại Tông Sư”, Diệp Tuệ Hiểu hiệu đính và dịch ra văn bạch thoại (Hương-cảng: Thật Dụng thư cục, 1961) trang 90-91.
2) Xin xem lại bài thơ chữ Hán của cụ Trần Bích San ở chương 4.

 

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Chín 201508:45
Khách
Xin cam on.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17290)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9563)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8746)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15779)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15404)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18193)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9568)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9605)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18368)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15589)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 8871)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10385)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10163)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9332)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11423)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10041)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 22901)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9561)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17201)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16607)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 18952)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10127)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19360)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9415)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12250)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 11933)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19697)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12659)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13081)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14299)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32316)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12929)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11913)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20710)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40586)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10050)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9531)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 18952)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8800)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8288)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10429)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11654)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30600)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11458)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10412)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 15970)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25525)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10006)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
(Xem: 10366)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant