Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần C: Kết Luận

22 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10031)
Phần C: Kết Luận


Phần C: KẾT LUẬN

Khoa học không lương tri chỉ là sự tàn lụi của tâm linh. Đó là câu châm ngôn Pháp: “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme ” thường được nhắc nhở đến, mỗi khi người đời gặp tai nạn do khoa học gây nên.

Tuy nhiên, không phải tất cả những phát minh của khoa học đều đem lại khổ đau cho con người. Từ thế kỷ 15, 16 có những phát minh như phát minh về ấn loát, về hơi nước, về điện v.v... đã đem lại rất nhiều lợi ích cho nhân loại, đã làm cho cuộc sống của con người trên quả đất càng thêm tươi đẹp. Do đó chúng ta thấy rằng nếu vì lợi ích chung mà chúng ta áp dụng khoa học để sáng tạo thì đó là tiến bộ về cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, còn nếu vì quyền lợi riêng tư của 1 số ít cá nhân, của 1 số nước mà phát minh những vũ khí giết người hàng loạt thì đó là tàn phá, hỗn loạn, hủy diệt.

Nhưng trên thực tế, dù các tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các nhà hiền triết, từ lâu đã lớn tiếng kêu gọi các lãnh tụ trên thế giới hãy thương yêu nhau, hãy tương trợ lẫn nhau, chiến tranh đến ngày nay vẫn còn lan tràn, hết khu vực này lại sang khu vực khác, ngay trong 1 nước hoặc trong nhiều nước. Đau thương, tang tóc vẫn sờ sờ trước mắt. Như đã nói, bao lâu khổ đau còn dày vò chúng sanh thì pháp Quán Thế Âm còn phải được hành trì liên tục, không gián đoạn. Pháp Quán Thế Âm chính là cứu khổ, cứu nạn, pháp vô úy cần phải được phổ biến khắp nơi, khắp chốn. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì lục căn còn nhiễm lục trần, vì tâm của chúng sanh còn bị nhiễm ô, còn bị cuốn bởi ngoại cảnh.

Nhưng muốn cho lục căn khỏi bị nhiễm ô thì chúng ta phải tu tập pháp nhỉ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là 1 pháp dễ hành nhứt, dễ giúp đạt kết quả nhanh nhứt. Trong 6 căn chỉ có nhỉ căn là căn có nhiều công đức hơn hết, đúng như lời nhận xét của Bồ Tát Văn Thù khi Ngài chọn lấy pháp này làm pháp tu chánh yếu cho chúng sanh mai sau trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La HánBồ Tát.

Nhưng để cho thích hợp với người đời nay, Chân sư chúng tôi không ngần ngại gọi nó dưới 1 cái tên khác, đó là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ. Nói cách khác, đó là pháp nghe như không nghe mà lại nghe như thật, pháp thấy như không thấy mà lại thấy như thật.

Tuy chúng ta sống trong đời, lúc nào cũng nghe, cũng thấy, nhưng chúng ta không khổ, không lo, không sợ, đó là vì chúng ta biết cách nghe, biết cách thấy theo pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu chúng ta không khổ, không lo, không sợ tức là chúng ta đã được giải thoát khỏi các phiền não đang trói buộc người đời. Mà giải thoát được tức là chúng ta đả được an vui và hạnh phúc ngay trong đời này, chớ không cần phải đợi đến lúc lâm chung, lìa bỏ thân xác mới trở về cõi Cực Lạc hay Thiên Đàng để được hưởng hạnh phúc đời đời như các tôn giáo thường dạy.

An vui, hạnh phúc khổ đau, sầu thảm, tất cả đều ở nơi tâm mình. Nếu tâm mình đã vô sở thọ, đã vô trụ rồi thì đâu còn phân biệt an vui hay khổ đau ?

Vì thế mới nói rằng thành tựu được pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ rồi thì chúng ta liền được tự tại, tức là được tự do trong hiện tại, chúng ta liền được an nhiên trước mọi diễn biến của cuộc đời.

Song song với việc hành pháp bất nhiễm như trên, chúng ta còn phải chiếu soi nội tâm để kịp thời giác các tạp niệm và vọng niệm luôn xẹt ra trong đầu.

Áp dụng chơn lý Ngũ uẩn giai không, nói cách khác, vọng tức chơn, chúng ta mới thấu rõ vọng niệm, tạp niệm cũng đều là chơn niệm. Áp dụng thường xuyên chơn lý đó, chúng ta lần hồi sẽ chứng ngộ vô phân biệt trí, bình đẳng tánh trí. Mà chứng ngộ như thế là chúng ta đã hòa nhập được Chơn Như, đã hoàn tất lộ trình đi từ Sắc trở về Không.

Lộ trình này tuy dài và khó nhưng chúng ta không nên ngại núi e sông, chúng ta hãy vững tâm từng bước, từng bước tiến lên bằng cách phát huy tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán Thế Âm qua pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Ngài. Chúng ta không cần phải đợi đến khi hòa nhập được Chơn Như hoàn tất lộ trình tu Huệ, mới phát đại nguyện độ sanh, bởi lẽ thế giới, đất nước khổ đau đang chờ đôi bàn tay cứu vớt của chúng ta. Chỉ cần tỏ ngộ được Phật tâm nơi lòng thì chúng ta có thể bắt đầu song tu Phước Huệ. Phước ở đây không phải là báo mà người đời thường mong cầu khi họ bố thí, giúp người, trái lại song tu phước huệ có nghĩa là song tu công đứctrí huệ.

Công đức ở trong Chơn NhưChơn Như thì vô hình, vô tướng, trùm khắp vũ trụ bao la, nên công đức cũng vậy, cũng vô biên, không bờ, không bến, không thể suy lường.

Nhưng muốn tạo dựng công đứctrí huệ, chúng ta phải giữ tâm vô sở thọ, vô trụ khi đối cảnh, đối pháp, khi làm việc hay rảnh rỗi nghĩa là tâm chúng ta lúc nào cũng bình thường, không loạn động.

Mà hễ tâm không loạn động, được bình thường thì huệ khai, trí huệ hiện bày. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tùy duyên ứng phó mọi việc trên đời để đem lại lợi lạc cho người.

Vì thế chúng ta mới thấy rằng công đức tức là trí huệ. Tuy phân tách làm hai nhưng công đứctrí huệ chỉ là 1 mà thôi. Lúc đầu khi chúng ta còn chấp thì việc tu phước chỉ nhằm mục đích hưởng phước báo. Nhưng khi 1 niệm đã ngộ, tâm không còn chấp nữa, thì phước báo năm xưa liền biến thành rừng công đức.

Hành pháp Phổ Môn cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm với tâm vô trụ tức là song tu Phước huệ, song tu công đứctrí tuệ.

Sau cùng, nếu muốn gia tốc việc xây dựng, củng cố và hoàn mãn công đức, chúng ta không thể không hành trì Mật Tông với các câu chú của Bồ Tát. Tùy sở thích, chúng ta có thể trì niệm 1 thần chú mà thôi như thần chú Bát Nhã hay thần chú Chuẩn ĐềThành tựu 1 thần chú tức là chúng ta sẽ thành tựu tất cả bài chú còn lại của Ngài, bởi lẽ lúc đó chúng ta đã có đủ thần lực để có thể thành tựu mọi thần chú khác. Lúc đó lực tâm của chúng ta đã hòa nhập cùng với lực của vũ trụ, cả 2 lực nay thành 1 lực.

Dù không móng tâm mong cầu thần thông, nhưng lúc đó chúng ta có thể diệu dụng Chơn Như, nghĩa là chúng ta có thể hiển bày các đại thần thông tam muội, khó thể nghĩ bàn.

Chúng tôi nghĩ rằng trong thời kỳ đấu tranh dai dẳng như hiện nay, thời kỳnhân loại còn đang chìm đắm trong đau khổ, quyển sách nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho những ai đã nuôi sẵn chí hướng giải khổ cho mình và cho người, chí hướng tự độ và độ tha.
 
 

HẾT.

10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA
NGƯỜI TU ĐẠI THỪA

Người tu Đại Thừa cần phải hiểu biết đúng Phật pháp vì có hiểu biết đúng mới hành động đúng, mà hễ hành đúng thì đạt kết quả đúng, tức là được an vui và hạnh phúc, được giải thoát khỏi các phiền não, khổ lụy ngay trong kiếp sống hiện tại. Do đó, chúng ta cần phải nhớ và thực hành 10 điều căn bản sau đây:

Điều 1. Lìa đời để đi tìm đạo giác ngộ là 1 hành động vô bổ giống như đi tìm sừng thỏ, lông rùa. Vì thế xuất gia tâm cần thiết hơn xuất gia tướng.

Điều 2. Quy y Tam Bảo có nghĩa là nương theo Phật, Pháp, Tăng nơi lòng mình, mà Phật, Pháp, Tăng chínhPháp thân, Báo thânHóa thân, cũng là Giới, Định, Huệ và cũng là Không, vô tướng, vô tác.

Điều 3. Vạn Pháp đều lá Phật pháp, là pháp giải thoát vì chúng hiển thị lẻ diệu của Pháp Hoa. Khi đối cảnh, đối pháp mà mình có cái nhìn bình đẳng, không hai, vô phân biệt, không chấp chánh, tà, lành dữ, vui buồn thì ngay lúc đó tâm mình đã được bình thản, rỗng rang, tự tại thoát khỏi sự lôi cuốn của ngoại cảnh, lục căn của mình không còn nhiễm lục trần. Tâm đó chính là tâm vô trụ nơi các pháp, trong tư duy, lời nóiviệc làm.

Điều 4. Tâm vô trụ, tâm không chỉ có thể thành tựu được khi mình đã thực hành lâu ngày pháp tu nhĩ căn viên thông còn gọi là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ.

Điều 5. Khi tâm đã thật sự vô trụ rồi thì liền đó 4 trọng giới Dâm, Sát, Đạo, Vọng đều vắng lặng, tâm không bị loạn động, luôn ở trong Định bởi lẽ mình đã thâm nhập diệu lý vạn pháp đều không, đều lưu xuất từ chỗ CHƠN KHÔNG MÀ DIỆU HỮU. Giới, Định, Huệ lúc đó được tròn đầy.

Điều 6. Chấp ngã là chấp thân tâm này là Ta thật để rồi suốt đời lao tâm nhọc trí tìm cách củng cố cái Ta và phát triển những gì thuộc về Ta. Muốn dứt trừ tâm chấp ngã, chúng ta cần phải hành chánh niệm tức là thường xuyên trì niệm chơn ngôn hoặc niệm 6 chữ Di Đà.

Chánh niệm không phải chỉ gồm đơn thuần những niệm lành Từ, Bi, Hỉ, Xã, trái lại nó còn có nghĩa là khi khởi niệm tưởng các việc đã qua để làm dữ kiện cho tư duy hiện tại, thì đừng để cho tất tình khởi theo niệm tưởng đó. Như thế mới gọi là niệm mà vô niệm.

Ngoài ra, mình còn phải chánh giác, luôn tỉnh táo để kịp thời biết được các tạp niệm vừa mới xẹt ra trong đầu.

Điều 7. Chánh kiến là tỏ ngộ và thâm nhập 4 đặc tánh Thường hằng, Năng sanh, Chiếu soi và Thanh tịnh của Chơn Như, từ đó mới thấy được vạn pháp như thật, viên dung tướng tánh và không còn mê mờ trước các ảo ảnh, ảo giác của cuộc đời.

Điều 8. Ngồi mãi để trụ tâm, quán tịnh là bệnh, không phải là Thiền. Định, Huệ hay Thiền là chiếu soi nội tâmPháp chiếu soi chính là pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không.

Điều 9. Cần phát huy hạnh nhẩn nhục đối với mọi người vì nó có công năng dứt trừ tâm phân biệt. Đừng bao giờ phản đối, tranh cải với bất cứ ai, đừng chấp chặt ý kiến của mình để áp đặt lên người khác, bởi lẽ những điều thấy, nghe, hay, biết của mình chưa chắc là đúng, mà dù cho có đúng cũng chưa chắc gì được dễ dàng chấp nhận.

Điều 10. Kiến tánh là thấy được ánh sáng của Đạo trong đời sống, thấy được tánh năng sanh, năng hóa của Chơn Như tức là sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của pháp giới nhằm thúc đẩy sự tiến hóa chung của vạn vật và muôn loài chúng sanh.
 
 

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “ 

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

1. Namah Ratnatrayaya. 43.Sara Sara.
2. Namo Arya- 44.Siri Siri.
3. VaLokitesvaraya. 45.Suru Suru.
4. Bodhisattvaya 46.Bodhiya Bodhiya.
5. Mahasattvaya. 47.Bodhaya Bodhaya.
6. Mahakaruniakaya. 48.Maitriya.
7. Om. 49.Narakindi.
8. Sarva Rabhaye. 50.Dharsinina.
9. Sudhanadasya. 51.Payamana.
10.Namo Skrtva i Mom Arya- 52.Svaha.
11.Valokitesvara Ramdhava. 53.Siddhaya.
12.Namo Narakindi. 54.Svaha. 
13.Herimaha Vadhasame. 55.Maha Siddhaya.
14.Sarva Atha. Dusubhum. 56.Svaha.
15.Ajeyam. 57.Siddhayoge
16.Sarva Sadha. 58.Svaraya.
17.Namo Vaga. 59.Svaha.
18.Mavadudhu. Tadyatha. 60.Narakindi
19.Om. Avaloki. 61.Svaha.
20.Lokate. 62.Maranara.
21.Karate. 63.Svaha.
22.Ehre. 64.Sirasam Amukhaya.
23.Mahabodhisattva. 65.Svaha.
24.Sarva Sarva. 66.Sarva Maha Asiddhaya
25.Mala Mala 67.Svaha.
26.Mahe Mahredhayam. 68.Cakra Asiddhaya.
27.Kuru Kuru Karmam. 69.Svaha.
28.Dhuru Dhuru Vajayate. 70.Padmakastaya.
29.Maha Vajayate. 71.Svaha.
30.Dhara Dhara. 72.Narakindi Vagaraya.
31.Dhirini. 73.Svaha
32.Svaraya. 74.Mavari Samkraya.
33.Cala Cala. 75.Svaha.
34.Mamavamara. 76.Namah Ratnatrayaya.
35.Muktele. 77.Namo Arya-
36.Ehe Ehe. 78.Valokites-
37.Cinda Cinda. 79.Varaya
38.Arsam Pracali. 80.Svaha
39.Vasa Vasam 81.Om. Siddhyantu
40.Prasaya. 82.Mantra
41.Huru Huru Mara. 83.Padaya.
42.Huru Huru Hri. 84.Svaha.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

Namo ratnatràyàya. 
Namo Aryà valokiteshvaràya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya. 
Om. Sarva rabhaye Sudhanadàsya. 
Namo Skritva I mom Aryà Valokitesvara Rambhava.
Namo Narakindi Herimahà Vadhàsame.
Sarvà athas Dusubhum ajeyam sarva sarva namovarga Mavàdudhu. Tadyathà.
Om. Avaloki lokite karate.
Ehre, Mahà bodhisattva Sarva Sarva, Mala Mala.
Mahe Mahredhayam kuru kuru karman.
Dhuru Dhuru, vajàyate Mahà vajayate.
Dhara Dhara, Dhirini Svaràya. 
Chala Chala, Mamavamara Muktele 
Ehe Ehe, Cinda Cinda. Arsam prachali. 
Vasa Vasam, prasàya Huru Huru Mara.
Huru Huru Hri, Sara Sara, Siri Siri, Suru Suru.
Bodhiya Bodhiya, Bodhaya Bodhaya. 
Maitreya, Narakindi Dharsinina.
Payamana svaha, Siddhaya svàhà. 
Maha Siddhàya svaha. 
Siddhayoge Svaraya svaha. Narakindi svàhà.
Marànarà svaha. Sirasam Armukhàya svaha. 
Sarva Mahà Asiddhaya svaha. Chakra Asiddhaya svaha. 
Padmakastaya svaha. Narakindi Vagaraya svaha.
Mavari Samkraya svaha. 
Namo Ratnatràyàya. 
Namo Aryàvalokiteshvaraya svaha.
Om, Siddhyantu mantra pàdàya. Svàhà.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Om Ma Ni Pad Me Hum

PHẬT MẨU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
Phần Qui Kính
Khởi thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy Nguyện từ bi thường gia hộ
(1 lạy)
Tâm Chú

Namo saptanam samyak sambodhi Kothinam Tadyatha.
Om chale chole chunde svaha. Bhrum.

KỆ HỒI HƯỚNG

Quán Thế Âm tức Diệu Âm,
Từ Bi cứu khổ che trăm vạn người.
Thế Âm tuy ở xa vời.
Bao trùm khắp cõi như Triều Hải Âm.
Thế Âm cũng tức Phạm Âm.
Yêu thương sanh chúng ngàn năm dạy đời.
Pháp Ngài như ngọc sáng ngời,
Hành trì khuya sớm chẳng dời đổi tâm.
Cốt sao làm chủ hai tâm,
Sanh sanh diệt diệt âm thầm truy ra.
Những mong khắp chốn, khắp nhà,
Phổ Môn tu tập Ta Bà độ sanh.

Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

 

 

Avalokiteshvara Mandala
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm

WP: Nguyên Tín và Tịnh Hương 

Bài Đọc Thêm:
Nguồn gốc tích truyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34360)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16872)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22971)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13052)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21967)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22187)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14866)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23583)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24109)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23641)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17145)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19360)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27070)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14425)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13844)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22691)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14751)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12672)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13870)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10411)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14707)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17200)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12548)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12710)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10364)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28718)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10703)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11135)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16881)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15769)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13342)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12556)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11360)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13028)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19311)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28608)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10052)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21525)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12795)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17825)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26235)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11707)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10852)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22749)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12038)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10607)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11411)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11526)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant