Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Lịch Sử

05 Tháng Hai 201400:00(Xem: 8291)
Phần 1: Lịch Sử


XỨ TRẦM HƯƠNG

Quách Tấn

 -----oOo-----

 

PHẦN THỨ NHẤT 

LỊCH SỬ

 

Theo những sử liệu hiện hữu thì tỉnh Khánh Hòa ngày nay là phần đất của nước Tây Đồ Di thuở trước, sau khi bị nước Chiêm Thành thôn tính và đổi thành châu Kaut Hara(1)

Tên Cù Huân cổ nhân dùng để gọi Khánh Hòa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại. Tại Nha Trang hiện còn một vùng gọi là Hà Ra. Như vậy tiếng Kaut người Chàm ngày xưa chắc đọc na ná như tiếng Cù Huân hoặc Kaut đọc là Cù còn Huân là tiếng người Việt thêm sau cho đẹp lời.

Tây Đồ Di bị Chiêm Thành đánh lấy lúc nào không rõ, vì sách không thấy chép, còn Kaut Hara trở thành đất nước ta thì giữa thế kỷ thứ XVIII, thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Sử chép rằng:

Năm Quý Tỵ (1653) vua Chiêm Thành là Bà Tranh đem quân sang cướp phá đất Phú Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc cử binh vào đánh dẹp. Bà Tranh đại bại, dâng thư xin hàng. Chúa để phần đất từ sông Phiên Lang tức Phan Rang, trở vào cho vua Chiêm, còn từ Phiên Lang trở ra đến Phú Yên thì chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Đức thuộc phủ Thái Khang.

Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang.

Năm Canh Ngọ (1690), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn đổi tên là phủ Thái Khang ra Bình Khang. Và năm Nhâm Tuất (1742) chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi tên Diên Ninh thành Diên Khánh.

Từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp chúa cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát, trải trên 150 năm, tuy làm chúa một phương, chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu nhà Lê và theo chế độ phương Bắc. Năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, sửa chế độ, định triều nghi, biệt lập thành một nước tự chủ. Nước tuy độc lập nhưng chưa có Quốc Hiệu. Người ngoại bang thường gọi là Quảng Nam Quốc.

Nước của Nguyễn Vương lúc bấy giờ gồm tất cả đất đai của nước Chiêm Thành cũ cộng với nước Thủy Chân Lạp, chạy từ Hoành Sơn đến Cà Mau và chia làm 12 dinh.

Hai phủ Diên Khánh và Bình Khang cùng 5 huyện liên hệ thuộc dinh Bình Khang.

Còn từ sông Phiên Lang trở về thuộc tỉnh Bình Thuận.

Mỗi dinh có một quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục coi việc cai trị.

Lỵ sở Bình Khang vẫn đóng tại đại hạt phủ Bình Khang như thời Thái Thú.

Xứ Kuat Hara từ khi sát nhập vào địa đồ nước ta cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đổi thành dinh Bình Khang, trải gần 100 năm, không xảy ra một biến cố gì quan trọng. Nhưng sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm (1765), Định Vương Nguyễn Phúc Thuần kế nghiệp, thì trong nước sanh loạn lạc. Nhân dân phần bị bọn tham quan ô lại bóc lột, phần bị giặc cướp quấy nhiễu, không ăn yên ở yên, nơi nơi đồ thán.

Năm Tân Mão (1711), tam kiệt đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy nghĩa binh đánh chúa Nguyễn. Lòng người chán nhà Nguyễn Phúc hăng hái theo về nhà Tây Sơn. Nhờ vậy, không mấy lúc, nhà Tây Sơn đã dựng nên nghiệp lớn. Năm Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân chạy vào Gia Định. Những đất đai từ Quảng Nam đến Bình Thuận đều lọt vào tay nhà Tây Sơn.

Nhưng liền đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp từ đất Long Hồ(2) kéo quân ra đánh lấy lại được dinh Bình Thuận và phủ Diên Khánh.

Nguyễn Huệ hay tin cử binh vào đánh Tống Phúc Hạp. Phúc Hạp không đương nổi. Diên Khánh và Bình Thuận trở về nhà Tây Sơn.

Hai năm sau (1776), Nguyễn Huệ đem binh vào lấy thành Gia Định. Định vương Nguyễn Phúc Thuần bị giết. Nhà Tây Sơn làm chúa toàn cõi lãnh thổ của nhà Nguyễn.

Gần 20 năm trời, dinh Bình Khang dưới quyền cai trị nhà Tây Sơn, được yên ổn. Nhân dân an cư lạc nghiệp.

Nhưng sau khi Nguyễn Phúc Ánh được người Pháp giúp đỡ lấy lại được Gia Định rồi, thì can qua nổi dậy.

Năm Quý Sửu (1793) binh Nguyễn Ánh kéo ra đánh nhà Tây Sơn, Nguyễn Văn Thành cùng Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức kéo đại binh đi đường bộ, Nguyễn Phúc Ánh đem chiến thuyền đi đường thủy, kéo vào Bình Khang.

Bộ binh bị chận ở Bình Thuận.

Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá (tức là Phương Sài hiện thời). Hai bên kịch chiến. Người chết thuyền chìm đầy cả khúc sông.

Cuối cùng quân Tây Sơn thất bại phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang.

Chiếm được dinh Bình Khang, Nguyễn Phúc Ánh lo việc phòng thủ. Nhận thấy đại thế phủ Diên Khánh hiểm trở, bèn cho xây thành đào hào tại phủ lỵ để làm tổng hành dinh, và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần bến Trường Cá ở Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt biển(3)

Thành Diên Khánh đắp xong, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Nguyễn Văn Thành trấn thủ. Sau cho Hoàng Tử Cảnh lại ra thay.

Thành đắp kiên cố. Phòng thủ cẩn mật. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu kéo quân vào đánh hai lần, năm Giáp Dần (1794) và năm Ất Mão (1795), mà không hạ được.

Vì vậy từ khi Nguyễn Phúc Ánh đắp thành Diên Khánh thì dinh Bình Khang vĩnh viễn thuộc về nhà Nguyễn.

Năm Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất lãnh thổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long và đặt quốc hiệu là Việt Nam. Việc nước được sửa sang mọi mặt. Lãnh thổ Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chia làm 4 doanh và 23 trấn.

Dinh Bình Khang đổi làm trấn Bình Hòa. Phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Dinh quan trấn thủ đóng tại thành Diên Khánh.

Đến thời Minh Mạng thứ 12 tức là năm Tân Mão (1831), theo chế độ Trung Hoa, Trấn đổi thành Tỉnh. Trấn Bình Hòa đổi thành tỉnh Khánh Hòa. Diên Khánh vẫn được dùng làm tỉnh lỵ.

Còn phủ huyện, thì phủ bình Hòa đổi thành phủ Ninh Hòa, và sáp nhập huyện Hòa Châu vào huyện Phước Điền. Thành ra tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ gồm 2 phủ và 4 huyện.

Lo việc cai trị trong tỉnh có quan Bố Chánh Sứ và Án Sát Sứ đặt dưới quyền quan Tuần Vũ còn hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa, gọi là Thuận Khánh Tuần Vũ. Còn ở phủ huyện thì có quan Tri phủ, Tri huyện.

Từ đời Gia Long (1802-1820) đến cuối đời Tự Đức (1847-1883), ở Khánh Hòa không xảy ra việc gì quan trọng. Nhân dân được yên ổn làm ăn. Nhưng sau khi bọn thực dân Pháp để chân lên lãnh thổ Việt Nam, thì Khánh Hòa cũng như các tỉnh khác thường xảy ra những cuộc đổ máu.

Năm Ất Dậu (1885), Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, các sĩ phu Bắc Nam đều hưởng ứng.

Ở Khánh Hòa, ông Trịnh Phong ở Phú Vinh (Vĩnh Xương), ông Trần Đường ở Hiền Lương (Vạn Ninh) và ba anh em ông Nguyễn Khanh ở Võ Cạnh (Vĩnh Xương), chiêu mộ hào kiệt, ứng nghĩa Cần vương chống Pháp.

Ông Trần Đường giữ mặc Bắc, đóng binh tại đèo Dốc Thị. Ông Trịnh Phong giữ mặt Nam, chia binh làm hai đạo, một đóng ở Diên Khánh, một đóng trên hòn Trại Thủy ở bến Trường Cá Nha Trang. Còn ba anh em ông Nguyễn Khanh lo việc tiếp tế cho toàn thể nghĩa binh.

Mùa thu năm Ất Dậu (1885), quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang. Nghĩa binh do Trịnh Phong chỉ huy chận đánh. Tuy chỉ có hỏa mai giáo sào, song nhờ tinh thần bất khuất, nghĩa quân chiến đấu anh dũng, chận không cho quân địch tiến lên Diên Khánh. Nhưng rồi gươm giáo không địch nổi cùng súng trường, đại bác, nghĩa quân phải rút về Diên Khánh giữ thành. Quân Pháp kéo đến tấn công thành kịch liệt. Nghĩa quân ra sức chống giữ. Cứ ban ngày thì đóng chặt cổng thành ở trên bắn xuống không cho địch đến gần, còn ban đêm thì lẻn ra đánh úp.

Khi mới khởi nghĩa thì các quan Tỉnh, Phủ, Huyện đều theo nghĩa binh. Nhưng được ít lâu họ nhận thấy địch quá mạnh không thể thắng nổi, bèn lén ra đầu giặc. Bao nhiêu cơ mật trong thành đều bị tiết lộ!

Địch bèn đắp ụ đất ở ngoài thành, rồi kê súng đại bác bắn vào. Các kho thuốc súng bị bắn cháy. Nghĩa binh không chịu nổi sức công phá, phải bỏ thành, theo đường núi ra giữ mặt Bắc cùng Trần Đường.

Trần Đường chia quân ngăn các đường bộ. Trịnh Phong xuống trấn tại Hòn Khói để chặn mặt biển.

Quân Pháp lập cơ sở ở Nha Trang và Diên Khánh xong, kéo quân ra đánh mặt Bắc. Nhờ thế núi sông và sức ủng hộ của toàn dân, nghĩa quân cầm cự cùng địch bằng những trận du kích chớp nhoáng. Để thêm sức mạnh, nghĩa quân Khánh Hòa liên tiếp cùng nghĩa quân Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định thành một khối. Nhờ vậy và gần hai năm trời chiến đấu bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân đã làm cho quân địch khiếp phục lòng dũng cảm, đức hy sinh của dân tộc Việt Nam trong nhiều trận kịch chiến.

Đầu thu năm Bính Tuất (1886), viên công sứ Aymonier, viên thiếu Tá De Lorme cùng tên việt gian Trần Bá Lộc từ Saigon kéo đại binh ra đánh.

Trần Bá Lộc là một tên gian xảođộc ác. Một mặt va thảm sát lương dân để khủng bố tinh thần kháng chiến, một mặt mua chuộc bọn mãi nước cầu vinh để dò biết mật khu và cơ sở kháng chiến. Rồi đem toàn lực quân đội bao vây công kích. Quân Pháp đã đông lại đầy đủ binh khí tân chế, cứ nhắm những chỗ hiểm yếu mà tấn công. Nghĩa quân đem hết tinh thầnnăng lực ra chiến đấu. Nhưng lực lượng của địch quá mạnh, nghĩa quân chỉ chống cự được hơn hai tháng thì bị đại bại. Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh tuẫn quốc. Các bạn đồng chí lớp bị giết lớp bị tù đày. Còn binh lính những người còn sống đều bị Trần Bá Lộc bị bắt giết(4).

Thế là phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa chấm dứt, và nền đô hộ Pháp xây cao.

Cũng như các tỉnh Trung kỳ, Khánh Hòa nằm dưới hai ách cai trị: Chánh phủ Pháp và Chánh phủ Nam Triều.

Cấp chỉ huy tỉnh thuộc Nam Triều gồm có Tuần Vũ, Án Sát, coi việc hành chánhtư pháp, và Lãnh binh coi việc canh gác các cơ quan cùng giữ an ninh trật tự trong tỉnh. Lỵ sở đóng tại thành Diên Khánh.

Cơ quan lãnh đạo Pháp gồm có Chánh Sứ, Phó Sứ và Giám binh, đóng tại Nha Trang.

Nhân dân gọi cơ quan chỉ huy Pháp là Tòa, cơ quan Nam Triều là Tỉnh. Và Nha Trang từ ấy trở thành tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa và lần lần mở mang thành thị trấn.

Năm Mậu Tý (1888), vua Đồng Khánh trích huyện An Phước cùng 7 xã của huyện Tuy Phong và hai tổng của huyện Hòa Đa ra khỏi tỉnh Bình Thuân, và đem tháp nhập vào huyện Vĩnh Xương. Nhưng 10 năm sau, là năm Thành Thái thứ 13 (1901), các phần đất trên lại tách ra khỏi Khánh Hòa để thêm vào đạo Ninh Thuận mới thành lập.

Sau đó còn nhiều đổi thay về ranh giới, về lỵ sở và về danh hiệu của các phủ huyện. Song không có ảnh hưởng đến đời sống nhân dân bao lăm.

Và suốt thời Pháp thuộc ở Khánh Hòa không xảy ra những vụ đổ máu người Việt Nam yêu nước như ở các tỉnh miền ngoài.

Duy năm Mậu Thân (1908), người Khánh Hòa phải chứng kiến một việc thương tâm do Nam Triều tác nghiệt.

Đó là việc nhà chí sĩ Trần Quý Cáp phát động phong trào canh tân trong hàng trí thức, bị bọn quan lại của Triều đình Huế kết án tử hình và hành quyết tại cầu Sông Cạn (Diên Khánh). Việc nầy đã gieo trong lòng người dân yêu nước tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh bạn, một mối hận nghìn thu. Cho nên khi Nhân dân có quyền liền lấy tên nhà chí sĩ đặt tên cho một con đường trong thành phố Nha Trang chạy ngay trước nhà viên Tuần Vũ đã hãm hại người hiền.

Năm Tân Tỵ (1941), Nhật đem quân đến đóng Nha Trang, một nhóm nhân sĩ có tâm huyết tổ chức một đảng bí mật hầu lật đổ Thực Dân Phong Kiến. Đảng ấy tên là Việt Nam Ái Quốc Đảng. Nhật muốn lợi dụng nên giúp vũ khí và ủng hộ về mặt tinh thần. Hai Chánh phủ Pháp Nam biết, nhưng vì sợ Nhật nên để yên. Song địa bàn hoạt động không được rộng, bởi thiếu người đủ khả năng lãnh đạo, nên không làm được việc gì có lợi cho Tổ Quốc và gây được ảnh hưởng trong nhân dân.

Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945), Việt Minh đứng dậy cướp chánh quyền. Cuộc cướp chánh quyền của Việt Minh không chút khó nhọc, vì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh và quan lại Nam Triều không có binh lực. Nhưng Việt Minh nắm chánh quyền chỉ được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh lấy lại Khánh Hòa.

Năm 1955, Chánh thể Cộng Hòa thành lập trên phần đất Miền Nam Việt Nam. Tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã.

Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krang Ying và Krang Hinh thuộc tỉnh Đarlac được sát nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương.

Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận.

Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thiết lập Thị Xã Cam Ranh.

Hiện nay tỉnh Khánh Hòa còn 6 quận kể từ Nam ra Bắc: Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Khánh Dương.

tình hình trong tỉnh trong mấy năm nay tương đối khá yên ổn hơn tất cả các tỉnh Trung Việt.

Hiện thời, mặc dù ở trong tình thế bất an, nhân dân Khánh Hòa vẫn hăng hái làm ăn, hăng hái góp phần vào công việc xây dựng hòa bình thịnh vượng cho Tổ Quốc nói chung và cho tỉnh nhà nói riêng. Và chiến tranh tuy chưa dứt, nơi thôn quê còn nhiều nơi đồng bào chưa hồi cư, nhưng quang cảnh Khánh Hòa trông đã có phần khởi sắc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34361)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16872)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22971)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13053)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22187)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23585)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24111)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17146)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27071)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13844)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12681)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13871)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14708)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17200)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12711)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10365)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10704)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16881)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15774)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13343)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12557)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11361)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13031)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19313)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28610)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10053)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12795)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17826)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26236)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11708)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10853)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22749)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12039)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10608)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11411)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11527)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant