Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Lịch Sử

05 Tháng Hai 201400:00(Xem: 8292)
Phần 1: Lịch Sử


XỨ TRẦM HƯƠNG

Quách Tấn

 -----oOo-----

 

PHẦN THỨ NHẤT 

LỊCH SỬ

 

Theo những sử liệu hiện hữu thì tỉnh Khánh Hòa ngày nay là phần đất của nước Tây Đồ Di thuở trước, sau khi bị nước Chiêm Thành thôn tính và đổi thành châu Kaut Hara(1)

Tên Cù Huân cổ nhân dùng để gọi Khánh Hòa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại. Tại Nha Trang hiện còn một vùng gọi là Hà Ra. Như vậy tiếng Kaut người Chàm ngày xưa chắc đọc na ná như tiếng Cù Huân hoặc Kaut đọc là Cù còn Huân là tiếng người Việt thêm sau cho đẹp lời.

Tây Đồ Di bị Chiêm Thành đánh lấy lúc nào không rõ, vì sách không thấy chép, còn Kaut Hara trở thành đất nước ta thì giữa thế kỷ thứ XVIII, thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Sử chép rằng:

Năm Quý Tỵ (1653) vua Chiêm Thành là Bà Tranh đem quân sang cướp phá đất Phú Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc cử binh vào đánh dẹp. Bà Tranh đại bại, dâng thư xin hàng. Chúa để phần đất từ sông Phiên Lang tức Phan Rang, trở vào cho vua Chiêm, còn từ Phiên Lang trở ra đến Phú Yên thì chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Đức thuộc phủ Thái Khang.

Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang.

Năm Canh Ngọ (1690), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn đổi tên là phủ Thái Khang ra Bình Khang. Và năm Nhâm Tuất (1742) chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi tên Diên Ninh thành Diên Khánh.

Từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp chúa cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát, trải trên 150 năm, tuy làm chúa một phương, chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu nhà Lê và theo chế độ phương Bắc. Năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, sửa chế độ, định triều nghi, biệt lập thành một nước tự chủ. Nước tuy độc lập nhưng chưa có Quốc Hiệu. Người ngoại bang thường gọi là Quảng Nam Quốc.

Nước của Nguyễn Vương lúc bấy giờ gồm tất cả đất đai của nước Chiêm Thành cũ cộng với nước Thủy Chân Lạp, chạy từ Hoành Sơn đến Cà Mau và chia làm 12 dinh.

Hai phủ Diên Khánh và Bình Khang cùng 5 huyện liên hệ thuộc dinh Bình Khang.

Còn từ sông Phiên Lang trở về thuộc tỉnh Bình Thuận.

Mỗi dinh có một quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục coi việc cai trị.

Lỵ sở Bình Khang vẫn đóng tại đại hạt phủ Bình Khang như thời Thái Thú.

Xứ Kuat Hara từ khi sát nhập vào địa đồ nước ta cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đổi thành dinh Bình Khang, trải gần 100 năm, không xảy ra một biến cố gì quan trọng. Nhưng sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm (1765), Định Vương Nguyễn Phúc Thuần kế nghiệp, thì trong nước sanh loạn lạc. Nhân dân phần bị bọn tham quan ô lại bóc lột, phần bị giặc cướp quấy nhiễu, không ăn yên ở yên, nơi nơi đồ thán.

Năm Tân Mão (1711), tam kiệt đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy nghĩa binh đánh chúa Nguyễn. Lòng người chán nhà Nguyễn Phúc hăng hái theo về nhà Tây Sơn. Nhờ vậy, không mấy lúc, nhà Tây Sơn đã dựng nên nghiệp lớn. Năm Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân chạy vào Gia Định. Những đất đai từ Quảng Nam đến Bình Thuận đều lọt vào tay nhà Tây Sơn.

Nhưng liền đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp từ đất Long Hồ(2) kéo quân ra đánh lấy lại được dinh Bình Thuận và phủ Diên Khánh.

Nguyễn Huệ hay tin cử binh vào đánh Tống Phúc Hạp. Phúc Hạp không đương nổi. Diên Khánh và Bình Thuận trở về nhà Tây Sơn.

Hai năm sau (1776), Nguyễn Huệ đem binh vào lấy thành Gia Định. Định vương Nguyễn Phúc Thuần bị giết. Nhà Tây Sơn làm chúa toàn cõi lãnh thổ của nhà Nguyễn.

Gần 20 năm trời, dinh Bình Khang dưới quyền cai trị nhà Tây Sơn, được yên ổn. Nhân dân an cư lạc nghiệp.

Nhưng sau khi Nguyễn Phúc Ánh được người Pháp giúp đỡ lấy lại được Gia Định rồi, thì can qua nổi dậy.

Năm Quý Sửu (1793) binh Nguyễn Ánh kéo ra đánh nhà Tây Sơn, Nguyễn Văn Thành cùng Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức kéo đại binh đi đường bộ, Nguyễn Phúc Ánh đem chiến thuyền đi đường thủy, kéo vào Bình Khang.

Bộ binh bị chận ở Bình Thuận.

Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá (tức là Phương Sài hiện thời). Hai bên kịch chiến. Người chết thuyền chìm đầy cả khúc sông.

Cuối cùng quân Tây Sơn thất bại phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang.

Chiếm được dinh Bình Khang, Nguyễn Phúc Ánh lo việc phòng thủ. Nhận thấy đại thế phủ Diên Khánh hiểm trở, bèn cho xây thành đào hào tại phủ lỵ để làm tổng hành dinh, và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần bến Trường Cá ở Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt biển(3)

Thành Diên Khánh đắp xong, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Nguyễn Văn Thành trấn thủ. Sau cho Hoàng Tử Cảnh lại ra thay.

Thành đắp kiên cố. Phòng thủ cẩn mật. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu kéo quân vào đánh hai lần, năm Giáp Dần (1794) và năm Ất Mão (1795), mà không hạ được.

Vì vậy từ khi Nguyễn Phúc Ánh đắp thành Diên Khánh thì dinh Bình Khang vĩnh viễn thuộc về nhà Nguyễn.

Năm Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất lãnh thổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long và đặt quốc hiệu là Việt Nam. Việc nước được sửa sang mọi mặt. Lãnh thổ Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chia làm 4 doanh và 23 trấn.

Dinh Bình Khang đổi làm trấn Bình Hòa. Phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Dinh quan trấn thủ đóng tại thành Diên Khánh.

Đến thời Minh Mạng thứ 12 tức là năm Tân Mão (1831), theo chế độ Trung Hoa, Trấn đổi thành Tỉnh. Trấn Bình Hòa đổi thành tỉnh Khánh Hòa. Diên Khánh vẫn được dùng làm tỉnh lỵ.

Còn phủ huyện, thì phủ bình Hòa đổi thành phủ Ninh Hòa, và sáp nhập huyện Hòa Châu vào huyện Phước Điền. Thành ra tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ gồm 2 phủ và 4 huyện.

Lo việc cai trị trong tỉnh có quan Bố Chánh Sứ và Án Sát Sứ đặt dưới quyền quan Tuần Vũ còn hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa, gọi là Thuận Khánh Tuần Vũ. Còn ở phủ huyện thì có quan Tri phủ, Tri huyện.

Từ đời Gia Long (1802-1820) đến cuối đời Tự Đức (1847-1883), ở Khánh Hòa không xảy ra việc gì quan trọng. Nhân dân được yên ổn làm ăn. Nhưng sau khi bọn thực dân Pháp để chân lên lãnh thổ Việt Nam, thì Khánh Hòa cũng như các tỉnh khác thường xảy ra những cuộc đổ máu.

Năm Ất Dậu (1885), Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, các sĩ phu Bắc Nam đều hưởng ứng.

Ở Khánh Hòa, ông Trịnh Phong ở Phú Vinh (Vĩnh Xương), ông Trần Đường ở Hiền Lương (Vạn Ninh) và ba anh em ông Nguyễn Khanh ở Võ Cạnh (Vĩnh Xương), chiêu mộ hào kiệt, ứng nghĩa Cần vương chống Pháp.

Ông Trần Đường giữ mặc Bắc, đóng binh tại đèo Dốc Thị. Ông Trịnh Phong giữ mặt Nam, chia binh làm hai đạo, một đóng ở Diên Khánh, một đóng trên hòn Trại Thủy ở bến Trường Cá Nha Trang. Còn ba anh em ông Nguyễn Khanh lo việc tiếp tế cho toàn thể nghĩa binh.

Mùa thu năm Ất Dậu (1885), quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang. Nghĩa binh do Trịnh Phong chỉ huy chận đánh. Tuy chỉ có hỏa mai giáo sào, song nhờ tinh thần bất khuất, nghĩa quân chiến đấu anh dũng, chận không cho quân địch tiến lên Diên Khánh. Nhưng rồi gươm giáo không địch nổi cùng súng trường, đại bác, nghĩa quân phải rút về Diên Khánh giữ thành. Quân Pháp kéo đến tấn công thành kịch liệt. Nghĩa quân ra sức chống giữ. Cứ ban ngày thì đóng chặt cổng thành ở trên bắn xuống không cho địch đến gần, còn ban đêm thì lẻn ra đánh úp.

Khi mới khởi nghĩa thì các quan Tỉnh, Phủ, Huyện đều theo nghĩa binh. Nhưng được ít lâu họ nhận thấy địch quá mạnh không thể thắng nổi, bèn lén ra đầu giặc. Bao nhiêu cơ mật trong thành đều bị tiết lộ!

Địch bèn đắp ụ đất ở ngoài thành, rồi kê súng đại bác bắn vào. Các kho thuốc súng bị bắn cháy. Nghĩa binh không chịu nổi sức công phá, phải bỏ thành, theo đường núi ra giữ mặt Bắc cùng Trần Đường.

Trần Đường chia quân ngăn các đường bộ. Trịnh Phong xuống trấn tại Hòn Khói để chặn mặt biển.

Quân Pháp lập cơ sở ở Nha Trang và Diên Khánh xong, kéo quân ra đánh mặt Bắc. Nhờ thế núi sông và sức ủng hộ của toàn dân, nghĩa quân cầm cự cùng địch bằng những trận du kích chớp nhoáng. Để thêm sức mạnh, nghĩa quân Khánh Hòa liên tiếp cùng nghĩa quân Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định thành một khối. Nhờ vậy và gần hai năm trời chiến đấu bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân đã làm cho quân địch khiếp phục lòng dũng cảm, đức hy sinh của dân tộc Việt Nam trong nhiều trận kịch chiến.

Đầu thu năm Bính Tuất (1886), viên công sứ Aymonier, viên thiếu Tá De Lorme cùng tên việt gian Trần Bá Lộc từ Saigon kéo đại binh ra đánh.

Trần Bá Lộc là một tên gian xảođộc ác. Một mặt va thảm sát lương dân để khủng bố tinh thần kháng chiến, một mặt mua chuộc bọn mãi nước cầu vinh để dò biết mật khu và cơ sở kháng chiến. Rồi đem toàn lực quân đội bao vây công kích. Quân Pháp đã đông lại đầy đủ binh khí tân chế, cứ nhắm những chỗ hiểm yếu mà tấn công. Nghĩa quân đem hết tinh thầnnăng lực ra chiến đấu. Nhưng lực lượng của địch quá mạnh, nghĩa quân chỉ chống cự được hơn hai tháng thì bị đại bại. Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh tuẫn quốc. Các bạn đồng chí lớp bị giết lớp bị tù đày. Còn binh lính những người còn sống đều bị Trần Bá Lộc bị bắt giết(4).

Thế là phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa chấm dứt, và nền đô hộ Pháp xây cao.

Cũng như các tỉnh Trung kỳ, Khánh Hòa nằm dưới hai ách cai trị: Chánh phủ Pháp và Chánh phủ Nam Triều.

Cấp chỉ huy tỉnh thuộc Nam Triều gồm có Tuần Vũ, Án Sát, coi việc hành chánhtư pháp, và Lãnh binh coi việc canh gác các cơ quan cùng giữ an ninh trật tự trong tỉnh. Lỵ sở đóng tại thành Diên Khánh.

Cơ quan lãnh đạo Pháp gồm có Chánh Sứ, Phó Sứ và Giám binh, đóng tại Nha Trang.

Nhân dân gọi cơ quan chỉ huy Pháp là Tòa, cơ quan Nam Triều là Tỉnh. Và Nha Trang từ ấy trở thành tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa và lần lần mở mang thành thị trấn.

Năm Mậu Tý (1888), vua Đồng Khánh trích huyện An Phước cùng 7 xã của huyện Tuy Phong và hai tổng của huyện Hòa Đa ra khỏi tỉnh Bình Thuân, và đem tháp nhập vào huyện Vĩnh Xương. Nhưng 10 năm sau, là năm Thành Thái thứ 13 (1901), các phần đất trên lại tách ra khỏi Khánh Hòa để thêm vào đạo Ninh Thuận mới thành lập.

Sau đó còn nhiều đổi thay về ranh giới, về lỵ sở và về danh hiệu của các phủ huyện. Song không có ảnh hưởng đến đời sống nhân dân bao lăm.

Và suốt thời Pháp thuộc ở Khánh Hòa không xảy ra những vụ đổ máu người Việt Nam yêu nước như ở các tỉnh miền ngoài.

Duy năm Mậu Thân (1908), người Khánh Hòa phải chứng kiến một việc thương tâm do Nam Triều tác nghiệt.

Đó là việc nhà chí sĩ Trần Quý Cáp phát động phong trào canh tân trong hàng trí thức, bị bọn quan lại của Triều đình Huế kết án tử hình và hành quyết tại cầu Sông Cạn (Diên Khánh). Việc nầy đã gieo trong lòng người dân yêu nước tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh bạn, một mối hận nghìn thu. Cho nên khi Nhân dân có quyền liền lấy tên nhà chí sĩ đặt tên cho một con đường trong thành phố Nha Trang chạy ngay trước nhà viên Tuần Vũ đã hãm hại người hiền.

Năm Tân Tỵ (1941), Nhật đem quân đến đóng Nha Trang, một nhóm nhân sĩ có tâm huyết tổ chức một đảng bí mật hầu lật đổ Thực Dân Phong Kiến. Đảng ấy tên là Việt Nam Ái Quốc Đảng. Nhật muốn lợi dụng nên giúp vũ khí và ủng hộ về mặt tinh thần. Hai Chánh phủ Pháp Nam biết, nhưng vì sợ Nhật nên để yên. Song địa bàn hoạt động không được rộng, bởi thiếu người đủ khả năng lãnh đạo, nên không làm được việc gì có lợi cho Tổ Quốc và gây được ảnh hưởng trong nhân dân.

Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945), Việt Minh đứng dậy cướp chánh quyền. Cuộc cướp chánh quyền của Việt Minh không chút khó nhọc, vì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh và quan lại Nam Triều không có binh lực. Nhưng Việt Minh nắm chánh quyền chỉ được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh lấy lại Khánh Hòa.

Năm 1955, Chánh thể Cộng Hòa thành lập trên phần đất Miền Nam Việt Nam. Tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã.

Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krang Ying và Krang Hinh thuộc tỉnh Đarlac được sát nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương.

Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận.

Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thiết lập Thị Xã Cam Ranh.

Hiện nay tỉnh Khánh Hòa còn 6 quận kể từ Nam ra Bắc: Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Khánh Dương.

tình hình trong tỉnh trong mấy năm nay tương đối khá yên ổn hơn tất cả các tỉnh Trung Việt.

Hiện thời, mặc dù ở trong tình thế bất an, nhân dân Khánh Hòa vẫn hăng hái làm ăn, hăng hái góp phần vào công việc xây dựng hòa bình thịnh vượng cho Tổ Quốc nói chung và cho tỉnh nhà nói riêng. Và chiến tranh tuy chưa dứt, nơi thôn quê còn nhiều nơi đồng bào chưa hồi cư, nhưng quang cảnh Khánh Hòa trông đã có phần khởi sắc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28194)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6689)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15388)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8255)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16734)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26978)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15656)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22540)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19463)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18346)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16203)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25635)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12882)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10714)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10031)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10391)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11041)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15229)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10843)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11707)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11245)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10563)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10892)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11403)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11064)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15236)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15712)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11002)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12116)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11045)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21848)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10103)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant